Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

tim hieu giao duc moi truong

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (84.43 KB, 19 trang )

LỜI CẢM ƠN
Bài tập nghiên cứu khoa học là một nhiệm vụ bắt buộc đối với mỗi
sinh viên năm thứ tư hệ sư phạm chính quy. Trong đợt thực tập sư phạm II.
Mỗi bài tập đã hoàn thành là kết quả của quá trình khảo sát thực tế, thu nhập
và xử lý nguồn thông tin.
Trong quá trình làm đề tài này, ngoài sự nỗ lực cố gắng của bản thân,
tôi được sự giúp đỡ tận tình của thầy cô và bạn bè. Tôi xin chân thành cảm
ơn khoa Đòa lý trường ĐH Quy Nhơn. Đặc biệt là cô Nguyễn Thò Huyền đã
hướng dẫn và cung cấp tài liệu cho tôi trong quá trình thực hiện đề tài. Tôi
xin chân thành cảm ơn Trường THPT Nguyễn Trãi nói chung và tập thể lớp
10 và 11 nói riêng, tôi xin cảm ơn các giáo viên đã giúp đỡ, hướng dẫn, góp
ý cho tôi trong quá trình thực hiện đề tài này.
Quy Nhơn, ngày 12 tháng 04 năm 2007
Sinh viên thực hiện đề tài
Phạm Thò Thu
A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Môi trường hiện nay đang ngày càng trở thành vấn đề gay gắt của toàn
nhân loại, khi mà con người ngày càng phải đối mặt mặt trực tiếp với sự can
thiệp tài nguyên thiên nhiên và ô nhiễm môi trường diễn ra trên khắp đòa cầu
như: nguy cơ mất rừng và tài nguyên rừng đang đe doạ môi trường sinh thái,
sự suy giảm nhanh của chất lượng tiết, tài nguyên sinh vật biển ngày càng
suy giảm, tài nguyên khoáng sản, nước … đang bò sử dụng không hợp lý, việc
ô nhiễm môi trường đất, nước … đang bò sử dụng không hợp lý, việc ô nhiễm
môi trường đất, nước và không khí đã xuất hiện.
Sản xuất xã hội không ngừng tăng trưởng nhanh trong khi phải chú ý
đến việc giữ gìn hành tinh này để giáo dục cho các thế hệ mai sau, đảm bảo
lợi ích cần thiết và sự phát triển lâu dài
Chính vì vậy, giáo dục môi trường là một trong những con đường tiếp
cận sự phát triển bền vững, có những hiểu biết nhất đònh về môi trường. Tuy
nhiên thực tế hiện nayhầu hết các trường phổ thông vẫn chưa được GDMT


vào giảng dạy hoặc có đòa bàn giảng dạy nhưng chưa mang lại hiệu quả thiết
thực. Vì vậy đã gây nên những cản trở nhất đònh trong quá trình giảng dạy và
giáo dục ở các trường phổ thông.
Với mong muốn tìm ra những giải pháp tối ưu co giáo viên giảng dạy
GDMT qua môn đòa lý ở các trường phổ thông, đặc biệt là trường THPT
Nguyễn Trãi.
Chính vì những lý do trên, nên tôi quyết đònh chọn đề tài này.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu:
1.2 Mục tiêu nghiên cứu:
Xác đònh một số phương pháp dạy học tích cực và thực tiển trong việc
dạy GDMT qua môn đòa lý ở trường THPT Nguyễn Trãi.
2.2 Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiển về việc áp dụng GDMT qua
môn đòa lý.
- Tìm hiểu một số phương pháp dạy học GDMT qua môn đòa lý trong
chương trình lớp 10, 11.
- Tìm hiểu một số phương pháp cũng như việc đưa GDMT qua môn đòa
lý ở khối 10, 11 trường THPT Nguyễn Trãi.
- Đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác
giảng dạy và đưa giáo dục môi trường vào các bài học qua môn đòa lý.
3. Phạm vi nghiên cứu:
- Chương trình đòa lí lớp 10, 11.
- Phương pháp giáo dục môi trường qua môn đòa lí tại trường THPT
Nguyễn Trãi.
B. NỘI DUNG VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU:
I. Nguyên cứu cơ sở lý luận:
1. Làm rõ một số khái niệm:
Hiện nay môi trường được hiểu theo nhiều khía cạnh, có nhiều đònh
nghóa môi trường khác nhau.
Hiểu theo một cách khái quát thì môi trường là tổng hợp các điều kiện

bên ngoài có ảnh hưởng tới một vật thể hoặc một sự kiện.
Như vậy, khái niệm môi trường rất rộng bao gồm cả hệ thống tự nhiên lẫn
nhân tạo. Theo UNESCO (1981) đã coi môi trường là toàn bộ các hệ thống tự
nhiên và hệ thống do con người tạo ra ở xung quanh mình, trong đó con người
sinh sống bằng lao động đã khai thác những tài nguyên tự nhiên hoặc nhân
tạo để thoả mãn những nhu cầu của con người.
Giáo dục môi trường? Công tác giáo dục môi trường đã được quan tâm,
triển khai trên nhiều lónh vực và nhiều khía cạnh khác nhau nhưng vẫn chưa
có một đònh nghóa thống nhất về giáo dục môi trường. Đònh nghóa giáo dục
môi trường được sử dụng và được nhiều người chấp nhận. Đó là “giáo dục
môi trường chưa hẳn là một môn khoa học, nó là một chương trình hành
động, là quá trình tổ chức các hoạt động nhằm tạo dựng cho thế hệ trẻ một
nhận thức và mối quan tâm thực sự đến môi trường và những vấn đề liên
quan”.
Nhà nước Việt Nam coi giáo dục môi trường là một bộ phận hữu cơ
của sự nghiệp giáo dục và là sự lập nghiệp của toàn dân nói chung. Giáo dục
môi trường được thể hiện qua các khía cạnh.
• Giáo dục “về môi trường”: cung cấp những kiến thức thực tế về môi
trường và kiến thức về ảnh hưởng của con người đến môi trường.
• Giáo dục “về môi trường”: thể hiện sự quan tâm thực sự đến chất
lượng MTS và thừa nhận trách nhiệm con người phải chăm sóc nuôi dưỡng
môi trường.
• Giáo dục: “trong môi trường” sử dụng môi trường như một nguồn lực
cho dạy học, cung cấp những kiến thức và kỹ năng thực tế về bảo vệ và
giữ gìn môi trường.
2. Việc tích hợp giáo dục môi trường qua đòa lý:
Nội dung giáo dục môi trường bao gồm việc truyền bá những tri thức về
môi trường, những biện pháp bảo vệ môi trường cũng như giáo dục ý thức
trách nhiệm bảo vệ môi trường cho mọi công dân. Thông qua nhiều hình
thức khác nhau như giáo dục thông qua các phương tiện truyền thông đại

chúng (phát thanh, truyền hình, báo chí …), qua hoạt động của các tổ chức
quần chúng, qua giảng dạy ở các trường phổ thông. Trong các hình thức
giáo dục nói trên thì giáo dục môi trường ở trường phổ thông chiếm vò trí
đặc biệt. Bởi vì nhà trường phổ thông là nơi đào tạo thế hệ trẻ những
người chủ tương lai của đất nước, thực hiện các nguồn tài nguyên và bảo
vệ môi trường. Giáo dục môi trường cho thế hệ trẻ là việc làm có tác
dụng lớn nhất, đặc biệt là qua các bài giảng của môn đòa lý. Vì vậy việc
tích hợp giáo dục môi trường qua môn đòa lý là rất cần thiết và quan
trọng.
3. Nhiệm vụ và phương hướng giáo dục môi trường:
- Giáo dục môi trường là một chương trình hành động, triển khai tất cả
mọi lónh vực, mọi nghề nghiệp, mọi lứa tuổi giới tính, dân tộc, trình độ
văn hóa … đặc biệt giáo dục môi trường còn là một quá trình nâng cao
nhận thức, phương pháp, kỹ năng, tình cảm, đạo đức cho học sinh về vấn
đề môi trường. Do đó mà nó có nhiệm vụ:
+ Làm cho học sinh hiểu biết hơn về thiên niên, nhận thức được mối quan
hệ qua lại khăng khít và sự tác động tương hổ giữa sinh vật với các yếu tố
môi trường, cũng như thấy được tầm quan trọng của môi trường đối với sự tồn
tại và phát triển của xã hội loài người, hiểu thêm về môi trường và hiện
trạng của chúng nói chung và môi trường Việt Nam nói riêng.
+ Trên cơ sở các hiểu biết đó, giáo dục cho học sinh những ý thức quan
tâm thường xuyên đến môi trường, dần hình thành ý thức, việc tôn trọng và
bảo vệ thiên nhiên, từ đó muốn bảo vệ môi trường sống dần trở thành phong
cách, nếp sống của họ.
+ Trang bò cho học sinh một số phương pháp và kỹ năng bảo vệ môi
trường.
Vậy để thực hiện được các nhiệm vụ trên, thì phương hướng chủ yếu của
giáo dục môi trường ở nhà trường trung học phổ thông là:
+ Giáo dục môi trường phải thông qua các môn học và phải trang bò cho
học sinh một hệ thống kiến thức tương đối đầy đủ về môi trường. Và nó sẽ

được triển khai qua các môn học: Đòa, Sinh và GDC D … theo nguyên tắt phù
hợp với đặc thù của bộ môn.
+ Nội dung giáo dục môi trường phải thông qua toàn bộ toàn bộ hệ thống
giáo dục chính quy và không chính quy, bắt đầu từ lớp mẫu giáo cho đến các
trường THPT, các trường Cao đẳng, Đại học.
+ Nội dung giáo dục môi trường phải chú ý khai thác tình hình thực tế
môi trường ở đòa phương và có những hình thức, biện pháp ngăn ngừa các
vấn đề có hại cho môi trường của đất nước, của đòa phương.
+ Cuối cùng nội dung và phương pháp giáo dục môi trường phải phù hợp
với mục tiêu của nhà trường phổ thông của từng bậc học và đực biệt là tâm
lý của học sinh theo các lứa tuổi khác nhau.
4. Sơ lược lòch sử phát triển giáo dục môi trường trên thế giới và ở Việt
Nam:
4.1 Sơ lược lòch sử phát triển giáo dục môi trường trên thế giới:
Môi trường hiện nay đang là một vấn đề thu hút được sự quan tâm của
toàn thế giới.
Trong mấy chục năm trở lại đây, do sự phát triển kinh tế ồ ạt, dưới sự
tác động của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và sự gia tăng dân số nhanh
đã làm cho môi trường bò biến đổi nhanh chóng, nhiều tài nguyên bò vắt kiệt,
hệ sinh thái bò tàn phá → mất cân bằng tự nhiên. Từ đó môi trường lâm vào
khủng hoảng với quy mô toàn cầu, thực sự trở thành nguy cơ đối với cuộc
sống hiện tại cũng như sự tồn tại trong tương lai.
Chính vì vậy, để bảo vệ môi trường, con người phải thực hiện hàng loạt
các vấn đề, trong đó có việc giáo dục môi trường là một trong những biện
pháp có hiệu quả nhất giúp cho con người có nhận thức đúng đắn trong việc
khai thác, sử dụng có hiệu quả và bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên, bảo
vệ môi trường.
Cách đây khoản 20 năm, tại Hội nghò (LHQ) họp tại Stockhôm (Th
Điển) năm 1972 đã nhận đònh: giáo dục các vấn đề môi trường cho thế hệ trẻ
cũng như lớn tuổi, quan tâm một cách thích đáng tới môi trường là hết sức

cần thiết và cho rằng việc bảo vệ thiên nhiên và môi trường là hai nhiệm vụ
hàng đầu của toàn nhân loại. Cũng vì thế mà ngày 5/6 hàng năm trở thành
“ngày môi trường thế giới”. Hội nghò cũng tuyên bố: giáo dục môi trường là
rất cần thiết, để làm cơ sở cho nhận thức và hành vi trách nhiệm của cá nhân
và tổ chức trong việc bảo vệ và cải thiện môi trường.
Điều 96 của Hội nghò yêu cầu sự phát triển của giáo dục môi trường như
một yếu tố quyết đònh nhất để tấn công vào cuộc khủng hoảng môi trường
trên thế giới.
Sau Hội nghò Stockholm, ở nhiều nước giáo dục môi trường đã được đưa
vào các trường học. Đến năm 1973 người ta thấy có 1000 chương trình được
giảng dạy trong 750 trường và viện thuộc 70 nước khác nhau trên thế giới.
Tuy nhiên, mục đích, nội dung giáo dục môi trường chưa được rõ ràng. Đến
năm 1975 chương trình giáo dục môi trường quốc tế (IEEP) được tổ chức tại
Belyrade, đã đưa ra bản tuyên bố đầu tiên về giáo dục môi trường được gọi
là “Hiện tượng Belyrade - một hệ thống nguyên tắc toàn cầu cho giáo dục
môi trường “ cụ thể là:
+ Nâng cao nhận thức và quan tâm tới mối quan hệ tương tác về kinh
tế, xã hội, chính trò, sinh thái.
+ Cung cấp cho mỗi cá nhân những cơ hội tiếp thu kiến thức, giá trò,
quan niệm, trách nhiệm và kỹ năng cần thiết nhằm bảo vệ môi trường.
+ Tạo ra những mô hình ứng xử với môi trường cho các cá nhân, các tổ
chức cũng như toàn xã hội.
Tiếp theo đó nhiều hội thảo khu vực với giáo dục môi trường đã được
tổ chức. Hội thảo khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, được tổ chức vào
tháng 10/1976 tại BăngCốc (Thái Lan). Tổng kết Hội nghò người ta đã đề ra
15 kiến nghò thuộc 4 vấn đề về chương trình giáo dục môi trường, đào tạo bồi
dưỡng giáo viên, vấn đề soạn thảo các tài liệu, xây dựng các phương tiện
phục vụ giáo dục môi trường.
Ngay sau đó, Hội nghò liên chính phủ về giáo dục môi trường đã được
tổ chức tại Tibilisi (Liên Xô cũ) vào năm 1987, gồm 66 quốc gia thành viên

UNESCO tham dự. Hội nghò đưa ra những ý kiến đóng góp cho việc áp dụng
rộng rãi hơn nữa giáo dục môi trường trong các chương trình giáo dục chính
thức và không chính thức. Hội nghò này là đỉnh cao của giai đoạn đầu chương
trình giáo dục, đặc cơ sở cho sự phát triển của giáo dục môi trường trên bình
diện quốc tế.
Tiếp theo Hội nghò này, có các hội thảo khu vực. Hội thảo khu vực
châu Á – Thái Bình Dương về giáo dục môi trường họp tại Băng Cốc (Thái
Lan) vào năm 1980, có 17 nước tham dự. Mục đích là nhằm trao đổi kinh
nghiệm trong việc giáo dục môi trường môi trường ở từng nước.
Đến năm 1987 (UNESCO và HNEP (Chương trình môi trường môi
trường LHQ)) lại phối hợp tổ chức Hội nghò quốc tế về giáo dục môi trường
tại Matxcơva với đại diện của 100 nước và nhiều tổ chức tham gia Hội nghò
đã xây dựng chiến lược quốc tế về chương trình hành động giáo dục môi
trường cho thập kỷ 90, Hội nghò Matxcova còn quyết đònh đặt tên cho thập kỷ
90 là “Thập kỷ toàn thế giới cho giáo dục môi trường” .
Đến năm 1990, tại Pari đã mở Hội nghò quốc tế do UNESCO và UNEP
tổ chức, với sự tham gia của nhiểu tổ chức quốc tế thuộc LHQ. Hội nghò trao
đổi về sự tăng cường trách nhiệm của từng tổ chức quốc tế trong giáo dục
môi trường, tại Hội nghò 1 lần nữa nhấn mạnh nhiệm vụ giáo dục môi trường
cho tất cả mọi người. Đặc biệt cho thế hệ trẻ và tầm quan trọng của việc bồi
dưỡng kiến thức về môi trường cho giáo viên các cấp.
4. Sự phát triển giáo dục môi trường ở Việt Nam:
Ở Việt Nam, vấn đề môi trường đã được nhận thức từ những năm 60
của thế kỷ XX. Hồ Chí Minh là người có công đi đầu trong lónh vực này. “Vì
lợi ích mười năm trồng cây”.
Bác đã phát động trong nhân dân phong trào trồng cây, giữ gìn môi
trường xanh, sạch, đẹp.
Đến 1991, Bộ giáo dục và đào tạo đã có chương trình trồng cây hổ trợ
phát triển giáo dục đào tạo và bảo vệ môi trường.
Từ năm 1986 trở đi cùng với các đề tài nghiên cứu khoa học về bảo vệ

môi trường cũng đã xuất hiện.
Thông qua việc thay đổi sách giáo khoa (cải cách giáo dục) (1986 -
1992), các tài liệu chuyên ban và thí điểm, các tác giả đã chú trọng đến việc
đưa nội dung giáo dục môi trường vào sách giáo khoa đặc biệt là ở các bộ
môn: Đòa, Sinh, GDCD …
Trong “Kế hoạch hành động quốc gia về môi trường và phát triển bền
vững của Việt Nam giai đoạn 1986 – 2000” giáo dục môi trường được ghi
nhận như một bộ phận cấu thành.
Từ năm 1995, dự án giáo dục môi trường trong nhà trường phổ thông ở
Việt Nam của bộ Giáo dục và đào tạo do UNDI tài trợ đã nhằm vào các mục
tiêu cơ bản:
+ Hỗ trợ xây dựng một bản chính sách chiến lược thực hiện quốc gia về
giáo dục môi trường vào các chương trình đào tạo giáo viên.
+ Xây dựng các hoạt động cụ thể ở các cấp học.
II. Thực trạng giáo dục môi trường ở bộ môn đòa lí ở trường THPT
Nguyễn Trãi:
1. Thực trạng tích hợp giáo dục môi trường ở trường THPT Nguyễn
Trãi:
Ở các trường THPT trên cả nước nói chung và đối với trường THPT
Nguyễn Trãi nói riêng thì việc đưa giáo dục môi trường vào chương trình của
các môn học, đều được thực hiện qua quá trình cải cách giáo dục, hầu hết tập
trung vào các môn học tự nhiên và xã hội.
Đối với môn Đòa lí trường THPT Nguyễn Trãi, thì ở khối 10 có nhiều
cơ hội để tiến hành giáo dục môi trường, bởi khối 10 năm nay đã tiến hành
cải cách giáo dục, mặt khác chương trình Đòa lý lớp 10 – Đòa lý kinh tế xã
hội đại cương, tập trung giới thiệu cho học sinh một số kiến thức chung nhất,
những khái niệm, quy luật về kinh tế xã hội. Với những đặc thù như trên thì
việc đưa giáo dục môi trường vào môn học thuận lợi hơn, với hình thức tích
hợp và lồng ghép (tích hợp là kết hợp một cách có hệ thống các kiến thức đòa
lí với kiến thức giáo dục môi trường làm cho chúng trở thành môt thể thống

nhất). Lồng ghép là sự lắp ghép nội dung bài học về mặt cấu trúc để có thể
đưa vào bài học, một đoạn, một mục, một số câu có nội dung giáo dục môi
trường.
Còn đối với lớp 11 học về đặc điểm tự nhiên và kinh tế xã hội của các
nước. Trên cơ sở đó giúp các em tìm hiểu và biết rõ hơn về đặc điểm của
từng quốc gia. Vì thế có thể dễ dàng tích hợp, lồng ghép vấn đề môi trường
vào từng quốc gia, từ đó học sinh sẽ nhận thức và thấy được tầm quan trọng
của vấn đề bảo vệ môi trường không chỉ riêng nước ta mà cả nước khác trên
thế giới. Hiểu được điều đó là vấn đề chung của toàn nhân loại.
2. Sơ lược vài nét về trường THPT Nguyễn Trãi và về môn Đòa lí
của trường:
2.1 Sơ lược vài nét về trường THPT Nguyễn Trãi:
Trường THPT Nguyễn Trãi thuộc đòa bàn thò xã An Khê tỉnh Gia Lai.
Trường quy đònh tới 80% học sinh từ huyện ĐăcPơ, còn 20% là học sinh
thuộc thò xã An Khê. Trường mới được thành lập cách đây 3 năm, vì thế cơ
sở vật chất kỹ thuật còn nhiều thiếu thốn: trường bao gồm hai khu vực:
+ Khu vực I: Nằm trên đường Lê Thò Hồng Gấm thuộc đòa bàn thò xã
An Khê.
+ Khu vực II: Cách KV I khoản chừng 12 km , thuộc đòa bàn của huyện
ĐăcPơ (có 4 lớp 11 học học ở đó). Thực chất KV II là của trường THCS do
khu vực I thiếu phòng học cho lớp 11 nên trường mượn một số phòng học của
trường THCS → vì vậy, khó khăn trong việc đi lại và giảng dạy của giáo
viên. Trường thực hiện nhiệm vụ đào tạo nguồn tri thức trẻ, có tri thức vững
vàng và tư cách đạo đức chuẩn mực, tạo nguồn nhân lực trong tương lai cho
đòa phướng. Đội ngũ cán bộ giáo viên khá đông đảo, trình độ chuyên môn
nghiệp vụ vững vàng, đầy nhiệt huyết, yêu nghề.
Trong những năm gần đây, thực hiện chủ trường của Đảng và Nhà
nước cùng với sự chỉ đạo của ban lãnh đạo thò xã, trường đã từng bước kiện
toàn và đổi mới cho phù hợp với tình hình thực tế. Nhà trường đã tiến hành
đổi mới phương pháp dạy học, nâng cao hiệu quả cuả quá trình đào tạo, tạo

điều kiện cho học sinh tiếp cận với những kiến thức mới, gắn lý thuyết với
thực tiển.
Hệ thống thư viện, phòng nghiệp vụ cũng như một số phương tiện phục
vụ cho giảng dạy ngày càng hoàn thiện, bổ sung, đáp ứng được yêu cầu dạy
và của giáo viên và học sinh.
Từ khi thành lập trường đã có nhiều đoàn dự thi học sinh giỏi và đạt
kết quả khá cao. Là động lực để toàn trường phấn đấuvươn lên và ngày càng
khẳng đònh mình trên con đường sự nghiệp giáo dục.
2.2 Sơ lược vài nét về môn đòa lý của trường THPT Nguyễn Trãi:
Ở trường THPT có 3 giáo viên giảng dạy bộ môn đòa lí, cả 3 giáo viên
tuổi đời còn rất trẻ. Trong đó có 2 giáo viên đã giảng dạy được 4 năm, còn 1
giáo viên vừa mới ra trường và giảng dạy từ tháng 9 đến nay.
Cả 3 giáo viên đều giảng dạy dàn đều ở cả 3 khối lớp: 10, 11 và 12 là
những giáo viên có trình độ chuyên môn nghiệp vụ vững vàng, đầy nhiệt
huyết, yêu nghề và sẳn sàng cống hiến sức lực và tài năng cho thế hệ trẻ.
3. Thực trạng giáo dục ở trường THPT Nguyễn Trãi và phương
hướng giải quyết:
Giáo dục môi trường ở trường phổ thông có ý nghóa rất quan trọng
trong việc đào tạo thế hệ trẻ và trường THPT Nguyễn Trãi nói riêng, chương
trình giáo dục môi trường đã có từ lâu, xong việc thực hiện còn gặp nhiều
khó khăn. Đánh giá tác dụng hoạt động giáo dục môi trường qua môn đòa lí
ở trường THPT Nguyễn Trãi, các thầy cô tham gia giảng dạy đòa lí ở trường
vẫn cho rằng, hoạt động giáo dục môi trường vẫn chưa mang lại kết quả tốt.
Do kiến thức giáo dục môi trường được tích hợp, lồng ghép vào nội dung bài
học, nên trong phần giảng dạy không có phần dành riêng cho giáo dục môi
trường. Vì thế muốn thực hiện được cần phải có sự thay đổi, đổi mới trong
nội dung và phương pháp. Mà các phương pháp giảng dạy đòa lí cũng là
phương pháp giáo dục môi trường qua bộ môn. Tuy nhiên tuỳ theo từng điều
kiện, có thể nhấn mạnh một số phương pháp có nhiều thuận lợi đối với giáo
dục môi trường.

3.1 Phương pháp giảng dạy dùng lời nói:
Là phương pháp dạy học truyền thống nhưng có ý nghóa giáo dưỡng và
giáo dục tốt: Phương pháp dùng lời có thể sử dụng trong hai trường hợp:
+ Dùng lời nói để trình bài giảng trên lớp:
• Phương pháp giảng thuật: phương pháp này đóng vai trò quan
trọng trong giảng dạy đòa lí. Bằng lời nói sinh động với lòng nhiệt
tình, giáo viên có thể mô tả minh họa những hiện tượng tự nhiên độc
đáo, hoặc những biến đổi mạnh mẽ của thiên nhiên độc đáo, hoặc
những biến đổi mạnh mẽ của thiên nhiên do sự khai thác bừa bãi
của con người ở nước ta hoặc bất kỳ nước nào trên thế giới có liên
quan đến bài học đòa lí. Mặt dù hiện tượng đó ở một nơi rất xa lạ
mà học sinh không hề biết đến, nhưng nhờ khả năng truyền cảm của
lời giảng, nó vẫn có tác dụng giáo dục về lòng yêu thiên nhiên, yêu
phong cảnh đẹp hoặc có một chút lo lắng về tác động của con người
làm cho môi trường biến đổi, qua đó dần hình thành ở đó ý thức bảo
vệ môi trường.
• Phương pháp giảng giải: là phương pháp dùng lời nói nhưng
thường được sử dụng khi giảng các vấn đề có tính chất chứng minh,
không cần mô tả, và đưa ra nhiều dấu hiệu … Mà cần vạch ra bản
chất, những mối quan hệ và nguyên nhân của chúng. Thông qua hệ
thống kiến thức góp phần hình thành ở học sinh một ý thức và thái
độ đúng đắn về vấn đề đặc ra và thu hút sự quan tâm của các em.
+ Dùng lời để đọc tài liệu bổ sung minh hoạ: là phương pháp sử dụng
có hiệu quả trong quá trình giáo dục môi trường, trong các bìa học tuỳ theo
nội dung mà giáo viên có thể đọc tài liệu bổ sung, minh hoạ, các bài đọc có
nội dung giáo dục môi trường có thể tìm thấy hàng loạt trên các báo cáo và
tạp chí khác nhau cũng như một số tài liệu về giáo dục môi trường.
3.2 Phương pháp đàm thoại:
Sử dụng phương pháp này nhằm cho học sinh hiểu biết về một vấn đề
nào đó cần có sự suy nghỉ và tư duy sâu sắc, trên cơ sở một loạt những câu

hỏi giáo viên cỏ thể khắc sâu cho học sinh những kiến thức về giáo dục môi
trường mà mình cần truyền thụ.
3.3 Giáo dục môi trường qua các hoạt động ngoại khoá:
Các hoạt động ngoại khóa có ý nghóa rất quan trọng trong giáo dục môi
trường cho học sinh. Từ thực tiển của đất nước, của đòa phương mình sẽ giúp
các em có cái nhìn tổng quan hơn về tình hình thực tế hơn của môi trường →
xây dựng cho các em lòng yêu quê hương đất nước, yêu thiên nhiên, ý thức
bảo vệ môi trường. Qua đó còn rèn luyện đựơc kỹ năng và phương pháp bảo
vệ môi trường, từ đó có thể tham gia vào bảo vệ môi trường ở đòa phương các
em đang sinh sống.
Ngoài những phương pháp nêu trên, theo phiếu thu thập ý kiến của học
sinh ở cả hai khối, trong đó có câu: theo em để việc học tập bộ môn đòa lý
đạt kết quả tốt, giáo viên nên giảng dạy theo phương pháp nào? Thì hầu hết
học sinh ở cả 2 khối 10 và 11 đều cho rằng: giáo viên cần đặt nhiều câu hỏi
để học sinh suy nghỉ và trả lời, cho thảo luận nhóm. Ngoài ra còn kết hợp với
việc sử dụng các bản đồ, lược đồ. Đó là những phương pháp trực quan có ý
nghóa to lớn cho việc giáo dục môi trường cho học sinh, có tác dụng gây hứng
thú và ấn tượng sâu sắc cho học sinh.
4. Một số phương pháp giáo dục môi trường qua môn đòa lí ở trường
THPT Nguyễn Trãi đối với 2 khối lớp 11 và 12:
Như ta đã biết môn đòa lí là một môn học có nhiều cơ hội để tiến hành
giáo dục môi trường, nhưng thực tế hiện nay ta đều thấy rằng học sinh coi
môn đòa lý là một môn phụ nên không dành nhiều thời gian cho môn học →
hiệu quả của việc giáo dục nói chung và giáo dục môi trường nói riêng
không cao. Để khắc phục các khó khăn trên, các giáo viên phụ trách giảng
môn đòa lý ở trường THPT Nguyễn Trãi đã dùng nhiều biện pháp để đưa giáo
dục môi trường vào giảng dạy bằng phương pháp thích hợp, lồng ghép vào
tiết học, mang lại hiệu quả tương đối cao.
Trong phạm vi của đề tài này, tôi đã tiến hành điều tra mẫu tại lớp 10
A

5
(30 phiếu) và lớp 11 A
6
(20 phiếu).
* Đối lớp 10 A
5

Qua tổng kết thì nhận thấy, khoảng tới 95% số học sinh trong lớp biết
được một số vấn đề môi trường qua các bài học đòa lý ở HK I, các em đã
nhận thấy được vấn đề cấp bách của môi trường hiện nay không chỉ đối với
nước mình, đòa phương mình mà còn cả các nước khác trên toàn TG và phần
lớn các em thích học môn đòa lý.
* Đối với lớp 11 A
6
.
Qua tổng kết và nhận thấy, khoảng 50 % số học sinh trong lớp biết
được một số vấn đề môi trường qua các bài học đòa lý ở HK I, vì vậy mà các
em chưa nhận thức vấn đề cấp bách của môi trường hiện nay → Các em có
thái độ thờ ơ, thiếu quan tâm, thậm chí không thích học môn học này với lý
do là chẳng thích hoặc không giúp ích được gì cho em → Học sinh coi thường
môn học → Việc lồng ghép, tích hợp GDMT vào nội dung bài học có hiệu
quả hay không phụ thuộc rất nhiều vào thái độ, ý thức tự giác tham gia của
từng học sinh.
Để tìm hiểu rõ hơn nguyên nhân do đâu, tôi đã tiến hành gặp gỡ, cùng
trò chuyện, cũng như dự giờ các giáo viên giảng dạy đòa lý trong suốt quá
trình điều tra thì nhận thấy rằng: Mặc dù trờng mới thành lập, điều kiện cơ sở
vật chất còn nhiều hạn chế, song các thầy cô điều cố cố gắng khắc phục, để
tiến hành lồng ghép, tích hợp giáo dục môi trường một cách có hiệu quả và
phương pháp chủ yếu vẫn là phương pháp thuyết trình, vừa đảm bảo được nội
dung bài học, vừa có có thể lồng ghép giáo dục môi trường. Bên cạnh đó còn

sử dụng một số phương pháp hiện đại, đã tạo được hứng thú nhất đònh cho
học sinh.
5. Đánh giá kết quả ý nghóa của giáo dục môi trường:
Trong thực tiển su phạm, mỗi nhà trường cụ thể thuộc một vùng đòa lý
cụ thể , nằm trong một bối cảnh văn hóa cụ thể, sẽ có nhu cầu giáo dục môi
trường cụ thể. Điều này sẽ quyết đònh việc lựa chọn những nội dung và
phương thức thực hiện phù hợp. Việc tác đònh và lựa chọn đúng những vấn đề
môi trường có liên quan trực tiếp đến trường lớp và đến học sinh, sẽ thu hút
các em tham gia một cách tự nhiên vào quá trình giải quyết các vấn đề bằng
một thái độ tự nguyện và bằng hành động có suy nghó, có trách nhiệm. Vì
vậy giáo dục môi trường trong nhà trường phổ thông có ý nghóa rất quan
trọng không chỉ đối với giáo viên mà đối với học sinh.
* Đối với học sinh:
Sự thành thục tay nghề của giáo viên là sử dụng thành thạo các phương
pháp lấy học sinh làm trung tâm, còn giáo viên đóng vai trò là người hướng
dẫn như: biết phát huy các kiến thức và kinh nghiệm sẳn có của học sinh, hổ
trợ học sinh tự thực hiện nhiệm vụ, điều chỉnh các ý tưởng lệch lạc, khuân
sáo.
Ngoài ra giáo viên thể hiện sự thành thục nghiệp vụ sư phạm của mình như:
+ Hiểu rõ tâm lý lứa tuổi học sinh mình phụ trách.
+ Nắm vững kỹ thuật dạy học.
+ Tạo không khí thảo luận trong mọi tình huống.
+ Quan sát và xử lý kòp thời đầy đủ các thông tin phản hồi từ phía học
sinh.
* Đối với học sinh:
- Hình thành nhận thức đúng đắn về môi trường và sự quan tâm các nguồn
gốc suy thoái, ô nhiễm môi trường.
- Hình thành nền tảng đạo lý về môi trường, thái độ, hành vi và thói quen
bảo vệ môi trường.
Nhìn chung việc thay đổi thái độ của học sinh trước hết là các vấn đề

môi trường là một dấu hiệu mấu chốt, cho phép đánh giá mức độ thành công
của giáo dục môi trường.
C. KẾT LUẬN:
Như vậy trong suốt thời gian nghiên cứu, tìm hiểu và thực hiện đề tài
này, tôi nhận thấy nổi lên một số vấn đề sau:
Tuy có sử dụng nhiều phương pháp dạy học trong quá trình giảng bài.
Nhưng để tiến hành đưa giáo dục môi trường vào nội dung của bài học còn
phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Nhìn chung, phương pháp để đưa giáo dục môi
trường vào môn đòa lý chủ yếu vẫn là phương pháp dùng lời truyền thống,
giáo viên chủ động truyền thụ, học sinh thụ động lắng nghe. Hơn nữa, do nhà
trường mới được xây dựng cách đây 3 năm nên còn nhiều hạn chế về trang
thiết bò, phương tiện dạy học hiện đại: máy chiếu, đầu máy, nên hiệu quả của
việc giáo dục môi trường qua môn đòa lý vẫn chưa cao.
Vấn đề đặt ra ở đây là làm sao vừa đảm bảo được nội dung bài học,
vừa đảm bảo nội dung giáo dục môi trường. Đây thực sự là một vấn đề khó
khăn, phức tạp, cần phải có sự đổi mới trong tư duy của các nhà quản lý,
cũng như đội ngũ cán bộ giáo viên thực hiện nhiệm vụ giảng dạy trên mọi
phương diện.
Ngoài ra, riêng đối với bản thân tôi trong quá trình thực hiện đề tài
này, bên cạnh những kết quả đã đạt đựoc, tôi còn gặp những khó khăn nhất
đònh. Do thời gian nghiên cứu, tìm hiểu và hoàn thành đề tài này, trong khi
đó phạm vi nghiên cứu khá rộng, nên chưa có điều kiện đi sâu vào nghiên
cứu một cách triệt để nhất.
Nguồn tài liệu phục vụ cho quá trình nghiên cứu và thực hiện đề tài
cũng như khả năng nghiên cứu bản thân cũng có những hạn chế, khó khăn
trong việc thu thập thông tin. Vì vậy nên đề tài này còn nhiều thiếu sót nhất
đònh. Tôi rất mong được sự giúp đỡ, góp ý của các thầy cô và bạn bè, để bài
tập này ngày càng hoàn thiện hơn.
MỤC LỤC
Trang

NỘI DUNG
LỜI CẢM ƠN 1
A. PHẦN MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu 2
3. Phạm vi nghiên cứu 2
B. NỘI DUNG VÀ KẾT LUẬN NGHIÊN CỨU 2
1. Làm rõ một số khái niệm 2
2. Việc tích hợp giáo dục môi trường qua môn Đòa lý 3
3. Nhiệm vụ và phương hướng giáo dục môi trường 4
4. Sơ lược lòch sử phát triển giáo dục môi trường trên thế giới và Việt Nam 5
4.1 Sơ lược lòch sử phát triển giáo dục môi trường trên thế giới 5
4.2 Sơ lược lòch sử phát triển giáo dục môi trường ở Việt Nam 7
II. Thực trạng giáo dục môi trường ở bộ môn đòa lý 8
1. Thực trạng tích hợp GDMT ở trường THPT Nguyễn Trãi 8
2. Sơ lược vài nét về trường THPT Nguyễn Trãi 9
2.1 Sơ lược vài nét về trường THPT Nguyễn Trãi 9
2.2 Sơ lược vài nét về môn Đòa lý ở trường THPT Nguyễn Trãi 10
3. Thực trạng GDMT ở trường Nguyễn Trãi Và phương hướng giải quyết .10
3.1 Phương pháp giảng dạy dùng lời nói 10
3.2 Phương pháp đàm thoại 11
3.3 GDMT qua các hoạt động ngoại khoá 11
4. Một số phương pháp GDMT 12
5. Đánh giá kết quả, ý nghóa GDMT 13
C. KẾT LUẬN 14
TÀI LIỆU THAM KHẢO
GDMT qua môn đòa lý ở trường THPT của cô Lương Thò Vân trường đại học
Quy Nhơn .
Một số tài liệu, ý kiến đóng góp của các bạn



MUÏC LUÏC














Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×