Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

Quản trị kinh doanh quốc tế tìm hiểu về APEC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (323.2 KB, 22 trang )


HỌC VIỆN CÔNG NGHỆ BƯU CHÍNH VIỄN THÔNG
KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH I


KINH DOANH QUỐC TẾ
TÌM HIỂU VỀ APEC
Giảng viên : GS.TS.NGƯT Bùi Xuân Phong
Nhóm : 4
Lớp : D10QTDN2
Thành viên :
1. Bùi Thị Vân Anh (NT)
2. Bùi Thị Cúc
3. Trương Ngọc Anh
4. Đoàn Phú Cường
5. Nguyễn Thị Duyên
6. Bá Thị Mỹ Linh
7. Lương Hồng Phương
8. Phạm Minh Tuấn
Năm 2014
NHÓM 1 QTDN2
MỤC LỤC
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ APEC
1. Quá trình hình thành và phát triển của APEC
1.1 Khái niệm
Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương ( ASIA - PACIFIC
ECONOMIC COOPERATION ) là tổ chức kinh tế của các quốc gia nằm trong khu
vực Châu Á – Thái Bình Dương, với mục tiêu tăng cường mối quan hệ về kinh tế
chính trị.
1.2 Lịch sử hình thành
Từ cuối những năm 1970, đặc biệt là trong những năm 1980, sự tăng trưởng kinh tế


liên tục và với nhịp độ cao của châu Á mà nòng cốt là các nền kinh tế Đông Á đã thu
hút sự chú ý của cả thế giới. Tiếp theo "sự thần kỳ" của Nhật Bản, các nền kinh tế công
nghiệp mới (NIEs), ASEAN và đặc biệt là sự nổi lên của Trung Quốc đã biến châu Á
thành khu vực phát triển kinh tế năng động bậc nhất thế giới.
Từ những năm 1980, các nước châu Á luôn luôn dẫn đầu thế giới về tốc độ phát
triển kinh tế (xem bảng 2) trong khi kinh tế thế giới bị suy thoái vào đầu những năm
1990. Xuất khẩu thực sự là động lực tăng trưởng kinh tế ở các nước châu Á. Trong giai
đoạn 1980-1992, xuất khẩu của các nước châu Á tăng nhanh nhất thế giới, đạt tốc độ
bình quân hàng năm trên 10%, so với 4% của các nước châu Âu và Mỹ La-tinh và 6%
của các nước công nghiệp phát triển vốn chiếm tới 2/3 thương mại thế giới. Đầu tư
trực tiếp nước ngoài (FDI) vào các nước châu Á tăng mạnh, phần lớn từ Mỹ, Nhật Bản
và các nền kinh tế NIEs. Tiềm lực lớn về xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ và vốn đầu tư
đòi hỏi phải có thị trường ổn định, rộng mở và hạn chế đến mức tối đa những hàng rào
ngăn trở sự lưu chuyển của hàng hoá, dịch vụ, đầu tư trong khu vực. Do đó, hợp tác và
liên kết kinh tế khu vực trở thành nhu cầu cấp thiết để bảo đảm cho sự phát triển kinh
tế cao và ổn định.
Trong khi đó, xu thế toàn cầu hóa phát triển mạnh, thể hiện qua sự phân công lao
động quốc tế đan xen nhau dưới tác động của những tiến bộ của khoa học - công nghệ,
đặc biệt là công nghệ thông tin. Việc Trung Quốc cải cách và mở cửa càng làm gia
tăng xu thế này ở châu Á - Thái Bình Dương. Trong nền kinh tế thế giới, các hoạt động
sản xuất, thương mại, tài chính và dịch vụ ngày càng được quốc tế hóa. Cùng với toàn
cầu hóa và như một sự ứng phó với toàn cầu hoá, xu thế khu vực hóa cũng phát triển
mạnh mẽ cả về chiều rộng và chiều sâu. Từ cuối những năm 1980, liên kết kinh tế khu
vực ở châu Âu và Bắc Mỹ được đẩy mạnh thêm một bước. Các nước thuộc Liên hiệp
Giảng viên: GS.TS.NGƯT Bùi Xuân Phong Trang 2
NHÓM 1 QTDN2
châu Âu đã thoả thuận lập ra một thị trường chung vào năm 1992 và ráo riết lập kế
hoạch cho một liên minh tiền tệ với một đồng tiền chung. Còn ở Bắc Mỹ, tháng 1 năm
1989 Mỹ và Ca-na-đa chính thức ký Hiệp định thành lập Khu vực Mậu dịch Tự do
song phương (CAFTA). Trong khi đó, ở châu Á- Thái Bình Dương tuy có ổn định

tương đối về chính trị, và là một khu vực năng động và có nhịp độ tăng trưởng kinh tế
cao nhưng chưa có một hình thức liên kết nào có tính chất chính thức, liên chính phủ
và toàn khu vực để bảo đảm lợi ích của các nước trong khu vực trước sự gia tăng ngày
càng mạnh của chủ nghĩa khu vực bảo hộ ở Tây Âu và Bắc Mỹ.
Từ những năm 1970 -1980, nhất là cuối những năm 1980, trong khu vực châu Á -
Thái Bình Dương đã thấy rõ xu thế là các nền kinh tế ngày càng tuỳ thuộc lẫn nhau
một cách chặt chẽ hơn về nhiều mặt. Chỉ nói riêng về thương mại, năm 1989, xuất
khẩu hàng hóa của các nước châu Á - Thái Bình Dương sang Mỹ chiếm 25,8% tổng
giá trị xuất khẩu của họ, trong khi đó xuất khẩu của Mỹ sang châu Á - Thái Bình
Dương chiếm 30,5% tổng giá trị xuất khẩu của Mỹ. Xuất khẩu của Nhật Bản sang các
nước châu Á - Thái Bình Dương chiếm 33% tổng kim ngạch xuất khẩu của Nhật Bản
và giá trị xuất khẩu của châu Á - Thái Bình Dương sang Nhật Bản chiếm 9,8% tổng
kim ngạch xuất khẩu của các nước này. Xuất khẩu của Nhật Bản sang Mỹ chiếm
34,2% giá trị xuất khẩu của Nhật Bản và xuất khẩu của Mỹ sang Nhật Bản chiếm
12,3% tổng giá trị xuất khẩu của Mỹ. Sự tuỳ thuộc lẫn nhau ngày càng tăng về kinh tế
đã tạo ra một lực gắn kết, một nhu cầu phối hợp giữa các nền kinh tế trong khu vực với
nhau.
Như vậy, chính sự tăng trưởng cao liên tục và phát triển của nền kinh tế ở khu vực
châu Á - Thái Bình Dương, xu thế toàn cầu hóa và khu vực hóa cũng như sự tuỳ thuộc
lẫn nhau ngày càng tăng giữa các nền kinh tế đã đặt ra yêu cầu khách quan, cấp bách
cho việc hình thành một diễn đàn mở rộng trong khu vực nhằm phối hợp chính sách về
các lĩnh vực kinh tế, thúc đẩy tự do hóa và khuyến khích thương mại hàng hoá, dịch vụ
và đầu tư, tăng cường hợp tác kinh tế, khoa học - công nghệ giữa các nền kinh tế ở
châu Á - Thái Bình Dương, qua đó duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và bảo đảm
sự phát triển bền vững của khu vực châu Á - Thái Bình Dương khi bước vào thế kỷ
XXI.
1.3 Thành viên
Giảng viên: GS.TS.NGƯT Bùi Xuân Phong Trang 3
NHÓM 1 QTDN2
Từ khi được thành lập cho tới nay APEC gồm 21 thành viên trong đó

* 12 nước sáng lập ( 11/1989 ): Australia, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Singapore, Malaysia,
Philipin,Thái Lan, Brunei, Newzealand, Indonesia, Hàn Quốc.
* 9 nước thành viên: Trung Quốc, Hồng Công, Đài Loan, Mexico, Chile, Papua New
Guinea, Nga, Peru, Việt Nam ( 11/1998 ).
Các thành viên APEC Tham gia ngày
Úc 6-7 tháng 11 1989
Brunei Darussalam 6-7 tháng 11 1989
Canada 6-7 tháng 11 1989
Chile 11-12 tháng 11 năm 1994
Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc 12-14 tháng 11 năm 1991
Hồng Kông, Trung Quốc 12-14 tháng 11 năm 1991
Indonesia 6-7 tháng 11 1989
Nhật Bản 6-7 tháng 11 1989
Hàn Quốc 6-7 tháng 11 1989
Giảng viên: GS.TS.NGƯT Bùi Xuân Phong Trang 4
NHÓM 1 QTDN2
Malaysia 6-7 tháng 11 1989
Mexico 17-19 tháng 11 năm 1993
New Zealand 6-7 tháng 11 1989
Papua New Guinea 17-19 tháng 11 năm 1993
Peru 14-15 tháng 11 năm 1998
Philippines 6-7 tháng 11 1989
Nga 14-15 tháng 11 năm 1998
Singapore 6-7 tháng 11 1989
Đài Bắc Trung Quốc 12-14 tháng 11 năm 1991
Thái Lan 6-7 tháng 11 1989
Mỹ 6-7 tháng 11 1989
Việt Nam 14-15 tháng 11 năm 1998
1.4 Quy chế thành viên
Hội nghị Cấp cao APEC tại Vancouver, Canada tháng 11/1997 đã thông qua

quy chế thành viên của APEC, quy định các nước, các vùng lãnh thổ kinh tế muốn trở
thành thành viên của APEC cần phải có đủ một số điều kiện sau:
- Vị trí địa lý: nằm ở khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, tiếp giáp với bờ biển
Thái Bình Dương.
- Quan hệ kinh tế: có các mối quan hệ chặt chẽ với các nền kinh tế thành viên
APEC về thương mại hàng hóa và dịch vụ, và đầu tư trực tiếp nước ngoài.
- Tương đồng về kinh tế: chấp nhận chính sách kinh tế mở cửa theo hướng thị
trường.
- Quan tâm và chấp thuận các mục tiêu của APEC: hoàn toàn chấp thuận
những mục tiêu và nguyên tắc cơ bản được đề ra trong các tuyên bố và quyết định của
APEC, kể cả nguyên tắc đồng thuận và tự nguyện.
2. Cơ cấu tổ chức
Giảng viên: GS.TS.NGƯT Bùi Xuân Phong Trang 5
Hội nghị các nhà
lãnh đạo
Hội nghị bộ
trưởng chuyên
ngành
Hội đồng tư vấn
doanh nghiệp
Hội nghị Liên Bộ
trưởng Ngoại giao
NHÓM 1 QTDN2
Cấp chính sách Cấp chuyên viên
2.1 Cấp chính sách
Phát triển chính sách: Định hướng chính sách của APEC được đưa ra bởi 21
lãnh đạo kinh tế thành viên. Chiến lược này được đề xuất bởi các Hội đồng tư vấn kinh
tế APEC và được xem xét bởi các lãnh đạo kinh tế của APEC. Những hội nghị này
được tổ chức thường niên nhằm hoàn thiện cơ cấu chính sách và pháp luật của APEC.
• Hội nghị các lãnh đạo kinh tế APEC: Được tổ chức hàng năm do mỗi thành viên của

APEC luân phiên đăng cai tổ chức. Các tuyên bố từ những hội nghị này sẽ góp phần
hoàn thiện kế hoạch chính sách cho APEC
• Hội nghị Bộ trưởng APEC: Được tổ chức hàng năm trước Hội nghị các nhà lãnh đạo
kinh tế. Các Bộ trưởng xem xét những hoạt động trong năm và đưa ra những đề nghị
cho các lãnh đạo kinh tế xem xét.
• Hội nghị Bộ trưởng cấp khu vực : Được tổ chức hàng năm tập trung vào nhiều lĩnh
vực như: giáo dục, năng lượng, môi trường và sự phát triển bền vững, tài chính, hợp
tác khoa học kỹ thuật khu vực, phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, công nghiệp
truyền thống và công nghệ thông tin, du lịch, thương mại, vận tải và vấn đề bình đẳng
giới. Những đề xuất từ những hội nghị này đều được các lãnh đạo kinh tế APEC xem
xét.
• Hội đồng tư vấn kinh tế APEC: đề xuất cho các lãnh đạo kinh tế APEC những vấn đề
của APEC và những dự đoán về tình hình kinh tế thế giới qua một bản báo cáo chính
thức. Ngoài ra, trong các báo cáo này còn có những đề xuất để cải thiện tình hình
thương mại và đầu tư khu vực. Hội đồng tư vấn họp 4 năm một lần và sẽ cử đại diện
để tham gia Hội nghị Bộ trưởng.
2.1. Cấp làm việc.
- Hội nghị các quan chức cao cấp ( SOM ) : Hội nghị này được tổ chức
thường kỳ giữa hai Hội nghị Bộ trưởng hàng năm chuẩn bị và đưa ra các khuyến nghị
Giảng viên: GS.TS.NGƯT Bùi Xuân Phong Trang 6
Hội nghị Liên Bộ
trưởng Ngoại giao
Hội nghị các quan chức
cao cấp SOM
Ban Thư Ký
APEC
Ban chỉ đạo SOM về
Hợp tác Kinh tế và Kỹ
thuật (ESC)
Ủy bạn Kinh tế (EC)

Ủy ban Thương mại
và đầu tư (CTI)
Các nhóm
công tác
Các nhóm đặc
trách của SOM
Ủy bạn quản lý và
ngân sách (BMC)
NHÓM 1 QTDN2
trình Hội nghị Bộ trưởng về các vấn đề tổ chức chương trình hoạt động của APEC,
chương trình hành động tiến tới tự do hóa thương mại và đầu tư, kế hoạch hành động
của các nền kinh tế thành viên và các chương trình hợp tác kinh tế khoa học – công
nghệ của APEC, xem xét và điều phối ngân sách và chương trình công tác của các Ủy
ban, các Nhóm công tác và Nhóm đặc trách.
Trước hội nghị quan chức cao cấp sẽ có các cuộc họp của các Nhóm công tác
liên quan gồm đại diện cho các thành viên APEC để chuẩn bị những nội dung cần thiết
báo cáo lên Hội nghị các quan chức cao cấp. Hội nghị các quan chức cao cấp có trách
nhiệm thúc đẩy tiến trình APEC phù hợp với các quyết định của hội nghị các nhà lãnh
đạo kinh tế, Hội nghị Bộ trưởng và các chương trình hành động thông qua các hội nghị
này.
- Ủy ban thương mại và đầu tư:
Ủy ban thương mại và đầu tư ( CTI ) được thành lập năm 1993 trên cơ sở tuyên
bố về “ Khuôn khổ về hợp tác và đầu tư ” của Hội nghị Bộ trưởng. Ủy ban thương mại
và đầu tư có nhiệm vụ thúc đẩy hợp tác kinh tế về tự do hóa thương mại và tạo môi
trường đầu tư cởi mở hơn giữa các nền kinh tế thành viên. Ủy ban thương mại và đầu
tư soạn thảo báo cáo hàng năm trình Hội nghị Bộ trưởng về các vấn đề có liên quan
đến thương mại và đầu tư trong khu vực đồng thời chỉ đạo các tiểu ban kỹ thuật và
nhóm có chuyên gia trong việc giải quyết các vấn đề cụ thể. Hàng năm Uỷ ban thương
mại và đầu tư nhóm họp 3 lần và đây thực sự đã trở thành Diễn đàn kinh tế hiệu quả
đối với các nước thành viên để trao đổi các vấn đề thưong mại và chính sách.

- Uỷ ban SOM về hợp tác kinh tế -kỹ thuật ( ESC )
Được thành lập năm 1998 nhằm hỗ trợ Hội nghị quan chức cao cấp ( SOM ) trong
các hoạt động hỗ trợ hợp tác kinh tế và kỹ thuật ( ECOTECH ) và triển khai các sáng
kiến hợp tác trong lĩnh vực này của các nền kinh tế thành viên APEC. Mới đầu đây chỉ
là tiểu ban về ECOTECH, năm 2002 đổi thành Uỷ ban SOM về hợp tác kinh tế và kỹ
thuật ESC. Bằng việc hợp tác và xác định những lĩnh vực ưu tiên trong khuôn khổ hợp
tác ECOTECH, uỷ ban SOM về hợp tác kinh tế kỹ thuật cùng với các diễn đàn khác
trong APEC giữ vai trò quan trọng trong việc thực hiện tăng trưởng và phát triển bền
vững APEC.
- Uỷ ban ngân sách và quản lý ( BMC ).
Được thành lập năm 1993, có chức năng tư vấn cho các quan chức cao cấp về
những vấn đề ngân quỹ, quản lý và điều hành, giải quyết các vấn đề liên quan đến
ngân sách chung của APEC hay phí đóng góp của mỗi nền kinh tế thành viên. Uỷ ban
này được trao quyền đánh giá cơ cấu chung của ngân sách hàng năm và xem xét các
ngân sách hoạt động do các nhóm công tác, các Uỷ ban đưa ra và ngân sách hành
chính do Ban thư ký đưa ra. Uỷ ban có quyền đánh giá về hoạt động của các nhóm
Giảng viên: GS.TS.NGƯT Bùi Xuân Phong Trang 7
NHÓM 1 QTDN2
công tác và khuyến nghị với các quan chức cao cấp APEC về các biện pháp nhằm
nâng cao hiệu quả, xem xét các khoản chi tiêu của nhóm công tác và dự án của các
nhóm đặc trách. Uỷ ban quản lý họp mỗi năm hai lần vào cuối tháng ba và tháng bảy.
- Ủy ban kinh tế ( EC )
Ủy ban kinh tế ( EC ) được thành lập tại Hội nghị Bộ trưởng APEC lần thứ 6
(11/1994) để thực hiện việc nghiên cứu các xu hướng và vấn đề kinh tế thông qua các
chỉ số kinh tế cơ bản. Ủy ban kinh tế là 1 diễn đàm thúc đẩy đối thoại giữa các nền
kinh tế thành viên về các vấn đề kinh tế, dự báo xu hướng kinh tế trong khu vực,hỗ trợ
cho việc soạn thảo chính sách trong các diễn đàm khác trong APEC.
Hiện nay, EC đang xúc tiến nghiên cứu một số vấn đề kinh tế và hợp tác kinh tế
như: các vấn đề liên quan đến Kinh tế mới và Kinh tế tri thức; triển vọng kinh tế khu
vực hàng năm và vai trò của các thể chế tài chính; một số chương trình hỗ trợ quá trình

Tự do hóa, Thuận lợi hóa Thương mại và Đầu tư.
- Các nhóm công tác:
Các nhóm công tác có chức năng thực hiện nhiệm vụ do các Nhà lãnh đạo, Bộ
trưởng và quan chức cao nhất giao cho. Cho tới nay, APEC đã lập ra 11 nhóm công tác
phụ trách các lĩnh vực sau: Hợp tác kỹ thuật nông nghiệp, năng lượng, nghề cá, phát
triển nguồn nhân lực, khoa học và công nghệ, bảo vệ tài nguyên biển, doanh nghiệp
vừa và nhỏ, thông tin và viễn thông, du lịch, xúc tiến thương mại, vận tải. Phần lớn
hoạt động của Nhóm là khảo sát tiềm năng phát triển và thúc đẩy sự tăng trưởng trong
các lĩnh vực do từng nhóm phụ trách. Thông qua các hoạt động này, các thành viên
APEC xây dựng những mối liên hệ thực sự giữa các đại diện chính giới, giới doanh
nghiệp và học giả.
Hoạt động của các Uỷ ban chuyên đề, các nhóm đặc trách của SOM và các nhóm
công tác là nền tảng chủ yếu của diễn đàn APEC. Thực tế, đây là những diễn đàn nhỏ
để các thành viên thảo luận, tư vấn chính sách và hợp tác trên các lĩnh vực cụ thể.
Những nghiên cứu của các nhóm đặc trách, các chương trình hợp tác do các nhóm
công tác soạn thảo là cơ sở chủ yếu để Hội nghị Bộ trưởng đưa ra các quyết định liên
quan đến phương hướng hoạt động của APEC.
- Các nhóm đặc trách của SOM.
Bên cạnh các nhóm công tác, hội nghị Quan chức Cao Cấp ( SOM ) đã lập ra 3
nhóm đặc trách nhằm xác định các vấn đề và đưa ra các khuyến nghị về những lĩnh
vực quan trọng cần xem xét trong khuôn khổ hợp tác của APEC. Hiện đang có 3 nhóm
đặc trách của SOM:
+ Nhóm đặc trách về mạng các điểm liên hệ về giới được thành lập từ năm 2003
nhằm tiếp tục các chương trình về hội nhập thế giới và thúc đẩy sự tham gia của nữ
giới vào các hoạt động Thương mại trong khu vực APEC.
Giảng viên: GS.TS.NGƯT Bùi Xuân Phong Trang 8
NHÓM 1 QTDN2
+ Nhóm đặc trách về thương mại điện tử được thành lập từ tháng 2 năm 1999 với
vai trò phối hợp và thúc đẩy các hoạt động hợp tác thương mại của APEC thông qua
hệ thống các quy định, luật lệ, chính sách minh bạch và nhất quán.

+ Nhóm đặc trách về Chống khủng bố được thành lập tại Hội nghị các quan chức
cao cấp tháng 2 năm 2003. Nhóm đặc trách về chống khủng bố có chức năng giúp đỡ
nền kinh tế các nước thành viên trong việc xác định và đánh giá những biện pháp cần
thiết để chống khủng bố, phối hợp các chương trình hỗ trợ về kỹ thuật và năng lực và
thúc đẩy quan hệ hợp tác giữa APEC với các tổ chức quốc tế và khu vực trong các vấn
đề liên quan đến chống khủng bố. Các lĩnh vực ưu tiên trong chương trình hoạt động
của nhóm đặc trách về chống khủng bố.
2.3 Ban thư ký
Hội nghị bộ trưởng lần thứ 4 tại Bangkok ( Thái Lan ) năm 1992 nhận thấy cần
phải có 1 cơ chế giúp việc hiệu quả để hỗ trợ và phối hợp các hoạt động trong APEC
nhằm tăng cường vai trò và hiệu quả của APEC trong xúc tiến hợp tác kinh tế khu vực,
và nhất trí thành lập Ban thư ký APEC, đặt trụ sở tại Singapore và lập 1 quỹ chung của
APEC.
Đứng đầu Ban thư ký là 1 giám đốc điều hành, do thành viên đăng cai tổ chức
các Hội nghị APEC (Hội nghị Bộ trưởng chung và Hội nghị các nhà lãnh đạo APEC)
đề cử ra. Nhiệm kỳ của giám đốc điều hành là 1 năm. Ngoài ra, còn có 1 phó giám đốc
điều hành do thành viên sẽ đăng cai tổ chức Hội nghị APEC vào năm kế tiếp cử ra.
Ban thư ký làm việc dưới sự chỉ đạo của Hội nghị Quan chức cao cấp và có
quan hệ thông tin, trực tiếp thường xuyên với các thành viên, các Ủy ban, các Nhóm
công tác và các Nhóm đặc trách của APEC.
Ban thư ký APEC có chức năng tư vấn, hỗ trợ kỹ thuật, phối hợp các hoạt động
của APEC; điều hành ngân sách hàng năm của APEC cũng như quản lý thông tin và
các dịch vụ thông tin tuyên truyền, đồng thời là cơ quan chủ chốt trong việc quản lý
các dự án của APEC. Từ năm 1993 do vấn đề tài chính và ngân sách trở nên phức tạp,
chức năng điều hành tài chính được chuyển giao cho Ủy ban Ngân sách và Quản lý.
3. Cơ chế hoạt động
APEC hoạt động như một diễn đàm hợp tác thương mại và kinh tế đa
phương.Các nền kinh tế thành viên thực hiện các hành động riêng lẻ và tập thể nhằm
mở cửa thị trường và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.Các hành động này được thảo luận
tại hội nghị các quan chức cao cấp ( SOM ), Hội nghị bộ trưởng và cuối cùng là hội

nghị của các nhà lãnh đạo 21 thành viên. Các nhà lãnh đạo APEC là người đưa ra định
hướng chính sách của APEC. Các bộ trưởng và hội đồng tư vấn doanh nghiệp đệ trình
lên các nhà lãnh đạo các vấn đề mang tính chiến lược. Các hoạt động và dự án của
APEC ở cấp chuyên viên do các quan chức cao cấp APEC định hướng và được thực
hiện thông qua Ủy ban thương mại và đầu tư, Ủy ban kinh tế, Ủy ban Quản lý và Ngân
sách, ban chỉ đạo (SOM ) về hợp tác kinh tế và kỹ thuật. Các tiểu ban, nhóm chuyên
gia, nhóm công tác và nhóm đặc trách có trách nhiệm triển khai những hoạt động do 4
ủy ban này đề ra.
Giảng viên: GS.TS.NGƯT Bùi Xuân Phong Trang 9
NHÓM 1 QTDN2
4. Mục tiêu và nguyên tắc hoạt động
4.1. Mục tiêu
Mục tiêu hoạt động chính của APEC được thể hiện thông qua Tuyên bố của
Hội nghị Cấp cao đầu tiên APEC được tổ chức tại Baske Island ( 1993) và tuyên bố
Bô-go (1994). Theo Tuyên bố Baske Island, mục tiêu dài hạn của APEC là thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế và sự thịnh vượng cho khu vực và phát triển cộng đồng Châu Á –
Thái Bình Dương.
Trên cơ sở mục tiêu dài hạn đó, Tuyên bố Bô-go 1994 của các nhà Lãnh đạo
APEC đã xác định mọi hoạt động của APEC nhằm thực hiện 3 mục tiêu lớn sau đây,
hay gọi là mục tiêu Bô-go:
- Củng cố hệ thống thương mại đa phương: APEC sử dụng đầy đủ các nguyên
tắc và kết quả của WTO để thự hiện các vòng đàm phán nội bộ khối và phát triển
những kết quả vì mục tiêu tự do hóa hơn trong nội bộ khối.
- Tăng cường tự do hóa thương mại và đầu tư: thúc đẩy và phát triển quan hệ
thông qua việc loại bỏ những hạn chế về thương mại và đầu tư, xúc tiến trao đổi hàng
hóa và dịch vụ, tư bản giữa các nền kinh tế. Mốc thời hạn tự do hóa thương mại và đầ
tư của APEC là năm 2010 đối với các thành viên phát triển và năm 2020 đối với các
thành viên đang phát triển.
- Tăng cường hợp tác kinh tế – kĩ thuật giữa các nền kinh tế APEC nhằm bảo
đảm cho các nền kinh tế thành viên thực hiện có hiệu quả các cam kết quốc tế.

Ngoài những mục tiêu cụ thể trên, APEC cũng hoạt động theo hướng tập hợp
lực lượng chính trị để tạo thế và lực trong các cuộc đàm phán đa biên và ổn định kinh
tế khu vực. Hoạt động chính của APEC là các vấn đề kinh tế. Tuy nhiên gần đây, vấn
đề chính trị và an ninh cũng thường xuyên được đưa vào chương trình nghị sự của
APEC.
Căn cứ vào từng thời kỳ mà mục tiêu của APEC có những thay đổi cho phù hợp
với tình hình chung của các nước trong khu vực Châu Á – Thái Bình Dương và tình
hình chung của toàn thế giới.
“Định hình tương lai thông qua đối tác châu Á - Thái Bình Dương” sẽ là chủ đề
của Hội nghị thượng đỉnh Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương
(APEC) lần thứ 22, sẽ diễn ra tại Trung Quốc vào năm 2014.
Tại cuộc họp các quan chức cấp cao APEC diễn ra ngày 10/12 ở Bắc Kinh, ông Vương
Nghị, Ngoại trưởng Trung Quốc, nước giữ chức chủ tịch APEC 2014 bày tỏ hy vọng,
các thành viên diễn đàn này sẽ chung tay vượt qua các thách thức và thúc đẩy sự phát
triển bền vững của khu vực thông qua việc xây dựng đối tác chặt chẽ xuyên Thái Bình
Dương.
Giảng viên: GS.TS.NGƯT Bùi Xuân Phong Trang 10
NHÓM 1 QTDN2
Theo Bộ ngoại giao Trung Quốc, các chủ đề chính của hội nghị thượng đỉnh APEC
2014 là thúc đẩy hội nhập kinh tế khu vực, cải cách kinh tế và tăng trưởng, tăng cường
kết nối toàn diện và phát triển cơ sở hạ tầng. Với 21 nền kinh tế thành viên, APEC là
cơ chế hợp tác kinh tế có ảnh hưởng nhất trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương.
Mục tiêu chính và lớn nhất cua APEC vẫn là hội nhập kinh tế.
4.2. Nguyên tắc hoạt động của APEC.
Để thực hiện mục tiêu Bô-go về thương mại – đầu tư tự do và mở, các nhà Lãnh
đạo Kinh tế APEC đã thông qua Kế hoạch Hành động Osaka ( OAA ) năm 1995, trong
quy định tất cả các hoạt động của APEC được điều tiết bởi những nguyên tắc chung
sau:
- Bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau.
- Hỗ trợ và cùng có lợi.

- Quan hệ đối tác chân thành và trên tinh thần xây dựng.
- Mọi quyết định được đưa ra trên cơ sở đồng thuận, nhất trí chung.
Các nguyên tắc chung này đã được cụ thể hóa thành 9 nguyên tắc cơ bản sau:
- Toàn diện.
- Phù hợp với Tổ chức Thương mại Thế giới ( WTO ).
- Đảm bảo mối tương đồng giữa các thành viên.
- Không phân biệt đối xử.
- Đảm bảo công khai, minh bạch.
- Lấy mức bảo hộ hiện tại làm mốc để giảm dần.
- Đồng loạt triển khai tiến trình tự do hóa, thuận lợi hóa thương mại và đầu tư.
- Có sự linh hoạt.
- Hợp tác.
5. Phạm vi hoạt động.
Các hoạt động của APEC dựa trên 3 trụ cột chính như sau:
- Tự do hóa thương mại và đầu tư.
- Tạo thuận lợi cho doanh nghiệp.
- Hợp tác kinh tế và kĩ thuật.
Giảng viên: GS.TS.NGƯT Bùi Xuân Phong Trang 11
NHÓM 1 QTDN2
Kết quả hoạt động trên ba lĩnh vực này giúp các nền kinh tế thành viên APEC
củng cố nền kinh tế của mình thông qua việc chia sẻ ý kiến và thúc đẩy hợp tác trong
khu vực nhằm đạt được hiệu quả và tăng trưởng.
- Tự do thương mại và đầu tư tập trung vào việc mở cửa thị trường, cắt giảm và
dần dần dẫn đến loại bỏ hoàn toàn các rào cản thuế và phi thuế đối với thương mại và
đầu tư. Các biện pháp tự do hóa đã dẫn tới việc cắt giảm khá lớn các loại thuế suất.
Mức thuế suất khẩu trung bình của các nền kinh tế thành viên APEC đã giảm đáng kể,
từ 16,6% năm 1989 xuống còn 5,5 % năm 2004. tất cả các nền kinh tế phát triển của
APEC hiện tại đều có mức thuế suất trung bình thấp hơn 5%.
- Tạo thuận lợi cho doanh nghiệp tập trung vào việc giảm chi phí giao dịch.
APEC phấn đấu mục tiêu cắt giảm 5% chi phí giao dịch vào năm 2006 (dựa trên các số

liệu của năm 2001). Tạo thuận lợi cho doanh nghiệp cũng tập trung vào việc cải thiện,
việc tiêp cận với các thông tin thương mại, tối đa hóa lợi ích thông tin và công nghệ
thông tin đồng thời hài hòa các chiến lược và chính sách doanh nghiệp nhằm tạo điều
kiện tăng trưởng. Tạo thuân lợi cho doanh nghiệp giúp các nhà xuất khẩu ở khu vự
Châu Á – Thái Bình Dương tiến hành kinh doanh một cách hiệu quả hơn. Chi phí sản
xuất giảm, dẫn tới tăng trao đổi thương mại, hàng hóa, dịch vụ rẻ hơn và cơ hội việc
làm ngày càng nhiều.
- Hợp tác kinh tế và kĩ thuật ( ECOTECH ) bao gồm việc đào tạo và các hoạt
động hợp tác khác nhằm xây dựng năng lực cho các nền kinh tế thành viên APEC ở
các mức độ khác nhau, tạo điều kiện để các thành viên tận dụng thương mại toàn cầu
và nền kinh tế mới.
6. Thành tựu.
Kể từ ngày khởi đầu APEC vào năm 1989, tổng thương mại của APEC đã tăng
trưởng 395%, đáng kể vượt quá so với phần còn lại của thế giới. Trong cùng kỳ, GDP
trong khu vực APEC đã tăng gấp 3, trong khi GDP trong phần còn lại của thế giới có ít
hơn gấp đôi APEC làm việc dưới trụ cột của 3 hoạt động chính, Thương mại và Đầu tư
tự do hóa, thuận lợi kinh doanh và kinh tế và hợp tác kỹ thuật, ổ đĩa này giúp tăng
trưởng kinh tế và cải thiện cơ hội việc làm và mức sống cho các công dân của khu vực.
6.1. Tự do hóa Thương mại và đầu tư.
Từ năm 1994, để thực hiện mục tiêu Bô-go, APEC đã triển khai nhiều biện
pháp tự do hóa thương mại và đầu tư với những kết quả quan trọng: thuế quan trung
bình của APEC giảm từ 16,9% năm/ 1989 xuống còn 5,5% năm 2009; trong giai đoạn
1994-2009, tổng giao dịch hàng hóa của các nền kinh tế APEC tăng 7,1%/năm, đạt
5.600 tỷ USD năm 2009, tổng xuất khẩu dịch vụ tăng 7,2%/năm, đạt trên 1.200 tỷ
USD năm 2009; đầu tư nước ngoài tăng 4 lần trong giai đoạn 1994-2008, đạt 791 tỷ
USD năm 2008. Theo dự thảo Báo cáo đánh giá thực hiện mục tiêu Bô-go (dự kiến
thông qua tại HNCC APEC, 18), APEC đã cơ bản hoàn thành các mục tiêu Bô-go
2010, đồng thời cần tiếp tục thúc đẩy tự do hóa trên một số lĩnh vực, nhất là xóa bỏ
Giảng viên: GS.TS.NGƯT Bùi Xuân Phong Trang 12
NHÓM 1 QTDN2

các rào cản phi thuế quan, tăng cường cải cách các cơ chế quản lý “sau biên giới”,
v.v Các thành viên cũng nhấn mạnh APEC cần có chiến lược hỗ trợ kỹ thuật để giúp
các nền kinh tế đang phát triển thực hiện các mục tiêu Bô-go vào năm 2020.
6.2. Tạo thuận lợi cho kinh doanh.
APEC đã tiến hành nhiều biện pháp nhằm thuận lợi hóa kinh doanh bao gồm:
cắt giảm 5% chi phí giao dịch kinh doanh giai đoạn 2001- 2006 (Chương trình hành
động thuận lợi hóa thương mại - TFAP I) và đang triển khai TFAP II giai đoạn 2006-
2010; triển khai Kế hoạch hành động về Thuận lợi hóa kinh doanh với mục tiêu đưa
hoạt động kinh doanh rẻ hơn, nhanh hơn và đơn giản hơn 25% trước năm 2015; thực
hiện Chương trình thẻ đi lại cho doanh nhân ABTC; thúc đẩy Kế hoạch hành động hạ
thấp các rào cản đối với dây chuyền cung ứng với mục tiêu cải thiện 5% hoạt động của
dây chuyền cung ứng vào năm 2015; và thúc đẩy Chiến lược đầu tư APEC. Đặc biệt,
APEC đang xây dựng Chiến lược mới về cải cách cơ cấu, dự kiến sẽ thông qua tại
HNCC 18 lần này.
6.3. Kinh tế và hợp tác kỹ thuật.
ECOTECH là một trong những trọng tâm hợp tác của APEC và được các thành
viên đang phát triển coi trọng. Hợp tác ECOTECH nhằm 2 mục đích lớn đó là: Giúp
tăng cường năng lực để các thành viên tận dụng tốt cơ hội do quá trình tự do hóa mang
lại, và Góp phần thúc đẩy tự do hóa thương mại và đầu tư trong khu vực. Theo đó, bên
cạnh các mục tiêu dài hạn, APEC đã xác định 5 lĩnh vực ưu tiên trung hạn gồm: liên
kết kinh tế khu vực, giải quyết các vấn đề xã hội của toàn cầu hóa, bảo đảm chất lượng
cuộc sống, cải cách cơ cấu, và an ninh con người. Với hàng nghìn dự án đã được triển
khai, hợp tác ECOTECH tập trung vào việc chia sẻ thông tin và kinh nghiệm hoạch
định chính sách, xây dựng thông lệ chính sách tốt nhất, tổ chức đào tạo, hội thảo nâng
cao nhận thức và năng lực xử lý các vấn đề chính sách và kỹ thuật cho các nền kinh tế
thành viên.
6.3. Về an ninh con người
Trước những thách thức toàn cầu đang nổi lên, những năm gần đây nội dung
hợp tác của APEC được mở rộng thêm nhiều lĩnh vực mới như an ninh lương thực, đối
phó với tình trạng khẩn cấp, chống khủng bố, an ninh năng lượng, v.v Trong những

năm qua, APEC đã thông qua nhiều văn kiện quan trọng và thúc đẩy, triển khai nhiều
sáng kiến về tăng cường năng lực nhằm bảo đảm một môi trường kinh doanh an toàn
tại Châu Á – Thái Bình Dương (Tuyên bố HNCC 9 năm 2001 về chống khủng bố,
Chiến lược APEC 2009-2015 về Giảm thiểu rủi ro và đối phó với tình trạng khẩn cấp
năm 2008, dự kiến thông qua Kế hoạch hành động 2011-2015 về an ninh lương thực
và phát triển nguồn nhân lực tại HNCC 18… Ngày nay APEC đã trở thành một diễn
đàn liên khu vực quan trọng, kết nối nhiều nền kinh tế năng động và đóng góp cho sự
phồn vinh và phát triển bền vững trong khu vực cũng như trên thế giới.
6.4. Một số thành tựu khác.
APEC và những kết quả hợp tác nổi bật trong 25 năm qua
Giảng viên: GS.TS.NGƯT Bùi Xuân Phong Trang 13
NHÓM 1 QTDN2
Mục tiêu xuyên suốt được các thành viên nỗ lực thực hiện trong suốt những
năm qua là mở rộng và tăng cường liên kết kinh tế khu vực, theo tinh thần của Mục
tiêu Bogor là thúc đẩy tự do hóa, thuận lợi hóa thương mại và đầu tư vào năm 2010
đối với các thành viên phát triển và năm 2020 đối với các thành viên đang phát triển.
Với nguyên tắc hoạt động tự nguyện, linh hoạt, đồng thuận và cùng phát triển,
nỗ lực thực hiện Mục tiêu Bogor đã mang lại những kết quả hết sức cụ thể và có ý
nghĩa. Từ năm 1989 đến năm 2013, thương mại giữa các thành viên tăng gần 5 lần, từ
1,7 nghìn tỷ USD lên hơn 11 nghìn tỷ USD, cao hơn thương mại nội khối hiện nay của
Liên minh châu Âu; mức thuế trung bình trong khu vực giảm gần 6 lần, từ 16,9% năm
1989 xuống còn 5,8% năm 2013; chi phí giao dịch thương mại cũng giảm đáng kể, qua
2 lần cắt giảm 5% vào các năm 2006 và 2010.
APEC là Diễn đàn hợp tác đa phương đầu tiên đạt thỏa thuận về Danh mục
hàng hóa môi trường, vấn đề mà WTO thúc đẩy hơn một thập niên qua, theo đó, 54
mặt hàng môi trường sẽ giảm thuế ở mức dưới 5% vào năm 2015. Các thành viên
APEC cũng đang thúc đẩy liên kết kinh tế thông qua kết nối về cơ sở hạ tầng, xây
dựng chuỗi cung ứng đáng tin cậy và minh bạch hóa, hướng tới Khu vực thương mại
tự do châu Á-Thái Bình Dương.
Trước những thách thức ngày càng gia tăng của các vấn đề khu vực và toàn cầu,

từ ba trụ cột hợp tác ban đầu về tự do hóa, thuận lợi hóa thương mại, đầu tư và hợp tác
kinh tế kỹ thuật, APEC đã không ng ừng mở rộng nội dung hợp tác nhằm đáp ứng các
yêu cầu về phát triển trong từng giai đoạn. Hợp tác về an ninh con người và ứng phó
với các thách thức toàn cầu trở thành một trong những ưu tiên trong chương trình nghị
sự của APEC, bao gồm chống chủ nghĩa khủng bố, ứng phó với biến đổi khí hậu, thiên
tai và tình trạng khẩn cấp, giải quyết các thách thức an ninh lương thực-nước-năng
lượng, hợp tác giáo dục
Để đối phó với khủng hoảng kinh tế toàn cầu, APEC đã và đang thúc đẩy
chuyển sang mô hình tăng trưởng xanh và bền vững, tăng cường kết nối khu vực, tích
cực triển khai Chiến lược tăng trưởng mới với 5 nội hàm là cân bằng, đồng đều, bền
vững, đổi mới và an toàn.
Vài năm trở lại đây, trong bối cảnh kinh tế thế giới phục hồi chậm, tập hợp lực
lượng và xu thế liên kết đa tầng nấc trong khu vực đang có những biến chuyển sâu sắc
và nhanh chóng, hơn lúc nào hết, APEC tiếp tục khẳng định vai trò đầu tàu của mình,
đóng góp vào việc thúc đẩy hệ thống thương mại đa phương và sự phát triển năng
động của châu Á-Thái Bình Dương.
7. Khó khăn và thách thức
Sự xuất hiện của nhiều vấn đề an ninh phi truyền thống (khủng bố, dịch bệnh,
thiên tai, an ninh năng lượng, an toàn thực phẩm…), và mặt trái của toàn cầu hóa với
sự gia tăng khoảng cách kinh tế và công nghệ giữa các nền kinh tế thành viên. Hơn
nữa, APEC đã và đang phải đối mặt với một thách thức lớn là hiệu quả hoạt động chưa
cao, chưa đáp ứng được những biến động của tình hình, cũng như chưa phát huy tối đa
được vị thế của mình so với các diễn đàn và cơ chế khác trong khu vực. Nếu như
những năm qua, mục tiêu Bô-go luôn luôn là đích phấn đấu của các nền kinh tế thành
Giảng viên: GS.TS.NGƯT Bùi Xuân Phong Trang 14
NHÓM 1 QTDN2
viên, thì đường lối và chiến lược sau năm 2020 của APEC được coi là một trong
những thách thức lớn nhất của diễn đàn.
Để vượt qua những thách thức mới, nhất là trong bối cảnh hậu khủng hoảng,
APEC đang nỗ lực thúc đẩy hợp tác, phối hợp hành động thông qua các Kế hoạch

hành động tập thể (CAP) và quốc gia (IAP). Nội dung chính của những kế hoạch này
là các cam kết hạ thấp hàng rào thuế quan, cắt giảm chi phí giao dịch, cải cách kinh tế,
chống tham nhũng, tăng cường tính minh bạch, nhằm bảo đảm APEC tăng trưởng toàn
diện và phát triển bền vững vì tương lai và hạnh phúc của 2,6 tỉ người dân khu vực.
CHƯƠNG II: VIỆT NAM GIA NHẬP APEC CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC
1. Việt Nam gia nhập APEC
1.1 Nguyên nhân Việt Nam gia nhập.
- Xu thế toàn cầu hóa và khu vực hóa.
+ Xu thế toàn cầu hóa và khu vực hóa. Xu thế toàn cầu hóa và khu vực hóa là xu thế
liên kết, hợp tác, trao đổi những giá trị, những hoạt động chính trị, kinh tế, thương mại
và khoa học –kỹ thuật trên phạm vi khu vực và quốc tế.
+ Xu thế toàn cầu và khu vực hóa kinh tế bắt nguồn từ sự phát triển mạnh mẽ của lực
lượng sản xuất, sự phân công lao động quốc tế ngày càng sâu sắc, trên cơ sở đó thúc
đẩy hình thái quan hệ liên kết, hợp tác, sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia, dân
tộc.
+ Từ giữa thập kỷ 80 đến đầu thật kỷ 90 tình hình thế giới có nhiều thay đổi.
- Tăng cường quan hệ với các nước trong khu vực nhằm phá vỡ thế bao vây cấm
vận và tụt hậu về kinh tế.
Giảng viên: GS.TS.NGƯT Bùi Xuân Phong Trang 15
NHÓM 1 QTDN2
+ Quan hệ giữa Việt Nam với các nước châu Á – Thái Bình Dương trước năm 1991
trải qua nhiều thăng trầm. Sự bao vây cô lập của một số quốc gia trong khu vực đối
với nước ta đã gây ra những khó khăn nghiêm trọng và là nguyên nhân gây nên cuộc
khủng hoảng kinh tế - xã hội ở Việt Nam trong những năm 80. Giải tỏa tình trạng căng
thẳng, đối đầu, thù địch giữa Việt Nam với các nước trong khu vực nhằm phá thế bị
bao vây, cấm vận, tiến tới thiết lập và mở rộng quan hệ hợp tác với các nước là hết sức
quan trọng và cấp bách nhằm tạo môi trường thuận lợi để xây dựng đất nước.
+ Giữa những năm 90, dù đã đạt được những thành tựu quan trọng trong lĩnh vực kinh
tế qua hơn 10 năm đổi mới, nhưng Việt Nam vẫn là nền kinh tế có trình độ kỹ thuật
thấp, cơ sở hạ tầng và dịch vụ còn thấp; các doanh nghiệp có năng suất lao động thấp,

chi phí sản xuất cao, sản phẩm có sức cạnh tranh thấp…việc sử dụng các nguồn lực
như đất đai, tài nguyên, lao động kém hiệu quả. Khoảng cách về trình độ phát triển của
nước ta với các nước trong khu vực và thế giới chậm và bị thu hẹp. Để khắc phục nguy
cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế, thu hẹp khoảng cách phát triển giữa Việt Nam và các
nước, ngoài việc phát huy nguồn lực bên trong ta cần phải tranh thủ các nguồn lực bên
ngoài, trong đó việc tham gia vào các tổ chức thương mại trong khu vực và thế giới có
ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
1.2 Mục tiêu của Việt Nam khi gia nhập APEC.
- Thực hiện chủ trương tăng cường hội nhập kinh tế để mở đường cho thương
mại phát triển:
+ Mở rộng thị trường xuất khẩu cho hàng hóa Việt Nam gia nhập thị trường các nước,
đẩy mạnh xuất khẩu, tạo điều kiện thu hút đầu tư trong và ngoài nước, thúc đẩy quá
trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
+ Phát huy lợi thế so sánh, nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa và dịch vụ thương
mại, đảm bảo nền kinh tế tăng trưởng cao và bền vững.
+ Tham gia hợp tác có chọn lọc các hoạt động thiết thực để góp phần giảm bớt rào cản
cho hàng xuất khẩu của ta, giảm chi phí kinh doanh cho các doanh nghiệp.
- Tham gia APEC để tận dụng sự ủng hộ của các thành viên khu vực trong quá
trình đàm phán gia nhập WTO.
- Tham gia APEC nhằm tạo điều kiện cho cán bộ làm công tác hoạch định chính
sách và tham gia đàm phán quốc tế cũng như cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam có cơ
Giảng viên: GS.TS.NGƯT Bùi Xuân Phong Trang 16
NHÓM 1 QTDN2
hội cọ xát, tập dượt trong diễn đàm khu vực trước khi chính thức ra nhập ASEAN và
WTO.
- Tham gia APEC để tăng cường thế lực của việt Nam trên trường quốc tế, đặc
biệt là củng cố vị thế và mối quan hệ kinh tế, thương mại giữa Việt Nam và các nước
trong khu vực.
1.3. Quá trình Việt Nam gia nhập APEC.
Ngày 15-06-1996, Việt Nam đã chính thức gửi đơn xin gia nhập APEC do bộ

trưởng Bộ ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm ký. Tiếp đó Việt Nam đã xây dựng và gửi
bản ghi nhớ về chế độ kinh tế Việt Nam (Aide – Memorie) cho ban thư ký APEC để
tạo điều kiện thuận lợi cho các nước APEC trong quá trình nghiên cứu và xét duyệt
việc gia nhập của Việt Nam, đồng thời cũng tiến hành chuẩn bị những yếu tố cần thiết
để có thể tham gia đầy đủ vào các chương trình hợp tác của APEC sau khi là thành
viên.
Tại hộ nghị thượng đỉnh và hội nghị cấp Bộ trưởng vào ngày 24, 25 tháng 11
năm 1997 tại Vancourver (Canada), APEC đã tuyên bố chấp nhận kết nạp Việt Nam,
Peru và Nga vào tháng 11 năm 1998. Với sự nỗ lực phấn đấu của Việt Nam và sự đồng
tình ủng hộ của các nước trong khu vực, tại hội nghị ngoại trưởng APEC ngày
14,15/11/1998 ( kualalumpur, Malaysia) Việt Nam được kết nạp vào làm thành viên
chính thức của APEC.
2. Cơ hội của Việt Nam
Thời gian qua, APEC đã và đang đẩy mạnh việc thực hiện mục tiêu tạo thuận lợi
một cách tối đa cho cộng đồng doanh nghiệp. Trên thực tế, khó có thể lượng hóa được
những gì mà doanh nghiệp khu vực đã đạt được hưởng từ tiến trình tự do hóa và thuận
lợi hóa thương mại APEC vì môt số lợi ích hữu hình, một số là vô hình, một số có tính
dài hạn, số khác lại là ngắn hạn. Qua phân tích dưới đây, doanh nghiệp có thể hình
dung một bức tranh tổng thể về những cơ hội và lợi ích mà APEC đã và sẽ tiếp tục
mang lại để xác định đường hướng cho riêng mình trong quá trình tham gia vào các
hoạt động của APEC trong thời gian tới.
Trước hết, tự do hóa thương mai và đầu tư trong APEC tập trung vào việc tăng
cường tiếp cận và mở cửa thị trường, cắt giảm và dần dần tiến tới loại bỏ hoàn toàn
các rào cản thuế quan và phi thuế quan đối với thương mại và đầu tư trong khu vực.
Các biện phát tự do hóa đã dẫn tới việc cắt giảm khá lớn các loại thuế suất trong nhiều
ngành hàng. Theo báo các Viễn cảnh Kinh tế APEC năm 2004 thì mức thuế suất trung
bình cả các nền kinh tế thành viên APEC đã giảm đáng kể, từ 16,6% năm 1988 xuống
Giảng viên: GS.TS.NGƯT Bùi Xuân Phong Trang 17
NHÓM 1 QTDN2
còn 6,4% năm 2004. Tất cả các nền kinh tế phát triển cả APEC hiện tại đều có mức

thuế suất trung bình thấp hơn 5%.
Có thể thấy trong thập kỷ đầu tiên kể từ khi thành lập, các nền kinh tế thành
viên APEC đã tạo ra xấp xỉ 70% tăng trưởng kinh tế toàn cầu. Khu vực APEC đã liên
tục có sự phát triển kinh tế vượt trội so với các khu vực khác trên thế giới, ngay cả
trong thời gian diễn ra khủng hoảng tài chính Châu Á. Các thành viên hợp tác nhằm
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thông qua cam kết cải cách kinh tế và tiến tới thương mại,
đầu tư an toàn, tự do và thông thoáng hơn. Qua nhiều chương trình, các thành viên đã
liên tục giảm thuế suất và xử lý các rào cản thương mại sau biên giới (behing the
border issues), đáp ứng ngày càng tốt hơn các nhu cầu của doanh nghiệp trong khi vực
và tạo điều kiện cho việc kinh doanh dễ dàng với chi phí rẻ hơn. Thông qua các
chương trình về hài hòa tiêu chuẩn, APEC đã xây dựng những thỏa thuận thừa nhận
lẫn nhau trong nhiều lĩnh vực như thiết bị viễn thông, thiết bị điện tử, thực phẩm và đồ
chơi. Những thỏa thuận này đã giúp giảm 15% chi phí dành cho việc đầu tư các thiết
bị kiểm tra và chứng nhận cũng như nhận lực cho việc tiến hành kiểm tra chất lượng
sản phẩm.
Bên cạnh đó, chương trình Thẻ đi lại của doanh nhận là một bước tiến lớn trong
việc thuận lợi cho việc đi lại của các doanh nhân trong khu vực. Với thẻ này, các
doanh nhân có thể tiết kiệm khá nhiều thời gian, công sức do không còn phải xin thị
thực nhập cảnh vào các thành viên APEC đồng thời được hưởng một lối nhập cảnh đặc
biệt dành cho doanh nhân APEC tại các cảnh hàng không quốc tế lớn. Ngoài ra, nhằm
tạo thuận lợi cho kinh doanh qua mạng trong thời đại kỹ thuật số, APEC cũng đang
xúc tiến các hoạt động phát triển thương mại điện tử, hỗ trợ năng lực ứng dụng thương
mại điện tử cho các doanh nghiệp APEC, cải thiện môi trường kinh doanh cho thương
mại điện tử.
Để tiện cho việc tìm kiếm, cập nhập thông tin của các doanh nghiêp, APEC đã
xây dựng trang web riêng tại trong đó bao gồm nhiều thông tin về
hệ thống chính sách kinh tế - thương mại của các thành viên, các biểu thuế áp dụng,
hướng dẫ về quy chế điều hành thương mại và đầu tư Thêm vào đó, APEC còn xuất
bản nhiều ấn phẩm khác cung cấp thông tin một cách đầy đủ, ngắn gọn và dễ sử dụng,
ví dụ Bản Hướng dẫn về đầu tư APEC cung cấp thông tin về khuôn khổ chính sách và

thuận lợi hóa đầu tư, bảo hộ đầu tư, khuyến khích đầy tư, tóm lược các hiệp định/luật
đầu tư quốc tế mà các thành viên APEC tham gia, đánh giá xu hướng đầu tư nước
ngoài Trong cuốn sổ tay Hải quan và Thuận lợi hóa thương mại APEC, ngoài các
thông tin về quy định và thủ tục hải quan còn cung cấp danh mục các điều khoản
doanh nghiệp cần biết khi tiến hành kinh doanh với từng thành viên APEC cụ thể.
Những thông tin như vây thực sự rất hữu ích cho doanh nghiệp trong quá trình tìm
hiểu cơ chế, chính sách của các thành viên APEC để có định hướng kinh doanh và đầu
tư đúng đắn. Thời gian tới, APEC vẫn tiếp tục đặt doanh nghiệp làm trọng tâm trong
Giảng viên: GS.TS.NGƯT Bùi Xuân Phong Trang 18
NHÓM 1 QTDN2
chương trình nghị sự, chú trọng khảo sát nhu cầu của doanh nghiệp để thiết kế các
chương trình hỗ trợ phục vụ sâu sát nhu cầu thực tế của doanh nghiệp.
3. Thách thức đối với Việt Nam
Tham gia APEC, Chính phủ và cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam có thể nắm
bắt được nhiều vận hội và lợi ích thiết thực như đã nêu ở trên. Tuy nhiên, song song
với cơ hội và lợi ích, bao giờ cũng tồn tại các trở ngại và thách thức. Nhận biết đầy đủ
các thách thức này sẽ giúp ta chuẩn bị tốt hơn để vừa đối phó, vừa xoay chuyển phù
hợp để tối đa hóa lợi ích cho mình. Dưới đây là một số thách thức cơ bản đối với
Chính phỉa và các doanh nghiệp khi tham gia APEC:
3.1. Thách thức đối với Chính phủ
Thứ nhất, nhận thức về APEC trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của
phần lớn đội ngũ cán bộ, giới học giả, cộng đồng doanh nghiệp cũng như quần chún
nhân dân còn nhiều hạn chế. Vấn đề này một phần do công tác tuyên truyền, phổ biến
về APEC mới chỉ đươc thực hiện ở mức đội nhất đinh cả về nội dung hình thức và đối
tượng. Hơn nữa, như đã đề cập ở trên, tác động của tiến trình APEC đến các nền kinh
tế không mang tính trực tiếp, trong ngắn hạn và bản chất của hợp tác APEC là tự
nguyện và không ràng buộc nên nhiều khi APEC vẫn chưa được chú trọng đúng mức.
Thứ hai, hệ thống pháp luật về thương mại, đầu tư của Việt Nam còn nhiều bất
cập, chưa thực sự phù hợp với thông lệ quốc tế và còn phải mất khá nhiều thời gian,
công sức để hoàn thiện. Cho tới nay, hệ thống chính sách thương mại và các chính

sách vĩ mô có liên quan của Việt Nam vẫn còn chồng chéo, chưa đồng bộ, chưa thực
sự khuyến khích quá trình mở rộng quan hệ buôn bán, đầu tư, hợp tác kinh tế kỹ thuật
của Việt Nam trong APEC. Một số biện phát chính sách tạo lợi thế cho kinh tế thương
mại được các tổ chức quốc tế thừa nhận thì ta lại chưa có hoặc đang trong quá trình
xây dựng.
Thứ ba, hạn chế về nguồn nhân lực. Hiện nay, chúng ta đang thiếu đội ngũ cán
bộ giỏi, có chuyên môn cao về bề dày kinh nghiệm trong hợp tác kinh tế quốc tế. Trình
độ cán bộ tham gia trực tiếp vào công tác cũng như thực hiện các cam kết quốc tế còn
thấp so với mặt bằng chung của khu vực. Một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn
đến tình trạng này là từ trước tới nay Việt Nam chưa có một chính sách quy hoạch
đồng bộ và ưu tiên thích đáng. Vấn đề thực thi chính sách còn nhiều bất cập cũng có
một phần nguyên nhân ở sự hạn chế về trình độ chuyên môn và năng lực thực thi pháp
luật. Cụ thể hơn, sự hiểu biết hạn chế về cơ chế thị trường và sự vận hành của nó cũng
như những quy định của thương mại quốc tế đang gây cản trở cho việc tham gia một
cách xây dựng và chủ động trong hợp tác APEC.
Thứ tư, khó khăn mang tính khách quan trong hợp tác APEC là tính bị động
của các nền kinh tế nhỏ và đang phát triển. Những nền kinh tế này, chủ yếu do hạn
chết về tiềm lực kinh tế, có lợi ích hạn chế hơn và có xu hướng bị phụ thuộc vào các
nền kinh tế lớn hơn. Vấn đề chính ở đây là trong bối cảnh nền kinh tế thế giới có nhiều
Giảng viên: GS.TS.NGƯT Bùi Xuân Phong Trang 19
NHÓM 1 QTDN2
biến động thì tiềm lực kinh tế thấp sẽ hạn chết rất nhiều cơ hội và lợi ích của các nước
đang phát triển như Việt Nam.
3.2. Thách thức đối với cộng đồng doanh nghiệp
Cũng như Chính phủ, các doanh nghiệp khi tham gia APEC cũng sẽ gặp một số
khó khăn nhất định, cụ thể là:
Thứ nhất, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam nhìn chung còn
yếu, năng lực sản xuất, năng lực công nghệ, năng lực vốn và kinh nghiệm quản lý đều
kém sức cạnh tranh hơn so với mặt bằng chung của doanh nghiệp khu vực. Do vậy,
khả năng cạnh tranh cũng theo đó chưa thể so sách được với các doanh nghiệp trong

APEC.
Thứ hai, đại đa số các doanh nghiệp Việt Nam chưa có nhận thức sâu về các
chương trình hợp tác APEC. Nhiều doanh nghiệp vẫn tỏ ra thờ ơ, không quan tâm tới
vai trò và lợi ích mà APEC mang lại cho bản thân doanh nghiệp. Về phía Chính phủ,
Việt Nam cũng chưa khai thác triệt để các cơ hội trong APEC để phục vụ cho các
doanh nghiệp. Những nỗ lực ban đầu là đáng kể nhưng là chưa đủ so với tiềm năng tạo
nên cơ hội lớn cho quá trình hợp tác APEC.
Thứ ba, quan hệ của bản thân các doanh nghiệp Việt Nam với cộng đồng doanh
nghiệp trong khu vực còn nhiều hạn chế. Cho tới nay, Việt Nam thực hiện chính sách
đổi mới hơn 20 năm nhưng các doanh nghiệp vẫn chưa tạo lập được những mối quan
hệ mang tính bền vững với các doanh nghiệp trong và ngoài khu vực. Cách thức kinh
doanh vẫn mang tính nhỏ lẻ rời rạc. Việc tham dự các Hội chợ thương mại, đầu tư
trong khu vực Châu Á – Thái Bình Dương cũng chưa được tổ chức một cách bài bản,
hệ thống và liên tục.
Thứ tư, sự yếu kém trong liên kết giữa các doanh nghiệp trong nước, bản thân
các doanh nghiệp nội địa vẫn chưa thực sự chủ động kết hợp lẫn nhau nhằm chia sẻ
kinh nghiệm quản lý, kinh nghiệm thông qua tổ chức diễn đàn/hội nghị, hôi thảo trao
đổi kinh nghiệm, cập nhập thông tin về các đối tác cạnh tranh trong khu vực và trên
thế giới để có phương án và cách tiếp cận hợp lý trong quá trình nâng cao tính cạnh
tranh trong các ngành kinh doanh hàng hóa và dịch vụ.
4. Thực tế gia nhập APEC của Việt Nam
Đối với Việt Nam, Diễn đàn APEC có ý nghĩa hết sức quan trọng. APEC là khu
vực dành viện trợ phát triển lớn nhất, chiếm tới 65% tổng số vốn đầu tư nước ngoài,
60% giá trị xuất khẩu, 80% giá trị nhập khẩu, và 75% tổng số khách du lịch quốc tế tới
Việt Nam. Hầu hết các đối tác chiến lược quan trọng và các đối tác kinh tế - thương
mại hàng đầu của ta là các nền kinh tế thành viên của APEC.
Kể từ khi trở thành thành viên chính thức của Diễn đàn APEC năm 1998, Việt
Nam đã thực hiện nghiêm túc các cam kết hợp tác của APEC như Báo cáo về Chương
trình Hành động Quốc gia hàng năm, thực hiện Chương trình Hành động tập thể, các
Giảng viên: GS.TS.NGƯT Bùi Xuân Phong Trang 20

NHÓM 1 QTDN2
kế hoạch hợp tác về thuận lợi hoá thương mại, đầu tư Ta cũng đảm nhận vị trí Chủ
tịch và điều hành nhiều Nhóm công tác quan trọng như Nhóm Công tác Y tế nhiệm kỳ
2009 - 2010, Nhóm công tác về Đối phó với tình trạng khẩn cấp, Nhóm công tác về
thương mại điện tử… Việt Nam đã triển khai thành công hơn 60 sáng kiến, đồng bảo
trợ hàng trăm sáng kiến trên hầu hết các lĩnh vực thương mại, đầu tư, hợp tác kinh tế
kỹ thuật, y tế, đối phó với thiên tai, chống khủng bố Việt Nam đã được đánh giá là
một trong những thành viên năng động, đã có nhiều sự đóng góp tích cực cho Diễn
đàn APEC.
Dẫn nguồn trang thông tin của bộ ngoại giao Việt Nam
5. Chủ trương của Việt Nam tại APEC
Việt Nam chủ động và tích cực đóng góp thúc đẩy hợp tác APEC
Cách đây đúng 15 năm, tháng 11 năm 1998, Việt Nam trở thành thành viên
chính thức của APEC. Trong suốt chặng đường 15 năm qua, Việt Nam luôn là một
thành viên năng động và có trách nhiệm, đóng góp tích cực và hiệu quả cho hợp tác
APEC. Trong đó, phải kể đến việc chúng ta đã đảm nhiệm xuất sắc vai trò Chủ tịch
APEC năm 2006, tổ chức thành công Hội nghị Cấp cao APEC 14, Hội nghị Bộ trưởng
Ngoại giao-Kinh tế APEC 18 và hơn 100 sự kiện lớn nhỏ khác.
Hội nghị Cấp cao 14 đã thành công trong việc đề ra triển vọng dài hạn về h
ướng tới xây dựng Khu vực thương mại tự do châu Á-Thái Bình Dương, Chương trình
Hành động Hà Nội về thực hiện các Mục tiêu Bogor, các biện pháp cải cách tổng thể
của APEC Việt Nam cũng đảm nhiệm nhiều vị trí chủ chốt trong APEC như Phó Chủ
tịch Ủy ban thương mại và đầu tư năm 2006, Chủ tịch Nhóm công tác doanh nghiệp
vừa và nhỏ năm 2006, Chủ tịch Ủy ban quản lý ngân sách năm 2007, Phó Chủ tịch
Nhóm công tác Y tế nhiệm kỳ 2009-2010, Chủ tịch Nhóm công tác về đối phó với tình
trạng khẩn cấp nhiệm kỳ 2012-2013.
Năm 2014, Việt Nam sẽ là nước chủ nhà tổ chức Hội nghị Bộ trưởng APEC về
Phát triển nguồn nhân lực lần thứ 6. Việt Nam cũng nghiêm túc thực hiện các kế
hoạch, chương trình hợp tác và các cam kết của APEC; tích cực đề xuất và tham gia
hơn 70 sáng kiến trên các lĩnh vực kinh tế, thương mại, đầu tư, kỹ thuật, y tế, chống

khủng bố
Bước vào thập niên thứ hai của thế kỷ XXI, triển khai chủ trương của Đại hội
Đảng lần thứ XI và Nghị quyết 22-NQ/TW của Bộ Chính trị về chủ động, tích cực hội
nhập quốc tế, Việt Nam tiếp tục coi APEC là một trọng tâm trong chính sách đối ngoại
rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế. APEC hiện là khu vực đầu tư
trực tiếp lớn nhất của Việt Nam, chiếm khoảng 65% tổng số vốn đầu tư nước ngoài,
60% giá trị xuất khẩu, 80% giá trị nhập khẩu và 75% lượng khách du lịch quốc tế đến
Việt Nam. APEC không chỉ là một diễn đàn có vai trò quan trọng đối với sự phát triển
của Việt Nam trong các lĩnh vực kinh tế, đối ngoại, an ninh mà còn là một kênh hiệu
Giảng viên: GS.TS.NGƯT Bùi Xuân Phong Trang 21
NHÓM 1 QTDN2
quả để Việt Nam đẩy mạnh hợp tác và làm sâu sắc quan hệ song phương với các thành
viên, trong đó có hầu hết những đối tác chiến lược và đối tác toàn diện của Việt Nam.
Với ý nghĩa quan trọng đó, Việt Nam sẽ tham gia và đóng góp tích cực cho thành
công của Hội nghị Cấp cao APEC lần thứ 21, vì sự năng động, tự cường và phát triển
của châu Á-Thái Bình Dương.
6. Kết luận
Việc biết tận dụng một cách hiệu quả những cơ hội thuận lợi và giảm thiểu
những thách tức tiềm năng chính là chìa khóa cơ bản cho Việt Nam nói chung và cộng
đồng doanh nghiệp nói riêng đạt được những thành công nhất định trong quá trình
tham gia APEC. Tuy nhiên cơ hội lúc nào cũng có nhưng việc hiểu, tận dụng và nắm
bắt các cơ hội đó như thế nào mới là điều quan trọng và điều này lại phụ thuộc chủ yếu
vào ý thức và sự vận động nội tại của bản thân doanh nghiệp với sự hỗ trợ về mặt cơ
chế và chính sách từ phía Chính phủ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Những góp ý của giảng viên GS.TS.NGƯT Bùi Xuân Phong
Từ các trang web:

/> />Tiểu luận về APEC trên web
Các bài đăng của Bộ Kế Hoạch và Đầu tư

Trang web của Bộ Ngoại Giao Việt Nam
Sổ tay doanh nghiệp APEC và những vấn đề doanh nghiệp cần quan tâm
Giảng viên: GS.TS.NGƯT Bùi Xuân Phong Trang 22

×