Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Rèn kĩ năng làm văn nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ giúp học sinh ôn thi tốt nghiệp Trung học phổ thông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (163.4 KB, 19 trang )

SKKN Nguyễn Hữu Chung
Đề tài
RÈN KĨ NĂNG LÀM VĂN NGHỊ LUẬN VỀ MỘT BÀI THƠ, ĐOẠN
THƠ GIÚP HỌC SINH ÔN THI TỐT NGHIỆP THPT.
A. ĐẶT VẤN ĐỀ:
I. Lý do chọn đề tài:
Trong chương trình làm văn cấp trung học phổ thông, người học
được học làm nhiều kiểu bài làm văn, nhưng đề thi tốt nghiệp chỉ tập trung
vào kiểu bài nghị luận. Nghị luận gồm có hai phần: Nghị luận văn học và
nghị luận xã hội.Trong nghị luận văn học, học sinh sẽ được học nghị luận
về tác phẩm, về đoạn trích theo thể loại ( thơ ca, truyện kí, kịch). Trong đó
nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ giữ vai trò hết sức quan trọng. Tính
quan trọng của thơ ca không chỉ vì thời lượng chương trình lớn mà nó còn
có vị trí nhất định trong kì thi tốt nghiệp THPT. Khảo sát trong nhiều năm,
ta nhận thấy đề thi của Bộ( Phần riêng – Chọn một trong hai đề) đề thường
ra theo hướng nếu đề 1 ra tác phẩm tự sự( văn xuôi) thì đề 2 ra tác phẩm
trữ tình( thơ) và ngược lại. Tuy nhiên khi làm bài văn nghị luận về một bài
thơ, đoạn thơ, học sinh còn nhiều lúng túng chưa biết bắt đầu từ đâu, phần
lớn chưa biết cách phân tích thơ. Các em chỉ biết diễn xuôi theo nội dung
văn bản. Vì vậy , bài viết thường sơ sài, lủng củng hoặc lan man xa đề.
Kết quả bài làm thấp, không được như mong muốn của cả thầy và trò.
Xuất phát từ những lí do trên, tôi đã chọn đề tài “ Rèn kĩ năng làm văn
nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ” nhằm giúp học sinh có kĩ năng làm bài
tốt hơn trong kì thi tốt nghiệp THPT. Đồng thời mong muốn được chia sẻ
với các đồng nghiệp một kinh nghiệm nhỏ trong quá trình ôn thi cho học
sinh ở các tác phẩm thơ. Đương nhiên có nhiều vấn đề, nhưng ở đây người
viết chỉ tập trung vào các bài thơ thuộc chương trình Ngữ văn 12, vào cách
luyện tập và vận dụng nó để làm bài văn theo yêu cầu thi tốt nghiệp.
II. Đối tượng nghiên cứu:
- Đề tài hướng vào kĩ năng làm văn nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ.
Trọng tâm là năm tác phẩm thơ mà học sinh được học chính thức trong


chương trình Ngữ văn 12.
- Giải pháp giúp học sinh ôn tập tốt các tác phẩm thơ: Nắm chuẩn kiến
thức, tìm hiểu đề, lập dàn ý cho bài nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ.
III. Phạm vi nghiên cứu:
1
SKKN Nguyễn Hữu Chung
- Phạm vi nghiên cứu của đề tài là học sinh lớp 12B1 trường THPT Lộc
Hưng. Do đặc thù của đơn vị trường là vùng sâu, thiết nghĩ từ đề tài này có
thể mở rộng phạm vi sang các trường vùng sâu khác.
- Để thực hiện được đề tài, bản thân người viết dựa trên cơ sở sách giáo
khoa, sách giáo viên, chuẩn kiến thức kĩ năng của bộ môn Ngữ văn 12.
Đồng thời tự nghiên cứu các tài liệu, tổng hợp, thu thập để hình thành
những đơn vị kiến thức.
- Phạm vi nghiên cứu từ tháng 9/2010 đến tháng 3/2011.
- Ở đây người viết chỉ tập trung minh họa bằng một số đề bài mà giáo
viên đã dạy hoặc ra đề cho học sinh trên thực tế để xoáy sâu đề tài.
- Bên cạnh giờ học chính thức, giáo viên tập trung vào quá trình ôn
tập( Giờ học tăng tiết) của học sinh.
IV. Phương pháp:
- Đọc tài liệu.
- Phương pháp kiểm tra.
- So sánh đối chiếu kết quả.
B. NỘI DUNG:
I. Cơ sở lí luận:
- “ Học mà không hành thì vô ích, hành mà không học thì hành không trôi
chảy”( Hồ Chí Minh). Thực hành là cách tốt nhất để kiểm chứng sự đúng
đắn của lý thuyết, là cách để khắc ghi sâu hơn kiến thức mới thu nhận
được. Tuy nhiên hành mà không học thì khác nào mò mẫm đi trong bóng
tối, không có lý thuyết dẫn đường, khả năng thành công sẽ bị chia sẻ phần
nhiều cho thất bại.Khi làm văn trước hết, người viết cần phải nắm chắc lý

thuyết: Khái niệm, yêu cầu, cách làm bài…từ lý thuyết được trang bị,
người làm bài cần phải cụ thể hóa bằng những đề bài thực hành để xây
dựng thành một bài văn nghị luận( tìm hiểu đề, lập dàn ý, viết bài văn
hoàn chỉnh…). Có như vậy mới đem lại hiệu quả cao cho từng bài văn.
- Chọn đề tài: Rèn kĩ năng làm văn nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ để
phần nào giúp cho học sinh có kĩ năng làm bài tốt hơn, đặc biệt là trong kì
thi tốt nghiệp THPT sắp tới.
II. Cơ sở thực tiễn:
- Qua khảo sát phân phối chương trình giảng dạy Ngữ văn 12, tôi nhận
thấy có năm tác phẩm thơ được học chính thức( Đó là các tác phẩm được
học ở các tiết 18, 19, 21, 24, 25, 27, 28, 36, 37, 39). Bên cạnh đó còn có
2
SKKN Nguyễn Hữu Chung
sáu tác phẩm thơ đọc thêm( đó là các tác phẩm được học ở các tiết 33, 34,
40). Về phần làm văn có học bài nghị luận về một bài thơ,đoạn thơ( Tiết
17). Như vậy xét trên tổng thể, số tiết học các tác phẩm thơ tương đối lớn,
tập trung ở học kì I. Thiết nghĩ đó là cơ sở quan trọng để có kế hoạch ôn
tập cho phù hợp.
- Xét về nội dung các đề thi tốt nghiệp ở phần làm văn, tôi nhận thấy đề
hướng vào tác phẩm văn học Việt Nam, chưa thấy ra văn học nước ngoài
hoặc lý luận văn học. Qua nhiều năm, đề thi thường ra theo hướng nếu đề
1 ra tác phẩm tự sự( văn xuôi) thì đề 2 ra tác phẩm trữ tình( thơ) và ngược
lại. Đây là điều đáng lưu ý trong giảng dạy và học tập văn học.
- Vấn đề được người viết quan tâm ở đây là ôn tập, cách làm một bài nghị
luận về các tác phẩm thơ như thế nào để có kết quả tốt nhất trong kì thi tốt
nghiệp của các em. Trên thực tế, trường THPT Lộc Hưng là trường vùng
sâu, học sinh đầu vào rất thấp, kĩ năng, phương pháp tự học chưa có.Từ đó
người viết mong muốn khi thực hiện đề tài này sẽ đem lại hiệu quả khả
quan cho học sinh trong kì thi tốt nghiệp THPT.
- Chất lượng thực tế qua khảo sát đầu năm:

Lớp TSHS
Đạt yêu cầu Không đạt yêu cầu
TS % TS %
12B1 44 17 38,6 27 61,4
III. Biện pháp thực hiện:
Từ thực tế nêu trên, để nâng cao kết quả học tập môn văn nói chung,
các tác phẩm thơ nói riêng, giáo viên cần có kế hoạch cụ thể từ khâu giảng
dạy giờ chính khóa, giờ phụ đạo đến việc bám sát sách giáo khoa, sách
giáo viên, chuẩn kiến thức kĩ năng.Đặc biệt giáo viên chú ý tăng cường kĩ
năng làm văn cho học sinh.Đây là vấn đề có nội dung rất rộng Giới hạn
trong đề tài này, người viết chỉ nhấn mạnh ở kĩ năng viết bài văn nghị luận
về một bài thơ, đoạn thơ.
Trong mấy năm trở lại đây, chương trình giáo dục trung học phổ
thông có nhiều thay đổi lớn. Đó là việc thay đổi chương trình học, thay đổi
sách, đổi mới phương pháp giảng dạy, học tập …tất nhiên các tác phẩm
thơ cũng có sự thay đổi so với chương trình cũ( Như đã trình bày ở trên).
Năm học 2010 – 2011, Bộ giáo dục tiếp tục có sự điều chỉnh nữa, đó là
việc đưa ra quyển “ Chuẩn kiến thức kĩ năng”. Nó như pháp lệnh cần thiết
3
SKKN Nguyễn Hữu Chung
cho người dạy cũng như người học. Như vậy dù dạy và học ở hình thức
nào thì cũng phải bám sát và đạt được chuẩn kiến thức kĩ năng của các bài
học.
Những vấn đề chung khi ôn tập các tác phẩm thơ:
1. Phương pháp đầu tiên của người giáo viên là hướng học sinh nắm chắc
chuẩn kiến thức của các tác phẩm thơ đã học. Đó là cơ sở để học sinh có
kiến thức cơ bản đồng thời mở rộng vấn đề khi thực hiện bài văn nghị
luận. Tất cả năm bài thơ: Tây Tiến của Quang Dũng, Việt Bắc của Tố
Hữu, Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm, Sóng của Xuân Quỳnh, Đàn Ghi
Ta của Lor-Ca của Thanh Thảo, học sinh cần phải thuộc, nhớ chuẩn kiến

thức cơ bản. Bên cạnh đó còn có sáu tác phẩm đọc thêm, mặc dù không có
trong cấu trúc đề thi của Bộ nhưng học sinh cũng cần nắm qua để có cơ sở
liên hệ, so sánh trong quá trình làm bài.
2. Có một điểm mà giáo viên giảng dạy 12 cần chú ý: Một trong hai đề thí
sinh được chọn sẽ là đề có câu làm văn về tác phẩm thơ( chủ yếu là đoạn
thơ). Đề ra thường yêu cầu phân tích hoặc cảm nhận đoạn thơ, kiểu dùng
thơ để chứng minh thì hiếm thấy. Nói như thế để giáo viên giảng dạy cùng
quan tâm và có hướng rèn luyện cho học sinh tốt hơn ( Ở đây không có ý
rút ra quy luật).
3. Dù đề ra như thế nào thì khi dạy và học tác phẩm thơ đều bắt buộc học
sinh phải thuộc lòng những bài thơ ngắn. Cụ thể học sinh phải thuộc lòng
bài thơ Tây Tiến, Sóng, Đàn ghi ta của Lor-Ca. Đối với những bài thơ dài
cần phải thuộc những đoạn nổi bật(bài thơ Đất Nước , Việt Bắc). Khi ôn
tập các tác phẩm thơ, giáo viên cần dành thời gian để kiểm tra khâu học
thuộc lòng của các em. Để thực hiện được điều này, giáo viên phải chủ
động ngay từ đầu năm lúc giới thiệu chương trình, phương pháp học…cần
thiết nói rõ cho học sinh chủ động: Thơ là phải thuộc lòng văn bản.
4. Trong quá trình giảng dạy cũng như ôn tập những tác phẩm thơ, giáo
viên cần chốt lại chủ đề của bài thơ hoặc cảm hứng chủ đạo của tác giả để
học sinh không nhớ được nhiều hoặc là hiểu chưa sâu bài thơ thì các em có
thể dựa vào đó mà có đường hướng phân tích theo đề yêu cầu.
Ví dụ khi đề cập đến bài thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng, học sinh
cần phải nhớ được cảm xúc chủ đạo xuyên suốt bài thơ là nỗi nhớ bao
trùm lên cả không gian và thời gian. Từ đó, học sinh sẽ định hình lại nội
dung bài thơ. Đó là nỗi nhớ về những kỉ niệm Tây Tiến một thời gian khổ
4
SKKN Nguyễn Hữu Chung
mà hào hùng: Hình ảnh núi rừng Tây bắc hùng vĩ và hiểm trở, hoang du và
dữ dội hiện lên như một bức tranh hoành tráng. Con đường hành quân gian
khổ của người lính Tây Tiến gắn kết với bức tranh phong cảnh thiên nhiên

vừa hùng vĩ dữ dội, vừa nên thơ. Hình ảnh của những kỉ niệm đẹp về tình
quân dân trong một đêm liên hoan và cảnh sông nước thơ mộng. Hình ảnh
người lính Tây Tiến với vẻ đẹp đầy bi tráng và bút pháp lãng mạn.
Hoặc: Khi tìm hiểu bài thơ “Việt bắc” của Tố Hữu, học sinh cần phải
nhớ chủ đề: Việt Bắc là một câu chuyện lớn, một vấn đề tư tưởng được
diễn đạt bằng một cảm nhận mang tính riêng tư. Bài thơ gợi về những ân
nghĩa, nhắc nhở sự thủy chung của con người đối với con người và đối với
quá khứ cách mạng nói chung. Khi nắm được điều này giúp học sinh tránh
được nhầm lẫn nội dung bài thơ. Bởi lẽ bài thơ có hình thức kết cấu đối
đáp theo lối hát giao duyên cho nên có học sinh nhầm lẫn phân tích bài thơ
theo hướng tình cảm nhớ nhung của đôi nam nữ. Điều này rất tai hại.
5. Đọc kĩ phần tiểu dẫn cũng là một việc làm cần thiết nhằm mục đích
nắm vững những nét cơ bản về tác giả, về hoàn cảnh ra đời của bài thơ, về
xuất xứ đoạn trích. Đó là cơ sở để ta tìm hiểu đúng và sâu nội dung tác
phẩm.
Ví dụ: Khi tìm hiểu về đoạn trích “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm.
Ta cần hiểu biết đầy đủ về nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm từ con
người( Nguồn gốc xuất thân: Gia đình, quê hương), cuộc đời( quá trình
học tập, trưởng thành và sáng tác), đến tư tưởng và phong cách nghệ thuật.
Có thể nói hồn thơ của Nguyễn Khoa Điềm được hun đúc từ cái nôi gia
đình trí thức cách mạng và giàu truyền thống văn chương nghệ thuật. Cùng
gia đình, quê hương xứ Huế đã tạo cho con người này chất thơ tài hoa. Khi
trưởng thành, Nguyễn khoa điềm đến với ngành học ngữ văn là một điều
tất yếu. Đến khi trở thành người lính, trải nghiệm qua thực tiễn chiến đấu,
hồn thơ này mới thật sự bay bổng. Chính sự ra đời trường ca “Mặt đường
khát vọng” nói chung,đoạn “Đất Nước” nói riêng có ảnh hưởng từ những
điều đã nêu.
Vấn đề thứ hai, cần phải nắm hoàn cảnh sáng tác của trường ca “Mặt
đường khát vọng”: Hoàn thành ở chiến khu Trị Thiên – 1971. Đây là thời
điểm cuộc kháng chiến chống Mĩ đi vào giai đoạn ác liệt nhất nhưng cũng

hào hùng nhất. Ý chí và khát vọng giải phóng đất nước của nhân dân Việt
Nam lúc này đã mạnh mẽ và quyết liệt hơn bao giờ hết. Tắm mình trong
không khí lịch sử này, cảm hứng nghệ thuật của Nguyễn Khoa Điềm đã
5
SKKN Nguyễn Hữu Chung
cất lên tiếng thơ nhận thức sâu sắc về đất nước, nhân dân anh hùng. Sự
thức nhận của nhà thơ cũng là sự thức tỉnh của tuổi trẻ các thành thị vùng
tạm chiến Miền Nam, nhận rõ bộ mặt xâm lược của Đế Quốc Mĩ, hướng
về nhân dân đất nước, ý thức được sứ mệnh của thế hệ mình. Đó là cơ sở
để chúng ta hiểu một cách sâu sắc đoạn trích đất nước.
Một điều cũng không kém phần quan trọng khi nắm kĩ phần tiểu
dẫn, nó giúp cho việc diễn đạt ý của học sinh khi viết bài( Nhất là phần mở
bài).
Ví dụ: Phân tích hình tượng Sóng trong bài thơ sóng của Xuân Quỳnh.
Giáo viên có thể hướng dẫn học sinh mở bài bằng cách giới thiệu tác
giả, tác phẩm, vấn đề cần nghị luận. Cụ thể như sau: Xuân Quỳnh là một
trong số những nhà thơ tiêu biểu nhất của thế hệ các nhà thơ trẻ thời kì
chống Mĩ. Thơ Xuân Quỳnh là tiếng lòng của một tâm hồn phụ nữ nhiều
trắc ẩn, vừa hồn nhiên tươi tắn vừa chân thành đằm thắm và luôn da diết
trong khát vọng về hạnh phúc bình dị đời thường. Bài thơ Sóng được sáng
tác 1967 trong chuyến đi thực tế ở vùng biển Diêm Điền. Đây là bài thơ
xuất sắc về tình yêu, tiêu biểu cho phong cách thơ Xuân Quỳnh. Hình
tượng sóng bộc lộ khát vọng tình yêu mãnh liệt, vĩnh hằng, cao thượng của
trái tim người phụ nữ đang yêu.
6. Một điểm chung cần chú ý: Muốn khai thác một tác phẩm thơ thì phải
phân tích ngôn ngữ( từ gợi cảm, từ trọng tâm, từ đắt…), hình ảnh thơ,vần
điệu, tiết tấu, các biện pháp tu từ…, đối sánh giữa tác phẩm này với tác
phẩm khác…
Ví dụ: Khi phân tích đoạn thơ sau trong bài Tây Tiến của Quang Dũng:
“ Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”.
Điều cơ bản học sinh cần phải nắm: Phẩm chất cao đẹp quên mình
vì Tổ quốc. Ngay câu thơ đầu là hình ảnh những nấm mồ dọc biên giới.
Hình ảnh “Mồ viễn xứ” và từ láy “Rải rác” gợi vẻ cô đơn, hiu hắt của
những cái chết xa nhà, nhưng các từ Hán Việt “ Biên cương,viễn xứ” đầy
cổ kính, trang trọng lại giảm nhẹ bi thương,buồn mà không bi lụy. Hai câu
cuối bằng biện pháp nói giảm “ Anh về đất”, nhân hóa “ Sông Mã gầm…”
6
SKKN Nguyễn Hữu Chung
xen lẫn các từ Hán Việt trang trọng, ca ngợi sự hy sinh thầm lặng,bi tráng
của người chiến sĩ được thiên nhiên tiễn đưa bằng khúc nhạc trầm hùng.
Như vậy,chúng ta dựa trên cơ sở những từ ngữ, hình ảnh, biện pháp tu
từ thể hiện trong văn bản để làm nổi bật nội dung đoạn thơ.Cứ như thế
giáo viên giúp học sinh cách tìm hiểu, khám phá ra cái hay,cái đẹp, ý
nghĩa sâu sắc của văn bản thơ.
7. Phân tích thơ cũng cần chú ý phân biệt các thể thơ. Xét qua năm tác
phẩm được học chính thức ta thấy:
- Thơ năm chữ có bài Sóng của Xuân Quỳnh.
- Thơ lục bát có bài Việt Bắc của Tố Hữu.
- Thơ tự do có bài Tây Tiến của Quang Dũng; Đất Nước của Nguyễn
Khoa Điềm; Đàn ghi ta của Lor-Ca của Thanh Thảo.
Mỗi thể thơ đều có đặc trưng riêng, nên cách phân tích không hoàn
toàn giống nhau. Thơ năm chữ nên phân tích từng khổ.Thơ lục bát và thơ
tự do phân tích theo trình tự cảm xúc, gom ý để chia ra từng phần. Tất
nhiên đây chỉ là tạm chia để dễ phân tích, ngoài ra còn tùy khả năng ở mỗi
người mà sẽ có cách phân tích phù hợp(Có thể hình thức cắt ngang hoặc
cắt dọc).
Cách làm bài nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ cụ thể:

1. Nội dung, yêu cầu của dạng nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ:
- Nghị luận về một bài thơ,đoạn thơ là phân tích, đánh giá, bàn luận dựa
trên văn bản của một bài thơ, đoạn thơ nhằm phát hiện, khám phá những
biểu hiện cô đọng nhất về cảm xúc, suy tư của cái tôi trữ tình được bộc lộ
trong bài thơ, đoạn thơ thông qua hình thức nghệ thuật mang tính đặc thù.
- Người viết bài cần thể hiện khả năng cảm thụ và nhận thức cái hay,cái
đẹp về nội dung cũng như hình thức của bài thơ, đoạn thơ thông qua việc
phân tích, giảng bình, lý giải và thẩm định văn bản.
2. Cách thức triển khai bài văn nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ:
- Cần căn cứ vào đặc trưng thể loại. Thơ nói chung, thơ trữ tình nói riêng
được coi là tiếng nói của tình cảm, cảm xúc, là khúc hát của tâm hồn. Do
đó nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ cũng có nghĩa là tìm hiểu, khám phá
về hình tượng cái tôi trữ tình, về dòng chảy cảm xúc, tâm trạng của cái tôi
7
SKKN Nguyễn Hữu Chung
trữ tình được bộc lộ cụ thể qua kết cấu, hình ảnh, nhịp điệu và ngôn ngữ
của bài thơ, đoạn thơ.
- Việc phân tích, giảng bình, đánh giá, bàn luận về một bài thơ, đoạn thơ
cùng việc sử dụng các dẫn chứng để đối chiếu, so sánh làm sáng tỏ thêm
cần có một sự suy luận logic, chặt chẽ nhưng tất cả điều hướng tới một
mục đích làm nổi bật các giá trị về tư tưởng và nghệ thuật của bài thơ,
đoạn thơ.
Có thể triển khai một bài nghị luận về bài thơ, đoạn thơ theo các
bước cụ thể:
1. Tìm hiểu đề: Đây là vấn đề rất cần thiết, có ảnh hưởng lớn đến kết quả
làm bài. Nhiều học sinh mới đọc qua đề là bắt tay vào làm bài ngay, dẫn
đến bài làm có thể sai lạc cả nội dung và phương pháp hay có những đoạn
xa đề, lạc đề. Phân tích đề là giúp cho học sinh nắm được:
- Yêu cầu về nội dung( luận đề).
- Yêu cầu về thao tác.

- Phạm vi tư liệu dẫn chứng.
Ví dụ: Học sinh cần làm hai dạng đề sau:
Đề 1: Phân tích đoạn thơ:
“…Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước
Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng ta hài hòa nống thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất Nước vẹn tròn, to lớn
Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang Đất Nước đi xa
Đến những tháng ngày thơ mộng
Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
8
SKKN Nguyễn Hữu Chung
Làm nên Đất Nước muôn đời…”
(Đất nước-Trích “Trường ca Mặt đường khát vọng” - Nguyễn Khoa
Điềm).
- Với đề bài này, giáo viên yêu cầu học sinh đọc kĩ đề và xác định nội
dung chính.Từ đó ta xác định được yêu cầu về nội dung: Cảm nhận sự gắn
bó thân thiết của đất nước với cuộc sống mỗi con người và nhắc nhở ý
thức trách nhiệm của mỗi người đối với đất nước.
- Để làm rõ nội dung đề ra, giáo viên cần hướng dẫn cho học sinh xác
định thao tác cần thiết để làm bài.Dựa trên yêu cầu của đề, ta xác định
được thao tác: Phân tích.
- Phần thứ ba cũng rất quan trọng, đó là phạm vi tư liệu để dẫn chứng.
Nếu không xác định được phần này, học sinh dễ bị rơi vào trường hợp
phân tích tràn lan, không xác định được trọng tâm, thậm chí sử dụng tư

liệu hoàn toàn sai lệch với đề ra.Như vậy theo yêu cầu của đề, ta cũng xác
định được phạm vi tư liệu dẫn chứng: Đoạn trích Đất Nước của Nguyễn
Khoa Điềm.
Hoặcđề 2: Vẻ đẹp bi tráng của hình tượng người lính trong bài thơ tây
Tiến của Quang Dũng.
Tương tự như trên , ta cũng xác định được yêu cầu của đề:
- Yêu cầu về nội dung( luận đề): Vẻ đẹp bi tráng của hình tượng người
lính Tây Tiến.
- Yêu cầu về thao tác: Nghị luận về một hình tượng văn học( Phân tích vẻ
đẹp của hình tượng người lính Tây Tiến).
- Phạm vi tư liệu dẫn chứng: Bài thơ tây Tiến, một số bài thơ chống Pháp
viết về người lính.
2. Lập dàn ý: Điều hết sức quan trọng là giúp học sinh tạo ra được bố cục
bài viết.
a. Mở bài: Đây là phần mở đầu của bài văn.
Học sinh thường lúng túng trong việc mở bài. Để khắc phục tình trạng
này, giáo viên lưu ý học sinh đọc kĩ phần tiểu dẫn trong sách giáo khoa để
nắm những nét cơ bản về tác giả, hoàn cảnh sáng tác…Từ đó học sinh dễ
dàng viết phần mở bài. Ta tạm đưa ra mô hình của phần mở bài như sau:
- Vài nét về tác giả.
9
SKKN Nguyễn Hữu Chung
- Hoàn cảnh ra đời của bài thơ hoặc xuất xứ đoạn thơ.
- Dẫn bài thơ, đoạn thơ và nêu ngắn gọn về chủ đề tư tưởng.
Hoặc bằng cách giới thiệu khái quát từ đề tài, chủ đề, hình tượng thơ.
Giáo viên định hướng cho học sinh tùy theo đề bài để chọn cách thức hợp
lí.
Trở lại ở đề bài trên, đề 1 ta có thể mở bài như sau: Nguyễn Khoa
Điềm tiêu biểu cho thế hệ nhà thơ trưởng thành trong những năm kháng
chiến chống Mĩ. Thơ của ông giàu chất suy tư xúc cảm dồn nén, thể hiện

tâm tư của người trí thức tham gia vào cuộc chiến đấu của nhân dân. Với
trường ca Mặt đường khát vọng tên tuổi của ông được nhiều người biết
đến. Bản trường ca nhằm thức tỉnh thanh niên miền nam vùng tạm chiến ý
thức trách nhiệm trước cuộc chiến đấu chống Đế Quốc Mĩ của toàn dân
tộc. Đất Nước trích phần đầu chương V của trường ca này đã thể hiện
những cảm nhận mới mẻ của tác giả về đất nước. Trong đó có đoạn “
…….” Thể hiện cảm nhận sự gắn bó thân thiết của đất nước với cuộc sống
mỗi con người và nhắc nhở ý thức trách nhiệm của mỗi người đối với đất
nước.
Như vậy với phần mở bài này, nội dung chủ yếu là ở phần tiểu dẫn
sách giáo khoa. Nếu thuộc, học sinh sẽ dễ dàng làm được.
Tương tự như thế, đề 2 ta cũng sẽ mở bài được một cách dễ dàng:
- Quang Dũng thuộc thế hệ các nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến
chống Pháp. Tây Tiến là sự hồi tưởng của nhà thơ về đoàn quân Tây Tiến,
về cảnh vật và con người Tây Bắc một thời gian khổ và oai hùng. Hình
ảnh người lính Tây Tiến hiện lên trong bài thơ mang một vẻ đẹp bi tráng,
đậm chất lãng mạn, hào hoa bay bổng, mang dấu riêng của hồn thơ Quang
Dũng.
b. Thân bài: Phần trọng tâm của bài văn, giải quyết toàn bộ nội dung vấn
đề; sắp xếp ý theo một hệ thống trình tự nhất định, hợp lí.
- Phân tích nội dung,nghệ thuật của bài thơ, đoạn thơ. Có nhiều cách
phân tích, trước hết xác định thể thơ( như đã trình bày ở trên) để có hướng
phân tích thích hợp, phân tích có thể theo hướng cắt ngang( Theo bố cục
của bài thơ, đoạn thơ), cũng có thể phân tích cắt dọc( theo chủ đề của bài
thơ, đoạn thơ).
10
SKKN Nguyễn Hữu Chung
Phân tích nội dung trong bài thơ, đoạn thơ là tìm hiểu hết ý
nghĩa( Tư tưởng, tình cảm) của tác phẩm thơ:
+ Xác định mạch tâm trạng chính của bài thơ, đoạn thơ.

+ Xác định tứ thơ.
+ Xác định nhân vật trữ tình trong bài thơ, đoạn thơ.
+ Phải làm rõ giá trị nhận thức của bài thơ, đoạn thơ. Phân tích rõ từng
phần, từng ý bài thơ, đoạn thơ để hiểu được tác giả viết về điều gì?Có ý
nghĩa như thế nào từ trong cuộc sống, tư tưởng, tình cảm, cảm xúc của con
người.
+ Thấy được giá trị tư tưởng của bài thơ, đoạn thơ, thấy được điều mà
nhà thơ muốn gửi gắm tư tưởng tình cảm là gì? Sự rung động của người
viết đối với tác phẩm thơ…
Phân tích về nghệ thuật trong bài thơ, đoạn thơ: Phân tích những
phương tiện mà nhà thơ sử dụng để phản ánh và bộc lộ tình cảm.
+ Xác định thể thơ.
+ Các phương thức sử dụng ngôn ngữ tạo nên hình tượng thơ: Chất liệu
thơ( Hệ thống hình ảnh, sự vật); Các biện pháp so sánh, ẩn dụ, hoán dụ,
nhân hóa, cường điệu, nói giảm, chơi chữ….
+ Phân tích nhạc thơ: Tiết tấu( số tiếng, phép điệp, phép đối, phối
thanh…)
Phân tích những nét đặc sắc nghệ thuật là để làm nổi bật nội dung của
bài thơ, đoạn thơ.
- Nhận định, đánh giá về bài thơ,đoạn thơ là đánh giá về giá trị nội dung tư
tưởng và nghệ thuật của bài thơ, đoạn thơ.Vị trí của bài thơ, đoạn thơ
trong sự ngiệp sáng tác của tác giả cũng như những đóng góp cho nền thơ
ca dân tộc.
Tất nhiên trong mỗi bài thơ, đoạn thơ tùy theo dụng ý nghệ thuật của tác
giả mà ta có cách phân tích cho đúng hướng. Phân tích nên đi từ nghệ
thuật dẫn đến nội dung. Từ những điều đã nêu, ta có thể vận dụng vào hai
đề bài nêu ở trên.
Đề 1:
- Phân tích ở nội dung:
11

SKKN Nguyễn Hữu Chung
+ Mối quan hệ giữa con người với Đất Nước: Là mối quan hệ hữu cơ
không thể tách rời nhau. Xác định Đất Nước được kết tinh, tồn tại trong
cuộc sống của mỗi người
+ Con người giữ vai trò chủ thể trong mối quan hệ ấy( Đất Nước vẹn
tròn, to lớn hay hài hòa, nống thắm) là do con người có ý thức đoàn kết
nhau, không chỉ quá khứ, hiện tại mà cả tương lai( Hôm nay, mai này).
+ Trách nhiệm của con người đối với Đất Nước: Tự nguyện và xuất
phát từ tình cảm yêu thương bởi Đất Nước là máu xương của mình( Gắn
bó, san sẻ, hóa thân).
- Phân tích ở nghệ thuật:
+ Từ Đất Nước viết hoa, lặp lại nhiều lần vừa thể hiện ý nghĩa cao cả
của Đất Nước vừa thể hiện tình cảm yêu quí, trân trọng Đất Nước.
+ Hình ảnh gần gũi, cụ thể, giàu sức gợi cảm vừa có ý nghĩa khái quát,
vừa giàu chất suy tư.
+ Dạng câu trùng điệp,cách xưng hô ngọt ngào, các từ ngữ giàu tình
cảm( hài hòa, nồng thắm, gắn bó, san sẻ, hóa thân) tạo nên giọng điệu tâm
tình, lời thơ nhắn nhủ nhẹ nhàng tha thiết.
- Nhận định, đánh giá đoạn thơ:
Với phong cách thơ trữ tình - chính luận, lời thơ ngọt ngào tha thiết
đoạn thơ thể hiện những suy nghĩ rất mới trong cách cảm nhận về Đất
Nước, nhất là nhìn thấy mối quan hệ khắng khít giữa cá nhân với cộng
đồng, cá nhân và Đất Nước,giữa hiện tại và tương lai Đất Nước, từ đó khơi
gợi trách nhiệm mỗi người đối với Đất Nước. Đất Nước vừa gần gũi, cụ
thể; Vừa cao cả thiêng liêng; Vừa chung và riêng trong mỗi con người.
Cảm nhận mới mẻ ấy xuất phát từ tư tưởng Đất Nước của nhân dân.
Đề 2:
- Phân tích nội dung:
+ Về tính bi tráng: Chất bi tráng của một tác phẩm văn học là sự kết hợp
giữa hai yếu tố: Bi và tráng. Vẻ đẹp bi tráng của người lính Tây Tiến thể

hiện ở sự hào hùng mãnh liệt, ý chí chiến đấu quên mình, tâm hồn hào
hoa, lãng mạn giữa bao gian khổ hy sinh.
12
SKKN Nguyễn Hữu Chung
+Người lính Tây Tiến phải chiến đấu và đối mặt với nỗi bi thương:
Chiến đấu trong hoàn cảnh khắc nghiệt, giữa một thực tế chiến tranh tàn
khốc, cái chết đồng hành với mỗi bước chân trên đường chiến trận.
+ Giữa bi thương của chiến tranh tàn khốc, người lính Tây Tiến ngời
sáng vẻ đẹp hào hùng; tâm hồn lãng mạn hào hoa.
+ So sánh hình tượng người lính Tây Tiến với hình tượng người lính
trong các tác phẩm khác của thơ ca thời chống Pháp: Người lính được
miêu tả rất thực trong những sinh hoạt cụ thể hằng ngày, trong những
bước đi nặng nhọc trên đường hành quân với những đói rét bệnh tật, với
những nét vẻ tiều tụy về hình hài, song vẫn phong phú trong đời sống tâm
hồn với những khát vọng tuổi trẻ.Liên hệ so sánh với người lính trong “
Đồng chí” của Chính Hữu để thấy được nét tương đồng của người lính vệ
quốc. Đồng thời chúng ta sẽ thấy được những nét khác biệt, nguyên nhân
của sự khác biệt:
. Những người lính Tây Tiến hầu hết là những chàng trai trí thức đất Hà
Thành – đất kinh kì hoa lệ. Thuở ấy họ ra đi với ý chí chiến đấu
mạnh mẽ nhưng tâm hồn vẫn đẫm chất lãng mạn, bay bổng. Viết về
người lính của đất kinh kì đầy lãng mạn bằng một giọng điệu bi
hùng và những hình ảnh có chất cổ điển, lí tưởng hóa như vậy là
phù hợp.
. Xuất phát từ tâm hồn của chính chủ thể trữ tình: Một Quang Dũng đa
tài lãng mạn, hào hoa…đã tạo nên một Tây Tiến bi tráng hào hùng.
“Cái chơi vơi,thăm thẳm, mưa xa khơi, súng ngửi trời, oai linh thác
gầm thét, dữ oai hùm”… là những giai điệu, những sắc màu của thế
giới tâm hồn quang Dũng. Xuất thân từ một trí thức Hà Thành tâm
hồn lãng mạn nên nhà thơ đặc biệt đồng điệu, đồng cảm với chất

lính hào hoa, phóng khoáng, nên thơ.
- Phân tích nghệ thuật:
+ Sự kết hợp tài hoa bút pháp hiện thực và bút pháp lãng mạn.
+ Ngôn ngữ thơ giàu nhạc điệu.
+ Từ ngữ, hình ảnh vừa quen thuộc vừa độc đáo; Vừa có nét cổ kính lại
vừa mới lạ đem lại ấn tượng mạnh mẽ trong lòng người đọc.
- Nhận định, đánh giá bài thơ:
13
SKKN Nguyễn Hữu Chung
Mặc dù có những nét độc đáo riêng gây được ấn tượng trong lòng
người đọc, nhưng hình tượng của người chiến sĩ trong bài thơ Tây Tiến
vẫn mang những nét bản chất chung nhất của anh bộ đội cụ Hồ: Yêu nước,
căm thù giặc, tự nguyện từ bỏ gia đình, quê hương đi chiến đấu. Họ cũng
có lý tưởng chiến đấu vì độc lập, vì tự do của Tổ quốc, có nghị lực kiên
cường vượt qua mọi gian khổ hy sinh. Điều đó làm cho họ có những nét
gần gũi với tất cả những bài thơ viết về người chiến sĩ trong cuộc kháng
chiến chống Pháp.
c. Kết bài: Phần cuối cùng của bài viết.
- Tổng quát lại ý vừa trình bày ở phần thân bài.
- Liên hệ nêu giá trị chung của tác phẩm.
Phần này tương quan với phần mở bài. Trong thực tế có nhiều học sinh
thiếu phần kết luận hoặc kết luận sơ sài. Để khắc phục tình trạng này, giáo
viên nên hướng dẫn học sinh:
+ Tập và buộc học sinh sau khi đọc kĩ đề thì phải nháp( Bằng hình thức
dàn ý).
+ Nếu học sinh ít làm nháp thì tối thiểu buộc các em nháp trọn vẹn thành
văn phần mở bài và kết bài.
Trở lên hai đề đã nêu,giáo viên định hướng học sinh phần kết bài.
Đề 1:
- Đề tài về Đất Nước đã có từ lâu, nhưng đến Nguyễn khoa Điềm ông đã

làm hấp dẫn, sống dậy một đề tài cũ bởi ở cảm nhận mới lạ về Đất Nước.
Đất Nước được nhìn ở nhiều góc độ nhưng bao giờ cũng giản dị gần gũi,
sáng trong, nhìn vào đâu ta cũng thấy dáng hình Đất Nước.
- Tác phẩm bộc lộ tình yêu quê hương đất nước sâu nặng của tác giả,
không chỉ thức tỉnh thanh niên thấy được đất nước rất thiêng liêng mà qua
đó còn kêu gọi họ có trách nhiệm đối với Đất nước.
- Bài thơ có giá trị vượt thời gian.
Đề 2:
- Người lính trong bài thơ Tây Tiến là một hình tượng đẹp, thể hiện
phẩm chất anh hùng của người chiến sĩ. Bài thơ được khắc họa bằng sự kết
hợp nhuần nhuyễn giữa bút pháp hiện thực và bút pháp lãng mạn. Tây
14
SKKN Nguyễn Hữu Chung
Tiến thể hiện vẻ đẹp của một thế hệ anh hùng trong thời kì kháng chiến
chống Thực Dân Pháp.
- Thế hệ hôm nay phải trân trọng, biết ơn người đi trước đã sống chết
cho quê hương…tuổi trẻ hôm nay cần đóng góp và gìn giữ độc lập tự chủ
của dân tộc trong mọi hoàn cảnh.
Tóm lại để có kĩ năng viết bài nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ,
người viết cần có sự nhạy cảm tinh tế và sáng suốt để tìm hiểu, khám phá
và thẩm định đúng các giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ, đoạn thơ.
Người viết cần nắm được bản chất thể loại đồng thời phải biết nhìn nhận,
soi chiếu bài thơ, đoạn thơ từ nhiều phía để có cái nhìn toàn diện, biết
đánh giá và phản biện. Chú ý mọi khám phá giá trị nội dung cũng như
nghệ thuật đều phải dựa trên các tiêu chí khách quan, mọi cắt nghĩa lí giải
nhất thiết phải có lí lẽ xác đáng, có cơ sở khoa học, tránh suy diễn áp đặt.
Huy động kiến thức văn học và những trải nghiệm thẩm mĩ của bản thân
để tạo lập văn bản nghị luận phù hợp với yêu cầu đề bài. Trở lại những bài
thơ được học chính thức trong chương trình ngữ văn 12, việc ôn luyện cho
học sinh bài nào phải khắc sâu, dứt điểm bài đó. Nên ôn theo hướng lập

dàn ý bài văn, qua đó để chỉ các em cách phân tích.
IV. Kết quả:
- Qua quá trình thực hiện đề tài “ Rèn kĩ năng làm văn nghị luận về
một bài thơ,đoạn thơ giúp học sinh ôn thi tốt nghiệp THPT”, tôi nhận thấy
đề tài đã đem lại hiệu quả nhất định từ phía học sinh khi ôn tập và viết văn
nghị luận về các tác phẩm thơ. Các em có những tiến bộ khi tìm hiểu đề,
lập dàn ý cho bài văn, nắm những thao tác cần thiết khi làm bài. Điều đó
tạo điều kiện cho tôi tiếp tục áp dụng cho những năm học sau.
- Với những biện pháp đã áp dụng thử nghiệm ở lớp 12B1, tôi thu được
kết quả như sau:
Kết quả kiểm tra bài viết số 3 so với chất lượng thực tế qua khảo sát
đầu năm có tiến bộ.
Lớp TSHS
Đạt yêu cầu Không đạt yêu cầu
TS % TS %
15
SKKN Nguyễn Hữu Chung
12B1 44 24 54,5 20 45,5
- Kết quả kiểm tra ngày 7/3/2011( Giờ học bồi dưỡng) như sau:
Lớp TSHS
Đạt yêu cầu Không đạt yêu cầu
TS % TS %
12B1 44 30 68,2 14 31,8
V. Bài học kinh nghiệm:
Qua quá trình thực hiện đề tài, tôi nhận thấy đề tài đã đem lại những
kết quả nhất định từ phía học sinh trong quá trình ôn tập. các em đã có ý
thức hơn trong việc học bài, đặc biệt là trong cách lập dàn ý về một bài
thơ, đoạn thơ.Cụ thể là các em biết được hình thức mở bài, tìm ý trong
phần thân bài cũng như biết khẳng định lại vấn đề đã phân tích. Nói tóm
lại các em đã có tiến bộ khi viết một bài văn nghị luận về một bài thơ,

đoạn thơ.
Có được điều này, phần lớn là nhờ vào sự đầu tư kiến thức ở giáo viên
bộ môn, đặc biệt là trong giờ thực hành. Tuy nhiên, bản thân học sinh phải
kiên trì học tập thì mới mong đem lại kết quả tốt.
C. K ẾT LUẬN:

Qua lí luận và thực tiễn kiểm chứng, tôi thấy bước đầu thu được kết
quả khả quan. Muốn nâng cao chất lượng dạy và học môn ngữ văn nói
chung, dạy và học về các tác phẩm thơ nói riêng, người giáo viên cần
mạnh dạn đổi mới phương pháp, cần có những biện pháp phù hợp với thực
tế học sinh của mình, đồng thời bản thân học sinh phải tự học một cách
kiên trì thì mới có kết quả tốt. Khi nghiên cứu đề tài này, tôi nhận thấy bản
thân được mở rộng thêm kiến thức, nâng cao sự hiểu biết. Bên cạnh những
mặt đạt được cũng còn nhiều hạn chế, tôi sẽ cố gắng tìm ra những giải
pháp tốt để nâng cao hiệu quả giảng dạy trong những năm sắp tới.
16
SKKN Nguyễn Hữu Chung
Khi viết bài viết này,bản thân không tránh khỏi những thiếu sót, tất nhiên
đây chỉ là những ý kiến chủ quan. Tôi chân thành mong các đồng nghiệp góp ý,
traod9o6i3 để công việc giảng dạy ngày càng tốt hơn.

Người thực hiện

NGUYỄN HỮU CHUNG
MỤC LỤC
A - ĐẶT VẤN ĐỀ Trang 1,2
B - NỘI DUNG ĐỀ TÀI Trang 2 đến trang 13
I. Cơ sở lí luận Trang 2
II . Cơ sở thực tiễn Trang 2đến 3
III.Biện pháp thực hiện Trang 3đến 13

IV. Kết quả Trang 13 đến 14
C. KẾT LUẬN Trang 14
17
SKKN Nguyễn Hữu Chung
Ý KIẾN NHẬN XÉT ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC
1. Cấp trường:
Nhận xét:










Xếp loại:

2. Cấp ngành:
Nhận xét:












18
SKKN Nguyễn Hữu Chung

Xếp loại:

19

×