Tải bản đầy đủ (.doc) (84 trang)

Lịch sử mỹ thuật Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (618.47 KB, 84 trang )

LỊCH SỬ MỸ THUẬT VIỆT NAM
Ngày nay nói đến mỹ thuật mọi người thường chỉ nghĩ đến hội họa và điêu khắc. Song với
mỹ thuật cổ Việt Nam thì hội họa là tranh nói chung mà cơ bản là mảng đồ hoạ, còn điêu khắc
thì gồm cả tượng tròn và chạm khắc trang trí các loại, ngoài ra còn phải kể đến một số công
trình kiến trúc mang tính điêu khắc hoành tráng và trong cấu trúc phủ đầy những hình chạm
trang trí. Chỉ từ giai đoạn cận - hiện đại, trong quá trình tiếp xúc văn hoá với phương Tây và sự
phát triển chuyên sâu của khoa học, kiến trúc mới tách ra để mỹ thuật tập trung vào tranh và
tượng.
Với quan niệm mở rộng, lịch sử mỹ thuật Việt Nam được khởi nguyên từ thời tiền sử và sơ
sử, luôn bám sát tiến trình lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc. Với vị trí địa lý tựa lưng
vào lục địa, nhìn ra biển Đông, là cái cầu nối giữa Đông Nam Á đại lục và hải đảo, kẹp, giữa
hai nền văn hoá - văn minh lớn . Ấn Độ và Trung Hoa, nằm trên đường hàng hải quốc tế Việt
Nam có được sự giao lưu rộng rãi để tiếp nhận tinh hoa thế giới mà hoàn thiện mình và toả
sáng.
Ngoài ra nạn ngoại xâm luôn thường trực, dân tộc ta giữa những thời gian dựng nước ngắn
ngủi, luôn phải tiến hành chiến tranh giải phóng và kháng chiến trường kỳ, vinh quang nhiều
nhưng phải hy sinh lớn về cả xương máu và của cải. Trong tình hình ấy, dân tộc ta phải bám lấy
thực tại và vượt lên để rồi biểu hiện lại cuộc sống của mình bằng nghệ thuật - mà rõ nhất là ở
mỹ thuật với sự cao đẹp của tâm hồn hướng thiện.
Trên cả lộ trình của lịch sử mỹ thuật Việt Nam, dựa vào tính chất và phong cách của các
loại hình nghệ thuật, chúng ta có thể chia trục dọc tiến trình phát triển theo năm giai đoạn kế
tiếp nhau :
- Mỹ thuật thời tiền sử và sơ sử
- Mỹ thuật thời Quân chủ Phật giáo
- Mỹ thuật thời Quân chủ Nho giáo
- Mỹ thuật thời cận đại và sự tiếp xúc với nghệ thuật phương Tây
- Mỹ thuật thời hiện đại
Trong mỗi giai đoạn, bên cái chung còn có nhiều cái riêng do điều kiện cụ thể của xã hội
quy định, do đó lại cần được tách ra thành những mảng có tính độc lập tương đôi - ở đây là các
chương. Cùng là các Nhà nước quân chủ tự chủ, nhưng mỗi vương triều lại có một cách quản lý
đất nước khác và do đó cũng tạo nên diện mạo mỹ thuật khác cần được xem xét trong một


chương riêng. Ở đây nước có chủ "Nam quốc sơn hà Nam đế cư", chúng tôi lấy tên triều đại
làm phù hiệu để gắn vào các chương. Ngoài ra, có vấn đề gắn với nhiều thời kỳ lịch sử - như
tranh dân gian, chúng tôi xếp thành một chương riêng, mang tính cách chuyên đề.
Với tính chất giáo trình lịch sử chuyên ngành, lịch sử mỹ thuật Việt Nam được đề cập như
một tiến trình chính thống quốc gia, vì thế chúng tôi không đi vào mỹ thuật của các dân tộc ít
người, song mỹ thuật Chăm lại là một vấn đề lịch sử hiện tồn của Việt Nam và của thế giới.
1
Chương I
MỸ THUẬT THỜI TIỀN SỬ
Thời tiền sử về mặt hình thái xã hội được gọi là thời nguyên thủy, khảo cổ học gọi là thời
đồ đá, chúng tôi dùng thuật ngữ "Thời Tiền sử" để nhấn mạnh bình diện văn hóa.
1. Thời đồ đá cũ ở Việt Nam
Thành tựu khảo cổ học Việt Nam trong cả thế kỷ XX đã chứng minh Việt Nam là một trong
những cái nôi của loài người . Ở đây có sự phát triển liên tục và trực tiếp từ thấp
đến ca o, từ đời sống nguyên thủy đến xã hộ i văn hóa - văn minh, là cơ sở để khẳng định
lịch sử Việt Nam là lịch sử của nhiều thiên kỷ. Từ 30 vạn năm trước, trong di chỉ Núi Đọ
(Thanh Hóa) thuộc sơ kỳ đá cũ, người nguyên thủy đã để lại những công cụ tiến dần đến yếu tố
nghệ thuật: từ công cụ vạn năng không rõ hình thù tiến tới xác định loại hình ổn định: công cụ
chặt, rìu tay, nạo đã có cái đẹp của tỷ lệ và cân đối . Cho đến vài vạn năm trước, với văn hoá
đá cuội Sơn Vi ( Phú thọ ) , người đương thời đã tiến vào hậu kỳ đá cũ, có nơi còn sống trong
hang, song có nơi đã tiến ra miền đồi trung du là thềm phù sa cổ sông Hồng, nắm bắt kỹ thuật
ghè đẽo đá cuội.
2 . Thời đồ đá giữa với văn hóa Hòa Bình
Ở cuối thập niên 20 của thế kỷ XX , nhà khảo cổ Pháp bà M .Côlani (M .Colani) sau khi
khảo sát nhiều hang động ở Hòa Bình và Thanh Hóa , đã đưa ra thuật ngữ khảo cổ học "Văn
hóa Hòa Bình" được Hội nghị Quốc tế 1932 công nhận chỉ chung cả vùng Đông Nam á, gắn với
đổ đá giữa hay sơ kỳ đà mới, cách ngày nay chừng 1 vạn năm.
Người Hòa Bình phát triển đá cuội và có thêm công cụ xương mở ra nông nghiệp sơ khai
trồng rau và củ. Công cụ được ổn định thêm một bước về loại hình, gồm công cụ hình đĩa để
chặt và nạo, rìu chữ nhật, chày và bàn nghiến. Bắt đầu biết mài đá và biết làm nghệ thuật. Một

số "tác phẩm" tiêu biểu:
- Mũi dùi xương lam Gan được khắc một số vạch theo hình mầm cây thuộc họ hòa thảo,
làm như mũi dùi như mũi khoan dễ xuyên.
- Đặc biệt nghệ thuật hang động có hình ba mặt người và một mặt thú ở hang Đồng Nội
(Hòa Bình), ngay ở gần cửa hang hướng đông, trên vách nhũ ở độ cao 1m5 đến 1m75 vừa tầm
mắt và tầm tay, người xưa để lại 4 hình khắc gần nhau, chia ra hai nhóm. Nhóm người gồm ba
mặt người, nhưng người ngoài cùng do sự phá hoại của thời tiết chỉ còn nửa trong cũng đủ mắt,
mũi, miệng với dáng thon thả và kích thước như mặt người trong còn đầy đủ (cao 13cm, rộng
18cm), biểu hiện nữ tính ; mặt người giữa to hơn (cao 31cm, rộng 34cm) phương phi chữ điền,
có thêm lông mày. Nhóm trong là một mặt thú thuộc loại ăn cỏ, có sừng, mắt tròn, cánh mũi
rộng, mệng rộng, lớn hơn mặt người (cao 57cm, rộng 51cm) . Như vậy người Hòa Bình sau khi
quan sát kỹ đối tượng trong không gian ba chiều đã biết diễn tả trên mặt phang hai chiều, và chỉ
thông qua đặc trưng chủ yếu là mặt và dưới góc nhìn chính diện, đường nét dứt khoát, hình rõ
ràng, bố cục giữa hai nhóm và ngay trong một nhóm đều cân xứng, ti lệ vừa phải, tập trung diễn
tả điểm chính, tạo được cảm giác hài hòa. Điều đáng chú ý nữa là trên đầu mỗi người đều có
hình sừng như chữ Y hẳn là biểu hiện của tô - tem giáo vật tổ.
3. Thời đồ đá mới với văn hóa Bắc Sơn miền núi đến văn hóa Quỳnh Văn miền biển
Khoảng 5.000 đến 6.000 năm trước, văn hóa Hòa Bình phát triển lên giai đoạn mới, phân
thành những văn hóa đồ đá mới nhỏ hẹp, mà tiêu biểu là văn hóa Bắc Sơn ở miền núi và văn
hóa Quỳnh Văn ở miền biển, rồi văn hóa Hạ Long ở ven biển Quảng Ninh và Hải Phòng, văn
hóa Bàu Tró ở ven biển và đồng bằng bắc Trung Bộ, lại còn nhiều hang động ở miền núi. Nét
chung là tiến sang thời đồ đá mới với các kỹ nghệ mài công cụ đá ngày càng hoàn thiện và chế
tác đồ gốm, tiến tới nền nông - nghiệp lúa nước.
Từ việc chế các công cụ đá nhỏ rồi mài rộng ra toàn thân, con người lại qua trồng trọt đã
nhận ra nhịp điệu cuộc sống và cái đẹp cái ích của tỷ lệ và sự cân đối, công cụ được chuyên
môn hóa, để thích ứng với từng chức năng. Đồ gốm lúc đầu xuất hiện tình cờ do đồ đan trát đất
2
vào trong bị cháy để lại hoa văn dấu nan đan. Sau đó đồ gốm nặn tay cũng cần tạo hoa văn cho
đẹp và tiện bưng bê, bằng khắc rạch hay chấm đầu que, rồi dùng bàn rập, con lăn hay in dây
thừng. Hoa văn lúc đầu đơn giản, chỉ là các vạch răng lược sóng nước, chéo ô trám tiến đến

đoạn thằng dọc, đường sóng song song, đường cong nửa vòng tròn, sóng chéo số 8, xoáy ốc,
chữ S, gân lá
Người đương thời còn dùng thổ hoàng tức phiến thạch có sắt bị đốt cho màu dỏ, tán thành
bột rồi tô lên công cụ đá, đỗ gốm, đỗ trang sức và cả xương người để tạo ra cả vẻ đẹp và sự
thiêng liêng. Ở Đa Bút (Thanh Hóa) có vỏ ốc nhuộm đỏ có cả rìu chôn theo người chết cũng
được nhuộm đỏ. Ở Minh Cầm và Bàu Tró (Quảng Bình) có bình gốm tô dải đỏ rộng l cm đến
2,5cm hay những đường song song. Một số nơi ngay cả xương người cũng nhuộm đỏ, có thể
mang ý nghĩa tái sinh.
Đặc biệt tìm được một số hiện vật mang rõ tính trang trí và dấu ấn tạo hình : Nghinh Tắc
(Thái Nguyên) có miếng đất sét cứng vàng mịn dài 10 cm rộng 4cm dày 0,7cm, ở vòng quanh
rìa có nhiều nét vạch vuông góc hoặc xiên với cạnh, tạo thành 15 nhóm (mỗi nhóm thường 15
vạch), bên trong khắc những vạch nhỏ chữ V chồng nhau theo 8 hàng dọc song song. Điều đáng
chú ý là hai mặt có số nhóm đều nhau và đối xứng. Nội dung chưa rõ là sự đánh dấu hay mô tả
hình gì (vườn rau chẳng hạn?) nhưng đã có ý thức về sự trang trí và cân đối. Ở Na Ca (Thái
Nguyên) có viên cuội dài 6,4cm rộng 3,1 cm dày 2,5cm được đẽo thành phác tượng đầu người
trán nhẵn, cằm rộng, mũi dài, mắt nheo, miệng cười chữ V đều biểu hiện tình cảm vui tươi. Ở
động Ky (Thái Nguyên) có viên cuội dài 10cm khắc cả hai mặt : một mặt là hình mặt người rõ
các chi tiết mắt, mũi, miệng hiện thực và tinh tế, mặt bên kia khắc các nhóm hình kỷ hà gồm 4 ô
vuông nhỏ ở hàng trên, 2 ô vuông vừa ở hàng giữa, tiếp đến hình 6 cạnh (thiếu 1 cạnh) liền với
hình vuông to ở phía dưới như một cái nhà.
Nghệ thuật tiền sử ở Việt Nam là nghệ thuật nguyên thủy thuộc thời đại đồ đá, tiến triển
trên chặng đường dài cả nửa đầu vạn niên kỷ thứ nhất trước CN, là hiệu quả sự tiến bộ của con
người với cặp mắt tinh tế, óc sáng tạo, bàn tay khéo léo để từ quan sát rút ra đặc trưng và bản
chất của đối tượng, rồi diễn đạt lại bằng thẩm mỹ đơn sơ. Phẩm chất của nghệ thuật ấy là tinh
khiết và chân thật, được thôi thúc từ bên trong của những người chưa có ý thức làm nghệ thuật.
3
Chương II
MỸ THUẬT THỜI SƠ SỬ
1. Các giai đoạn văn hoá thời sơ sử
Trước Cách mạng tháng Tám 1945, sau thời đại đồ đá, các học giả phương Tây mới chỉ biết

đến Văn hoá Đông Sơn thuộc thiên niên kỷ thứ nhất trước CN. Sau ngày miền Bắc giải phóng,
các nhà khảo cổ học Việt Nam đã khám phá dần ra các giai đoạn văn hóa Tiền Đông Sơn.
Khoảng 4.000 năm trước, trong các di chỉ khảo cổ, đồ đá đạt đến trình độ cực thịnh với kỹ
thuật chế tác tổng hợp: ghè, đẽo, cưa, khoan, tiện, mài, đánh bóng tạo ra những loại hình đa
dạng. Về công cụ có rìu, đục, dao với hình dáng ổn định. Về đồ trang sức có vòng, khuyên,
nhẫn được gia công trau chuốt tinh tế. Đặc biệt còn làm được cả tượng như tượng người đàn
ông ở Văn Điển (Hà Nội) chỉ nhỏ bằng đầu đũa mà thật sinh động. Nhưng quan trọng là người
xưa bắt đầu biết đến đồng, và nhờ đó đã thoát khỏi tình trạng nguyên thủy để từng bước từ
trung du xuống và từ duyên hải lên chinh phục đồng bằng, lập làng trù phú, xây dựng xã hội
văn hoá - văn minh, chính thức mở đầu lịch sử dựng nước của dân tộc. Tuỳ theo mức độ sử
dụng đồng và trình độ kĩ thuật đúc đồng, trên vùng trung du và đồng bằng Bắc BỘ đã có ba giai
đoạn văn hóa tiền Đông Sơn phát triển kế tiếp nhau :
Giai đoạn Phùng Nguyên thuộc sơ kỳ thời đại đồng thau, tồn tại trong khoảng nửa đầu thiên
niên kỷ II trước CN.
- Giai đoạn Đồng Đậu thuộc trung kỳ thời đại đồng thau tồn tại trong khoảng nửa sau thiên
niên kỷ II trước CN.
- Giai đoạn Gò Mun thuộc hậu kỳ thời đại đồng thau, tồn tại trong khoảng cuối thiên niên
kỷ II trước CN. Ở văn hoá Phùng Nguyên tuy chưa tìm được công cụ bằng đồng, nhưng ở di
chỉ Gò Bông đã tìm thấy một số cục đồng và xỉ đồng, chứng tỏ sự luyện kim tại chỗ và tạo ra
được hợp kim đồng thau. Trong giai đoạn này, nổi bật lên là đồ gốm : đa dạng về kiểu dáng và
cỡ (có đồ lớn để nấu và đựng có đồ nhỏ làm cốc uống nước), có đặc trưng cơ bản là tạo dáng ba
phần với tỷ lệ hợp lý (miệng loe, thân thon, đáy choãi do đó chững chạc và sinh động) . Đặc
biệt là về trang trí vẽ nét chìm trên mặt ngoài của gốm theo bố cục băng ngang nhưng đôi khi có
ô dọc, hoa văn được cách điệu từ mẫu hình có sẵn, mang cái đẹp cân đối và tỷ lệ, phản ánh tư
duy toán học cao về đối xứng các loại, được vẽ tay đã truyền tình cảm trực tiếp và toát ra năng
lực diễn tả mạnh.
Sang văn hóa Đồng Đậu, đồ đá vẫn chiếm ưu thế nhất là đồ trang sức, đồ gốm nung cao
hơn và trong trang trí phối hợp nhiều kiểu hoa văn, phổ biển là hoa văn sóng nước, thừng bện,
chữ S. Đồ đồng thau có nhiều loại như rìu, lao, giữa, lưỡi câu, mũi tên.
Đến văn hoá Gò Mun, đồ đá suy thoái và bị lãng quên dần, đồ gốm được nung già và trang

trí hoa văn có xu hướng chim cá
Từ các văn hóa Tiền Đông Sơn đã mở ra con đường trực tiếp tiến lên văn hóa Đông Sơn ở
lưu vực sông Hồng, tồn tại trong cả thiên niên kỷ 1 trước CN và vài thế kỷ đầu CN. Nhưng địa
bàn văn hóa Đông Sơn rất rộng rãi, bao gồm cả miền Bắc Việt Nam, vì thế còn có các con
đường khác tiến lên Đông Sơn ở các lưu vực sông Mã và sông Lam. Dưới nữa có văn hoá Sa
Huỳnh ở nam Trung Bộ được xem là Tiền Chăm Pa và văn hoá Óc eo ở Nam Bộ là Tiền Phù
Nam, về sau cũng hoà nhập vào văn hoá Đất Việt.
Ở văn hóa Đông Sơn, đồ đá rất ít và nghèo, chủ yếu là đồ trang sức . Đồ gốm nặng tính
thực dụng, trang trí đơn sơ. Trái lại, đồ đồng phát triển rất rực rỡ, loại hình phong phú, nghệ
thuật tạo dáng và trang trí đều hoàn hảo, kỹ thuật chế tác đạt đình cao mà ngày nay vẫn chưa
khám phá hết; đặc biệt đã phát hiện được công cụ bằng sắt (như cuốc, mai, thuổng, mũi tên ) và
dấu tích nghề luyện kim sắt. Như vậy văn hóa Đông Sơn thuộc hậu kỳ thời đại đồ đồng sang sơ
kỳ thời đại đồ sắt.
Bốn giai đoạn văn hoá Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun và Đông Sơn là sự phát triển kế
tiếp, hên tục và trực tiếp từ thấp đến cao, cũng là từ địa bàn hẹp (Bắc Bộ) đến rộng (nửa nước
phía Bắc), chẳng những có quan hệ với văn hóa Sa Huỳnh và Óc Eo mà còn tỏa rộng ảnh
hưởng ra cả vùng Đông Nam A để khái niệm "Văn hóa Đông Sơn" trở thành thuật ngữ khảo cổ
học quốc tế. Chính khoảng 2000 trước CN từ sơ kỳ thời đại đồng thau đến sơ kỳ thời cũng là
4
thời kỳ Hùng Vương dựng nước, đi từ tình trạng sơ khai đến hoàn bị của các nhà nước Văn
Lang và Âu Lạc.
2. Trống đồng Đông Sơn và nghệ thuật trang trí
Hiện vật tiêu biểu của văn hoá Đông Sơn là trống đồng có ở khắp Đông Nam á. Những năm
cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX đã thu hút được nhiều học giả phương Tây, trong đó được chú ý
hơn cả là F. Hêgơ ( F.Heger) với công trình " Những trống kim khí ở Đông Nam á" xuất bản ở
Lepdích (Leipzig) năm 1902. Ông chia ra 4 loại trống, trong đó trống loại I là trống sớm nhất,
đẹp nhất thuộc văn hoá Đông Sơn, do đó ngày nay được gọi là trống đồng Đông Sơn. Theo
thống kê của Viện Thông tin Khoa học xã hội trong Thành
tựu khảo cổ học Việt Nam (1945 - 1980) (Hà Nội 1981) thì cho đến năm 1980, số trống
đồng loại lớn và trung bình ở Việt Nam là 91 chiếc và 78 trống minh khí, tất cả là 169 chiếc.

Gần 20 năm nay, chúng ta tiếp tục tìm được nhiều trống đồng Đông Sơn nữa, trong đó có
những trống rất to và rất đẹp như trống Cổ Loa (Hà Nội), trống Đền Hùng (Phú Thọ). Việt Nam
chẳng những có mật độ trống đồng Đông Sơn dày đặc mà còn có nhiều trống đẹp nhất, được
xem là địa bàn gốc, và như thế chủ nhân của trống đồng Đông Sơn chính là người Việt cổ phát
triển từ giai đoạn Phùng Nguyên lên. Điều này cũng phù hợp với việc nhiều trống đồng được
phát hiện trong mộ táng và tầng văn hóa Đông Sơn, nhiều hoa văn trang trí trống đồng Đông
Sơn lại giống hoa văn trang trí trên thạp đồng và rìu đồng Đông Sơn.
Những trống Đông Sơn dù to nhỏ khác nhau, trang trí nhiều ít khác nhau và thời gian đúc
sớm muộn khác nhau, nhưng đều thống nhất về kiểu dáng gồm 3 khối hình học cơ bản chồng
nhau : phần chân trống ở dưới là khối nón cụt, phần thân ở giữa là khối trụ và phần tang ở trên
là một phần của khối cầu bị hai lát cắt song song. Ba khối hình học trên rất khác nhau nhưng lại
kết hợp hài hoà làm cho trống có các phần cân đối, vững chãi mà sinh động, đường biên uyển
chuyên với ba phần rõ ràng có hướng phát triển khác nhau. Nối tang trồng phình ra căng tròn
với thân trồng thu lại đứng thẳng là hai đôi quai vặn thừng tết. Mặt trống là một mặt phẳng hình
tròn không chờm ra ngoài tang trống.
Trống đồng Đông Sơn đã đẹp ở tạo dáng lại càng nổi lên ở tạo hình trang trí bằng nghệ
thuật chạm khắc. Về mặt này tiêu biểu là các trống Ngọc Lũ, Hoàng Hạ, Cổ Loa và Đền Hùng.
Bố cục mặt trống là những vòng tròn đồng tâm bao lấy ngôi sao nhiều cánh (12 hoặc 14 cánh) ở
giữa - mà cử giữa hai cánh lại có hình như đôi cá úp bụng vào nhau biểu hiện sự giao phối âm
dương, nếu khai triển sẽ cho những dải băng song hành gắn với cư dân làm ruộng và đan lát.
Sang mặt bên của trống phần tang vẫn bố cục hoa văn trang trí theo băng ngang, nhưng sang
phần thân lại kết hợp cả băng ngang với dải dọc tạo thành những ô chữ nhật là loại thường thấy
ở nghệ thuật của cư dân chăn nuôi. Hoa văn trang trí trên các trống đồng Đông Sơn luôn gồm
hai lọai là hồi văn hình học và hoa văn xã hội . Hồi văn phổ biến là vòng tròn chấm tâm chung
tiếp tuyến về hai phía (gần với chữ S nằm), là tam giác cân nổi và chìm đan xen nhau, là dải
chấm chầm, là dải vạch ngang hoặc chéo, là chữ S gãy góc thành triện nằm Các hồi văn này
kéo dài như vô tận, bồ trí thành từng nhóm cân đối hai bên một dải chính hay một vạch, phong
phú và chững chạc. Kẹp giữa hai dải hồi văn là các hoa văn xã hội diễn tả các hoạt động xã hội
của người, chim và thú. Ở đây có những yếu tố văn hóa vùng cao (hươu chạy, chim bay) ,
những yếu tố văn hóa vùng trũng sông biển ( thuyền chiến, thuyền đua, cá, chim, nước), lại có

những yếu tồ văn hóa vùng đồng bằng (cảnh giã gạo, chơi chồng nụ chồng hoa, nhà sàn, múa
hát, các chiến binh) . Bên những yếu tố văn hóa bản địa, cũng có cả yếu tố văn hóa ngoại nhập
(bò u) . Tất cả những hoạt dộng của người và sinh vật đều xoay quanh mặt trời (ngôi sao ?)
đang tỏa sáng, có thể đó là biểu hiện của tín ngưỡng thờ mặt trời.
Trong những hình trang trí trống đồng Đông Sơn , nổi trội lên là những sinh hoạt của con
người, hầu hết là hoạt động tập thể, ít cũng đôi trai gái giã gạo hoặc chơi chồng nụ, chồng hoa,
nhiều thì cả đoàn múa hát tay uốn cong quá độ, và nhất là những thủy thủ trên các thuyền chiến
và thuyền đua. Tất cả chim, thú và người đều thống nhất chuyển động ngược chiều kim đồng
hồ, gợi lên vòng quay tự nhiên (dây leo, khoáy tóc) và chuyển động ảo của mặt trời. Nếu các
hồi văn là hoa văn hình học hóa, thì các cảnh sinh hoạt xã hội là sự sơ đồ hóa phát triển từ hình
học lên, luôn bám sát hiện thực cuộc sống, diễn tả theo lối đơn tuyến bình đồ, nhưng rồi đến
5
cuối thời Đông Sơn do trong lòng xã hội có sự khủng hoảng mà các hình ngày càng trừu tượng
và rối.
3. Nghệ thuật tạo tượng
Cho đến đầu thập niên 80 của thế kỷ XX, đã tìm được được trên 200 tượng thuộc thời đại đồ
Đồng. Trừ 2 tượng gốm chưa được xác định, các giai đoạn Tiền Đông Sơn có 22 tượng (gồm 1
tượng đá, 20 tượng gốm và 1 tượng đồng), Đông Sơn có 183 tác phẩm (gồm 1 tượng gỗ, 1
tượng đá, 1 tượng gốm, 2 tượng sừng và 178 tượng đồng) .Như vậy xã hội càng phát triển thì
đời sống văn hoá nghệ thuật càng phong phú, chất liệu cũ (đá, đất nung) phổ biến ở giai đoạn
Tiền Đông Sơn thì sang giai đoạn Đông Sơn chỉ chiếm tỷ lệ hết sức nhỏ bé, để nhường chỗ cho
chất liệu đồng có nhiều ưu thế trong chế tác và bảo quản. Nếu ở Tiền Đông Sơn mới chỉ có 3
tượng người thì sang Đông Sơn nâng lên tới 34 tượng người, chứng tỏ xã hội càng văn minh thì
nghệ thuật càng lấy con người làm đối tượng ca ngợi. Con người có khi ở tư thế ngồi chơi thoải
mái, nhưng có khi vui múa hát, thổi khèn và cả ân ái nữa, lại có lúc đứng đĩnh đạc trên cán dao
hoặc chuôi kiếm như một tượng đài. Dù sao trong cuộc sống đơn sơ, người thời đại đồ đồng có
nhiều gắn bó mật thiết với môi trường, họ tập trung diễn tả những con thú quanh mình. Thời
Tiền Đông Sơn, trong tổng số 22 tượng, ngoài 22 tượng động vật vỡ nát không xác định được
con gì, thì có một nửa là tượng bò ( 10) , một phần tư là tượng gà và chó ( 3 + 2 = 5) , tức tập
trung vào những giống vật đã được thuần dưỡng coi như những bạn thân của con người. Sang

thời Đông Sơn, trong tổng số 183 tượng, có tới 80 tượng cóc và 10 tượng nhái - tức chiếm tới
một nửa, là biểu hiện của việc cầu mưa rất cần cho nông nghiệp lúa nước. Tượng rùa cũng khá
nhiều (25 con), hẳn là con vật thiêng, có thể liên tưởng đến thần Kim Quy giúp An Dương
Vương xây thành Cổ Loa và chế nỏ thần. Những con vật khác thì hồ nhiều hơn cả (10 con),
người xưa cần tìm hiểu để phòng tránh và cũng có thể tôn nó làm thần để trừ ma tà ; ngoài ra có
voi (15) , lợn (4) , rắn (4) , hươu (2) , trâu ( 1) và chó (1) đều là những con vật dễ gặp trong
cuộc sống.
Những tượng thời đồ đồng dù bằng chất liệu rất sẵn (đá, đất nung) hay chất liệu quý hiếm
(đồng) cũng đều là tượng nhỏ, thông thường chỉ 5- 7cm, dùng để trang trí, có khi để đeo như
một thứ bùa hộ mệnh. Nhỏ bé, nhưng được diễn tả khá chi tiết, rất có thần thái. Sớm nhất là
tượng người đàn ông Văn Điển thuộc văn hoá Phùng Nguyên chỉ cao 3,6cm, bằng đá, chạm rõ
mặt trái xoan, màu thắng, mắt tròn, ngực nở, bụng thon, rõ giới tính. Tiếp đến tượng bò Đồng
Đậu chỉ dài 5cm, bằng đất nung, có dáng hung dữ với u nhô lên, mặt cúi gầm, đưa cặp sừng
chĩa ra đằng trước như muốn lao vào đối thủ. Đến văn hoá Đông Sơn, con chó trên thỏi đồng
Hà Đông chỉ dài 2,8cm rõ ràng đang thủ thế với dáng đứng choãi chân, nhô đầu ra dằng trước
và há mõm sủa.
Người Việt Khê thổi khèn, các cặp trai gái ân ái trên tháp đồng Đào Thịnh và hai người
cõng nhau ở Đông Sơn có nhỉnh hơn một chút lại càng sinh động với nội tâm phấn chẩn đến
ngây ngất.
Có thể nói tượng tròn ở thời đồ đồng có tính hiện thực sâu sắc nhưng không sa vào trạng
thái tự nhiên, nhờ khái quát hóa mà cả hình và tượng đều đạt đến cái đẹp sắc sảo song vẫn dung
dị, tạo một hướng đi đúng cho nghệ thuật tạo hình của người Việt cổ
4. Thành tựu kiến trúc
Người Việt cổ thời Đông Sơn còn ứng dụng nghệ thuật vào ngay trong đời sống hàng ngày.
Trước hết là làm đẹp cho chính bản thân con người với các kiểu đầu tóc búi cao trên đỉnh hoặc
cắt xoã ngang vai, có khi lại tết đuôi xam bỏ dài sau lưng ; với các kiểu áo dài xẻ tà sang trọng
và cả kiểu con trai đóng khố, con gái mặc váy quây lại . Đặc biệt là các kiểu đồ trang sức
khuyên tai, vòng tay, chuỗi hạt đeo cổ rất phong phú.
Thành tựu lớn trong nghệ thuật đời sống là kiến trúc. Từ thời đại đồ đá tiến sang thời đại đồ
đồng thau cũng là từ miền núi tiến sâu dần vào đồng bằng, chiếm lĩnh các đất, gò bãi, sườn đồi

để quần cư lập ấp dựng làng và yêu cầu cấp thiết đặt ra là phải làm nhà. Từ những cái lều, cái
chòi qua thực nghiệm sừ dụng dần được cải tiến, để đến văn hoá Đông Sơn đã tạo lập được một
thức kiến trúc riêng mà mô hình ngôi nhà còn thấy khắc trên nhiều trống đồng Đông Sơn và dấu
tích kiến trúc còn để lại ở di chỉ Đông Sơn ,với những chiếc cột nhà bằng gô dài tới 4m5 có lỗ
6
mộng (để tra dầm sàn?) cách chân cột lm25, những dóng tre và mảnh phên đan. Kết hợp những
nguồn tư liệu trên, chúng ta nhận ra đó là những kiểu nhà sàn phù hợp với điều kiện môi trường
sổng còn nhiều hoang dã, vừa phải phòng tránh thú rừng làm hại, vừa phải thích nghi hoàn cảnh
úng lụt xảy ra hàng năm theo chu kỳ. Có hai kiểu nhà sàn chính. Kiểu thứ nhất là loại nhà dài,
mái cong võng hình thuyền và chảy xuống sát sàn kiêm luôn cả vách che chắn, hai đầu mái nhô
ra và uốn cong cuộn lại duyên dáng, trên nóc mái có 1 hoặc 2 con chim to đậu, sàn nhà dựng
trên một hệ thống cột. Kiểu thứ hai là loại nhà ngắn, mái cong vồng lên như mui thuyền, hai
sườn mái rất dày, sàn nhà dựng trên đầu một cột to ở giữa có các tay chống nhô ra đỡ, và cẩn
thận lại có thêm tường vách đỡ ở hai bên. Những mẫu nhà này đều thon thả mà chắc chắn, được
dựng lên bằng vật liệu tranh, tre, gỗ, sàn có tại chỗ, chúng được liên kết tạo ra bộ khung cột -
kèo - xà, dồn sức nặng xuồng nền nhà thông qua cáccột, nó không chỉ là chỗ trú ngụ mà thực sự
đã lả những công trình kiến trúc ở cả kiểu dáng và trang trí.
Phối hợp những đơn nguyên kiến trúc gần nhau thành làng. Do nhu cầu chống thiên tai, cải
tạo môi trường và an ninh đời sống, các làng liên kết lại dưới sự chỉ đạo của một nhà nước sơ
khai. Và như thế phải có một kinh đô. Nếu kinh đô của nước Văn Lang còn là truyền thuyết, thì
kinh đô âu Lạc là tòa thành Cổ Loa vẫn còn dấu tích rõ ràng đến nay.
Thành Cổ Loa ở ngoại thành Hà Nội ngày nay, là trung tâm của nước Âu Lạc xưa, đầu mối
của hệ thống giao thông đường thủy. Nơi đây ở ven sông Hoàng Giang, vừa có gò bãi vừa có
đầm lầy, do đó đã đắp nổi những dải đắt cao, lại phải gia cố nền móng những nơi đất láy bằng
kè đá và rải mảnh gốm để chống trôi sụt. Truyền thuyết kể thành xây "9 lớp, chu vi 9 dặm" có
hàm ý là con số thiêng chỉ quy mô lớn trùm lên tất cả. Thực tế khảo sát, toà thành này có 3
vòng khép kín, bao lấy nhau nhưng lệch gần sát về phía nam. Vòng ngoài dài chừng 8000m,
vòng giữa 6500m, cả 2 đều không có hình thù rõ rệt, còn vòng trong hình chữ nhật chu vi
1650m. Như vậy cả ba vòng thành dài hơn 16km, kèm theo có hào nước bên ngoài, lại thêm
nhiều ụ hỏa hồi để kiểm soát trận địa, đòi hỏi một lượng đất đá đào đắp khổng lồ. Với số dân cả

nước lúc đó chỉ chừng 1 triệu người, đây là một kỳ tích lao động với nhiều sáng tạo, dường như
vượt ngoài sức con người, phải viện dẫn đến sự trợ giúp của thần tiên.
Văn hóa Đông Sơn đang phát triển thì từ thế kỷ II trước CN với cuộc xâm lược chính trị
của phong kiến phương Bắc, thì đồng thời có cuộc giao tiếp cưỡng bức với văn hóa Hán theo xu
hướng đồng hóa. Trong thế bất lợi ấy, văn hóa Đông Sơn bị đập vụn nhưng nhiều mảnh nhỏ
được lưu giữ trong các xóm làng, trên cơ sở đó phần nào cảm hóa lại tầng lớp thống trị ngoại
tộc ; đồng thời tiếp thu chọn lọc và biến cải một số yếu tố văn hoa Hán, tiếp tục đúc trống đồng
Đông Sơn dưới hình thức trá hình để ngửa là chiếc chậu (nhưng cập kênh) mà để úp là chiếc
trống. Trong khi đó lại tiếp nhận tự giác văn hoá Phật giáo ấn Độ thâm nhập hòa bình và hòa
nhập với tín ngưỡng bản địa. Chính những điều đó lại gây men cho ý thức dân tộc để dẫn đến
những cuộc đấu tranh giải phóng, từ những thắng lợi tạm thời của Hai Bà Trưng, của Lí Bí dẫn
đến thắng lợi hoàn toàn của Ngô Quyền, để rồi là cơ sở để xây dựng văn hóa dân tộc ở kỷ
nguyên Đại Việt.
7
Chương III
MỸ THUẬT CHĂM
Chăm (Chăm Pa, Chàm, Chiêm Thành ) ngày nay là một dân tộc thiểu số có chừng
100.000 người, chung sống trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam, nhưng trước khi hội nhập
chính thức vào quốc gia Việt Nam ở thế kỷ XV, đã xây dựng một Nhà nước độc lập với một
nền văn hóa nghệ thuật riêng rất độc đáo. Từ đầu thế kỷ XX, thế giới đã biết đến nền nghệ thuật
này và xem là một kỳ tích của lịch sử.
Nhưng rồi Pháp và đế quốc Mỹ đã phá hủy kiến trúc - điêu khắc Chăm có nơi hoàn toàn
(như ở khu đền tháp Đồng Dương) , có nơi rất nghiêm trọng (như ở khu thánh địa Mỹ Sơn) .
Những năm thuộc thập niên 80 của thế kỷ XX, với sự giúp đỡ của chính phủ Ba Lan, chúng ta
đã kịp thời cứu vãn những công trình hiên còn và đăng ký vào di sản văn hoá thế giới. Trong
khi người Việt cổ có văn hoá Đông Sơn thì ở miền Trung có văn hóa Sa Huỳnh đồng đại và
cũng rất rực rỡ, được nhiều nhà khoa học xem là văn hóa Tiền Chăm. Từ thế kỷ II người Chăm
đã giành được độc lập, thống nhất hai bộ tộc phía Bắc và phía Nam đều thuộc nhóm Mã Lai -
Đa Đảo (Malayo - Polynesia), lập nước Lâm ấp - về sau đổi là Chăm Pa, từ phía nam Hoành
Sơn xuống tận Bình Thuận. Do những biến thiên của lịch sử, kinh đô Chăm Pa nhiều lần di

chuyển khi ở phía bắc lúc ở phía nam, gắn với trung tâm chính trị luôn là trung tâm văn hóa. Từ
những trung tâm ấy lan tỏa ra xung quanh, trừ những khu di tích bị phá hủy hoàn toàn, ngày
nay chúng ta vẫn còn một hệ thống tháp Chăm : Mỹ Sơn, Bằng An, Chiên Đàng, Khương Mỹ
(Quảng Nam), Cánh Tiên, An Chánh, Thủ Thiện, Bánh ít, Bình Lâm, Hưng Thạnh (Bình Định),
tháp Nhạn (Phú Yên), Pô Nagar (Khánh Hoà), Hòa 'Lai, Pô Klaung Garai (Ninh Thuận), Pô Ro
me, Pô Hài và Phú Hài (Bình Thuận). Phía bắc Hải Vân và sườn đông cao nguyên Tây Nguyên
cũng tìm thấy nhiều dấu tích tháp Chăm, thậm chí có cả cây tháp còn nguyên ở trong rừng
xanh.
Tháp Chăm là một loại hình kiến trúc tôn giáo, được xây dựng thành từng cụm trên những
đồi núi không cao (chừng 50m), hướng Đông đón ánh mặt trời và như gợi về nguồn xa biển cả,
xây dựng cả một cảnh quan hoành tráng. Mỗi cụm di tích có một tháp chính ở giữa và một số
tháp phụ quây quanh, trong đó luôn có tháp Cổng ở phía đông và tháp Hỏa ở phía nam. Các
tháp thờ bình diện vuông, ba mặt làm cửa giả chỉ nhô ra một chút, còn mặt trước có cửa ra vào
được kéo dài tạo thành một gian tiền sảnh chạy dọc.
Thông thường tháp có 3 hoặc 4 tầng, độ cao phổ biến ở mức trên dưới 20m phù hợp với bề
rộng mặt đồi khi quan sát tại chỗ có thể di chuyển lùi xa 2-3 lần độ cao. Chiều cao tháp thường
gấp 2 đến 2,5 lần cạnh chân tháp (không kể gian sảnh cửa trước nhô ra) làm cho nó vươn lên
mà vẫn bề thế, cùng cả quần thể dàn trải chắc chắn. Các tầng trên là sự lặp lại của tầng 1, chỉ có
cửa giả, thu nhỏ dần, đặt chồng lên nhau theo khối tháp. Các tầng ngăn cách nhau bởi diềm mái
nhô ra, góc mái có hoa đao như ngọn lửa. Đỉnh tháp và đỉnh các cột góc của các tầng đều làm
thành một chiếc linga và bản thân cả cây tháp thờ cũng được xem là chiếc linga khổng lồ dựng
trên mặt đồi tròn bè là chiếc yorú tương ứng. Hình tượng kiến trúc hoảnh tráng trên hoàn toàn
thống nhất với điêu khắc thờ trong lòng tháp. Lòng tháp là một phòng vuông hẹp, nóc nhọn vút
cao tạo không gian vời vợi gắn với thần linh. Giữa lòng tháp là bệ thờ, trên có cặp tượng linga -
yom mang hình tượng sinh thực khí nam nữ, là sự hoà hợp âm dương theo tư tưởng phồn thực.
Yoni như thớt dưới của cối xay bột, luôn có vòi chĩa về hướng bắc - âm. Trong khi đó nhiều
linga có mặt trước được tạo thành tượng thần hay gắn với phù điêu chân dung bán thân Vua,
luôn nhìn ra cửa chính hướng đông - dương. Quanh cặp tượng linga - yoni không gian rất hẹp,
dường như chỉ đủ cho tín đồ xếp hàng dọc đi quanh một vòng rồi lại ra cửa vừa vào.
Tháp Chăm có tường dầy từ lm1 đến lm6, thậm chí có cái gần 2m, xây đặc bằng những

viên gạch chín đều như nhau, đã qua nhiều trăm năm- thậm chí hơn nghìn năm thử thách mà
gạch không bị thối mủn ; ở mặt tháp, từng viên gạch gắn với nhau rất xít, không thấy có hồ vữa.
Đã nhiều người tìm cách lý giải, song tắt cả các giả thuyết đều còn ke hở, vì thế kĩ thuật xây
tháp Chăm cho đến nay vẫn còn là điều bí mật. Gần đây hé mở kỹ thuật xây mài chập với nước
có nhựa-cây ô đuốc.
Mặt ngoài tháp là hệ thống cột gạch ốp vào tường song hành vươn lên cao, lại có nhiều
mảng lồi lõm đan xen, khắc rạch trực tiếp lên gạch những tượng vả dải hồi văn trang trí, đường
8
nét sắc sảo và liền mạch mà không bị sứt mẻ. Đây là điểm độc đáo hiểm gặp ở các nền điêu
khắc khác. Ngoài ra mặt tháp còn được gắn một số tượng đá sa thạch với đề tài được tôn giáo
gợi hứng (chủ yếu là đạo Bà La Môn), cả những sinh hoạt ca múa trong đời sống thường nhật
Phổ biến là tượng thần Si va chủ về ca múa, đang dang những cặp tay ra múa uyển chuyển,
trong nghệ thuật không gian phần nào thể hiện dược cả nghệ thuật thời gian. Vũ nữ cũng được
thể hiện nhiều, chạm nổi cao thành đoàn người phối hợp nhau, hoặc tượng tròn độc lập. Tiếp
đến là tượng các tiên nữ, các chiến binh, chim thần Garuda và bò thần Nanđin Tượng đá Chăm
phong phú về đề tài, tập trung phô diễn vẻ đẹp thân thể con người, có cả sức sống nội tâm sôi
nổi và sự kiều diễm thân mình, sự mơn man da thịt, luôn toát ra thẩm mỹ thanh cao. Điêu khắc
Chăm luôn hướng theo hiện thực nhưng không sa vào tự nhiên vụn rối. Kỹ thuật đục chạm có
lúc tinh như đồ kim hoàn, có lúc mạch lạc đến cứng cỏi, không bao giờ lỗi sót.
Quốc gia Chăm tồn tại từ thế kỷ II đến thế kỷ XV, sau đó một thời gian dài như có sự tự trị
cộng đồng. Nhưng những thế kỷ đầu nghệ thuật Chăm còn phải mò mẫm, phải đến thế kỷ VII
mới định hình với sự hoàn mỹ cổ điển, sau đó trong quá trình phát triển luôn mang theo dấu ấn
thời gian, nhờ đó có thể phân kỳ ra từng giai đoạn. Dưới góc độ mỹ thuật, nhiều nhà nghiên cứu
đồng tình với học giả Pháp Ph.Stee (Ph.Stern) năm 1942 chia mỹ thuật Chăm ra 7 phong cách
nối tiếp nhau :
1. Phong cách Mỹ Sơn E1 (hay phong cách cổ) : đầu thế kỷ VIII đến đầu thế kỷ IX
2- Phong cách Hoà Lai : múa đầu thế kỷ IX
3- Phong cách Đồng Dương : giữa thế kỷ IX đến đầu thể
4 - Phong cách Mỹ Sơn Al : thế kỷ X
5- Phong cách chuyển tiếp (hay phong cách Pô Nagar) : thế kỷ XI

6 - Phong cách Bình Định : thế kỷ XII đến hết thế kỷ XIV
7- Phong cách muộn : thế kỷ XV đến đầu thế kỷ XVII.
Sự phát triển phong cách trên đây là theo đơn tuyến thời gian. Nếu kết hợp với không gian
theo vùng địa lý, thì ở đây vừa có tính địa phương vừa có sự hội nhập : xu hướng thanh tú,
đường bệ của Mỹ Sơn E1 ở phía bắc, xu hướng uốn éo, rậm rạp của Hoà Lai ở phía nam, khi
kết hợp lại đã tạo ra phong cách Đồng Dương chung cho cả nước. Sau đó từng vùng lại kết hợp
Đồng Dương với truyện thống cũ tạo ra phong cách Mỹ Sơn Al ở bắc và phong cách Pô Nagar
ở nam. Sau đấy do tính lịch lịch sử, nghệ thuật Chăm chỉ còn phát triển ở phía nam, được phân
đoạn theo mốc cuộc hội nhập vào quốc gia Việt Nam, chung sống đoàn kết trong đại gia đình
các dân tộc Việt Nam.
9
Chương IV
MỸ THUẬT THỜI LÝ (1009 - 1225)
I - HOÀN CẢNH XÃ HỘI
1 Sự trưởng thành của ý thức dân tộc
Một nghìn năm Bắc thuộc cũng là nghìn năm chống Bắc thuộc. Cuối thế kỷ III trước CN
nước Âu Lạc bị xâm lược và đô hộ, người Việt cổ bị cưỡng bức tiếp nhận văn hóa phương Bắc,
song với truyền thống Đông Sơn, ý thức dân tộc không những không bị xóa bỏ mà còn cố kết
mọi người trong các làng quê. Trên cơ sở đó, từ đầu thế kỷ thứ nhất, Hai Bà Trưng đã đoàn kết
được nhân dân cả nước, nhanh chóng đánh thắng quân Hán, đem lại nghiệp xưa họ Hùng.
Nhà nước độc lập đầu tiên ấy tuy chỉ đứng vững có nghìn ngày (40-43) song đã khẳng định
sự hình thành và phát triển bước đầu của ý thức dân tộc.
Trong giai đoạn Bắc thuộc lần thứ 2, bên cạnh quý tộc Việt, một số quý tộc Hán sang ta
nhiều đời đã Việt hóa.
Các hào trưởng này ngày càng có uy thế, thực chất họ là các thủ lĩnh địa phương, giữ vai
trò lãnh đạo nhăn dân đấu tranh giành độc lập. Đồng thời, Phật giáo vào ta một cách hòa bình,
lại hoà nhập với tín ngưỡng bản địa, truyền bá tư tưởng yêu thương đùm bọc nhau, trở thành
ngọn cờ tập hợp mọi người nổi dậy chống cường quyền. Lý Bi đã phát động cuộc khởi nghĩa từ
một ngôi chùa, nhanh chóng thắng lợi, lập nên nhà nước Vạn Xuân vào năm 544 biểu hiện sức
bật mạnh mẽ của dân tộc. Nước Vạn Xuân tồn tại trong tình hình mâu thuẫn nội và ngoại đều

rất phức tạp, song đã kéo dài dược gần 60 năm (544 - 603), khẳng định sự gắn bó của ý thức
dân tộc với độc lập và tự do.
Sau đấy, lịch sử lại thử thách dân tộc ta nhiều lần nữa. Ý chí thà hy sinh chứ không chịu
làm nô lệ đã dấy lên nhiều phong trào đấu tranh cả vũ trang và chính trị, bác bỏ dưới nhiều hình
thức sự thống trị của phong kiến phương Bắc trên đất nước ta. Sau những tháng lợi tạm thời ở
các thế kỷ VII - VIII - IX từ đầu thế kỷ X trên thực tể nhân dân ta đã giành được quyền tự chủ.
Thế rồi, với chiến thắng Bạch Đằng lịch sử năm 938, Ngô Quyền đã chính thức giương cao
ngọn cờ độc lập, chấm dứt hẳn đêm trường Bắc thuộc.
Độc lập đã có, nhưng chưa thoát ly được tính chất địa phương mà các thủ lĩnh muốn hùng
cứ, nên ngay sau khi Ngô Quyền mất (944) đất nước rơi vào tình trạng hỗn loạn mười hai sứ
quân. Phất cao ngọn cờ thống nhất, năm 968 Đinh Bộ Lĩnh thu giang sơn về một mối, lập nên
nước Đại Cồ Việt với kinh đô Hoa Lư. Độc lập và thống nhất đã xác lập song đều bị đe dọa, sau
việc Đinh Tiên Hoàng bị ám hại nhà Tống lại lăm le xâm lược. Lê Hoàn vừa được suy tôn lên
ngôi hoàng đế đã tổ chức ngay cuộc kháng chiến và giành thắng lợi rực rỡ vào mùa xuân năm
981, gây niềm tự hào dân tộc và niềm tin chắc chắn ở tiền đồ đất nước. Nhưng sau khi Lê Đại
Hành mất, nội tình triều đình lục đục và mất niềm tin trong nhân dân thì tầng lớp trí thức xã hội
đã tạo dư luận để chuyển chính quyền hoà bình sang nhà Lý.
Vua Lý Thái Tổ với hoài bão xây dựng đất nước đàng hoàng ngay sau khi lên ngôi đã
chuyển kinh đô từ vùng Hoa Lư thủ hiểm ra giữa đồng bằng lấy tên là Thăng Long để "mưu
toan nghiệp lớn. Năm 1054 nhà Lý đổi tên nước là Đại Việt thể hiện ý thức tự tôn, bình đẳng
với Đại Tống. Khi phát hiện âm mưu xâm lược của quân Tống, Lý Thường Kiệt đã có hành
động tự vệ tích cực là tấn công triệt phá hậu cần địch rồi rút về phòng ngự ở tư thế chiến thắng,
sau đó ngay trong chiến đấu đã dõng dạc tuyên bố "Nam quốc sơn hà Nam để cư" khẳng định
chủ quyền đất nước với quyết tâm của dân tộc bảo vệ chủ quyền ấy, có giá trị là bản Tuyên
ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc. Thắng lợi quân sự rồi, trên cơ sở sự trưởng thành của dân tộc
về mọi mặt, nhà Lý tiếp tục đấu tranh ngoại giao đòi độc lập cả về pháp lý : Vua Lý Anh Tông
không chịu nhận chức "Giao Chỉ quận vương", buộc nhà Tống thừa nhận là "An Nam quốc
vương", cùng có nghĩa phải công nhận nước ta là một vương quốc độc lập.
Như vậy, ngay trong buồi đầu Bắc thuộc, ý thức dân tộc đã hình thành để luôn trườn khỏi
mọi sự đồng hoá văn hóa và dân tộc, từng bước đấu tranh với nhịp điệu ngày càng dồn dập, đi

từ thắng lợi tạm thời đến thắng lợi dứt khoát. Ý thức dân tộc lại đòi hỏi Độc lập phải gắn với
Thống nhất, khắc phục mọi trở lực từ bên trong và từ bên ngoài, ý thức ấy càng trương thành
càng đòi hỏi nhả nước luôn đặt dân tộc ở thế phát triển, thế chủ động, được bình đẳng cả trong
10
thực tế và pháp lý với mọi quốc gia và mọi dân tộc khác. Đó là chân lý không thay đổi, cũng là
cơ sở để xây dựng đất nước cường thịnh.
2. Sự cường thịnh của nước Đại Việt
Hàng ngàn năm Bắc thuộc, sức sản xuất bị phá hoại nghiêm trọng. Những thời gian độc lập
ngắn ngủi trước thế kỷ X luôn bị phương Bắc đe dọa. Các nhà nước Ngô - Đinh - Tiền Lê quá
ngắn ngủi, xã hội chưa ổn định, chính quyền trung ương chưa đủ sức với tới cả nước, luôn phải
tập trung cho sự nghiệp giữ nước nên công cuộc dựng nước chưa làm được bao nhiêu.
Sang thế kỷ XI với vương triều Lý, nhà nước trung ương tập quyền hoàn toàn thắng thế,
liên tục phá Tống bình Chiêm, đưa uy tín nước Đại Việt lên đỉnh cao. Đối với dân tộc, nhà Lý
đóng vai trò rất tích cực, có nhiều chính sách ~àtl diện để xây dựng một quốc gia độc lập vững
chắc. Chính sách khuyến nông được đặc biệt chú ý như giải phóng nô tỳ, gửi quân đội vào nhà
nông (ngụ binh ư nông), bắt người đào vong về quê nhận ruộng sản xuất, tổ chức khẩn hoang,
xây dựng công trình thủy lợi, chăm sóc trâu bò để có sức kéo. Chính vua Lý Thái Tông đã trực
tiếp cày tịch điền "để có xôi gạo cúng tổ tiên và nêu gương cho thiên hạ", thân đi xem xét thủy
lợi Do đó mặc dầu kĩ thuật nông nghiệp còn thấp kém, song nông nghiệp phát triển khá mạnh,
sử cũ ghi rất nhiều lần được mùa to, lại còn những hiện tượng lạ như mưa ra thóc, mưa ra gạo,
lúa 9 bông, cau 9 buồng và chim thú quý xuất hiện liên tục đều biểu hiện xã hội thái bình thịnh
trị. Trái lại, về việc mất mùa đói kém, triều Lý chỉ xảy ra có 4 lần và đều thuộc vào giai đoạn
cuối (các năm l156, 1181, 1199 và 1208). Chẳng những vào những năm đại hạn hay lụt lội, mà
cả những năm được mùa lớn, nhà nước cũng xá tô thuế cho nhân dân, có khi tới 3 năm "để yên
ủi sự lặn lội khó nhọc". Chính vì thế nông dân rất yên tâm làm ăn, không có yêu cầu khởi nghĩa,
một vài cuộc nổi dậy là của các dân tộc ít người và ở miền biên viễn.
Thủ công nghiệp cũng có nhiều tiến bộ Các nghề gắn với xây dựng như làm gạch, ngói và
chạm khắc gỗ, đá phát triển mạnh. Đồ gốm đạt tới trình độ cao, nhất là gốm men ngọc. Công
nghiệp khai thác thiếc, bạc, đồng, vàng và kĩ thuật đúc đồng đạt nhiều thành tựu. Theo thư
tịch và truyền thuyết, thời Lý có bốn khí vật cực lớn (tháp Báo Thiên, chuông Quy Điền, phật

Quỳnh Lâm và vạc Phổ Minh hay Phả Lại) đều được đúc bằng đồng. Với sự phát triển của nghề
dệt, các vua Lý thường tỏ ý không dùng gấm vóc của Tống nữa. Nhiều sản phẩm thủ công đã
trở thành hàng hóa. Nông thôn khắp nơi có chợ, kinh đô Thăng Long phố xá tấp nập. Ngoại
thương cũng được mở rộng, lập cảng Vân Đồn để đón tàu buôn các nước. Và nhờ đó Việt Nam
được tiếp xúc với nhiều nền văn hóa khác nhau, càng có điều kiện tiếp nhận ảnh hưởng bên
ngoài để làm giàu văn hóa của mình.
Cơ sở kinh tế ổn định là nền tảng cho sự phát triển xã hội. Với nền kinh tế lúa nước, người
nông dân luôn phải "trông trời", thì trong thời Bắc thuộc đã hòa nhập tín ngưỡng thờ các hiện
tượng tự nhiên với Phật giáo, tạo ra một hệ thống các chùa "Tứ Pháp". Cho đến thời Lý, trong
Phật giáo ngoài hai dòng Thiền đã có là Tì Ni Đa Lưu Chi và Quan Bích, giờ thêm dòng Thảo
Đường gắn kết được cả Nho giáo với Phật giáo, như vậy vừa tập hợp được toàn dân vừa phục
vụ được sự quản lý của triều đình. Vì thế nhà Lý ngay từ đầu và trong suốt cả vương triều đã
cho xây dựng rất nhiều chùa tháp. Bên cạnh đó, nhà Lý cũng coi trọng Nho giáo, xây Văn
Miếu, lập trường Quốc Tử Giám và mở khoa thi cấp cao để đào tạo và tuyển lựa nhân tài chỏ
bộ máy cai trị . Năm 1042 vua Lý Thái Tông cho ban hành bộ Hình Thư là bộ luật thành văn
đầu tiên của nước ta, làm cơ sở để xây dựng một thiết chế xã hội ổn định. Chính ý thức dân tộc
trưởng thành đã thôi thúc xây dựng một nền văn hóa nghệ thuật dân tộc đặc sắc và toàn diện.
Mong muốn của toàn dân và của triều đình nhà Lý lại được sự cường thịnh của đất nước tạo
điều kiện để biền hoài bão thành hiện thực.
II - NGHỆ THUẬT KIẾN TRÚC
Trên cơ sở "thức kiến trúc Đông Sơn" đã hoàn chỉnh trong thời Bắc thuộc, nhân dân ta lại
tiếp thu Phật giáo và đi kèm với nó là việc xây dựng chùa tháp. Hẳn trình độ xây dựng của thợ
Việt có tay nghề cao, nên thái thú Tôn Tú đã bắt hơn nghìn thợ thủ công Giao Chỉ đưa về Bắc
để giúp vua Ngô xây dựng kinh đô Kiến Nghiệp. Ngay khi đất nước giành được độc lập, công
việc hàng đầu là phải "an cư" và cũng để thể hiện diện mạo nhà nước, nên sau khi đã định đô thì
phải dựng đô.
11
1. Kiến trúc thành Thăng Long
Nếu Ngô Vương Quyền mở đầu nền chính thống, để có chỗ làm việc ngay đã dùng lại kinh
đô Cổ Loa vốn xây dựng từ hơn nghìn năm trước ; Đinh Tiên Hoàng thống nhất đất nước xây

dựng kinh đô Hoa Lư ở gần quê hương có núi sông hiểm trở, và vua Lê Đại Hành vừa thắng
ngoại xâm vẫn cần đến Hoa Lư để thủ thế, thì vua Lý Thái Tổ với hoài bão xây dựng một quốc
gia đàng hoàng, sau khi hỏi ý kiến và được quần thần đồng tình, đã quyết định xây dựng kinh
dô mới là Thăng Long.
Kinh thành Thăng Long được khởi dựng tử mùa thu năm 1010 đến mùa xuân năm l011 thì
xong cơ bản, về sau được bổ sung vào năm 1029 và 1203. Với dấu tích hiện còn là bờ đê và
những đoạn thành cao, nối lại cho vòng thành khép kín dài trên 20 km, được xây ở vị trí trung
tâm của đất nước, nơi giữa đồng bằng, các núi sông lớn đều chầu về, dễ dàng liên hệ với cả
nước bằng đường bộ hoặc đường thuỷ, có thể tấn công hay phòng ngự đều thuận lợi, từng được
khai thác từ đầu thời đại đồ đồng và đến thế kỷ đã trở thành trung tâm kinh tế - văn hóa "muôn
vật cực kỳ giàu thịnh đông vui!
Vòng thành đất đắp trên là giới hạn toàn bộ kinh thành, cũng là phòng thành chống lụt và
ngăn địch từ xa mới tới. Bốn phía có bốn ngôi đền thờ các vị thần bảo hộ cho kinh thành : phía
nam có đền Kim Liên thờ Cao Sơn đại vương là thần Núi, phía tây có đền Voi Phục thờ Linh
Lang đại tượng là thần Sông. Các thần Núi thần Sông là linh khí đất nước, và do đó Núi Sông
chính là biểu hiện của Tổ quốc. Phía đông có đền Bạch Mã thờ thần Ngựa trắng là biểu trưng
của mặt trời, được tiếp nhận từ văn hoá Ấn Độ, phía bắc có đền Quán Thánh thờ Huyền Thiên
Trấn Vũ có nguồn gốc từ văn hoá Trung Hoa có tài trừ ma quỷ.
Bên trong phòng thành chia làm hai phần lồng nhau là Hoàng thành và khu dân cư ngăn
cách bởi bức tường xây gạch, mở bốn cửa về bổn phía mang các tên nhằm cầu phúc cho dân tộc
: cửa Tường Phù ở phía đông, cửa Quảng Phúc ở phía tây, cửa Đại Hưng ở phía nam và cửa
Diệu Đức ở phía bắc. Trong Hoàng thành, ngay lần xây dựng đầu đã có trung tâm là điện Càn
Nguyên làm nơi vua coi chầu, hai bên phải trái có các điện Tập Hiền và Giảng Võ là nơi làm
việc của vua. Phía sau lưng điện Long An và Long Thụy làm chỗ nhà vua nghỉ ngơi, hai bên
phải trái có điện Nguyệt Minh và điện Nhật Quang. Phía sau là các cung Thủy Hoa và Long
Thụy để cung nữ ở. Năm 1029 làm lại điện Càn
Nguyên và bị sét đánh, đổi là điện Thiên An, hai bên phải trải có điện Diên Phúc và Tuyên
Đức, phía đông có điện Văn Minh và phía tây có điện Quảng Vũ, hai bên có gác chuông để dân
kêu việc thì đánh. Trước thềm rồng có lầu Chính Dương ở trên điện Phụng Thiên để báo giờ
giấc.

Đằng sau xây điện Trường Xuân, bên trên có lầu Long Đồ để ngắm cảnh. Giữa điện Thiên
An và điện Trường Xuân lại dựng điện Thiên Khánh để vua nghe chính sự. Đợt xây dựng năm
1203 xây một loạt cung điện ở phía tây tẩm điện, có cả ao nuôi cá dưỡng ngư nước thông với
sông. Lẩn bổ sung này, các cung điện được 'chạm trổ trang sức khéo léo, công trình thổ mộc
đẹp đẽ xưa chưa từng thấy (Việt sử lược) Trong Hoàng thành còn có đài Chúng Tiên lợp ngói
vàng và ngói bạc, cỏ chùa Hưng Thiên với quả chuông bằng 310 lạng vàng, chùa Vạn Tuế,
chùa Chân Giáo và nhiều hồ ao, vườn ngự để vừa tôn cảnh trí vừa diều hòa khí hậu, đảm bảo
môi trường xanh, sạch, đẹp.
Ngoài Hoàng thành là nơi sinh hoạt của đủ các tầng lớp xã hội, về cơ bản cũng quy hoạch
theo 4 phía. Phía bắc có hồ Dâm Đàm (hồ Tây) là thắng cảnh nồi tiếng với đền Đồng Cổ tổ
chức hội Thề hàng năm, đền Quán Thánh, cung Tử Hoa để công chúa cùng các cung nữ trồng
dâu nuôi tằm, có các làng hoa Nhật Chiêu, Nghi Tàm, Quảng Bá cung cấp hoa cho kinh thành.
Phía nam có phủ đệ của các thái tử, hoàng tử và quan lại, doanh trại của quân đội, Văn Miếu và
trường Quốc Tử Giám, chùa Thắng Nghiêm với lầu Thiên Phật và quả chuông bằng 800 lạng
bạc, đàn Xã Tắc đã cầu được mùa và đàn Hoàn Khâu để tế giao, có trường bắn để đua ngựa,
bắn cung và tập võ. Phía đông là nơi buôn bán nhộn nhịp, có hồ Lục Thuỷ với tháp Báo Thiên
là đài chiến thắng, sông Hóng thường mơ hội đua thuyền. Phía tây là khu nông nghiệp, có 13
trại mới được khai thác, nhiều dinh thự trên những gò đồi, các vua Lý thường tổ chức lễ mừng
sinh nhật ở đây.
12
Kinh thành Thăng Long khi xây dựng đã bám theo thuyết phong thuỷ, coi sông Tô Lịch là
con rồng vươn mình từ sông Nhuệ, ngoi lên sông Hồng đón ánh dương và nhận nước, cái rốn
là núi Nùng tập trung khí thiêng, có chân đạp vào hồ Trúc Bạch và hồ Gia Ngư.
Trong Hoàng thành các cung điện đều hướng tâm vào nơi vua coi chầu, phân bố cân đối hai
bên. Ngoài Hoàng thành, mỗi hạng dân (sĩ - nông - công - thương) có một khu vực hoạt động
riêng, khu nào cũng đan xen nhiều thắng cảnh và di tích, nhiều sinh hoạt văn hóa của triều đình.
2. Kiến trúc tôn giáo
Kiến trúc Phật giáo thời Lý được thư tịch nói đến nhiều và một số nơi còn để lại dấu tích
chùa tháp, mà tháp mới là công trình trung tâm.
a) Tháp Phật

Tháp thời Lý là đền thờ Phật giáo, trong lòng có pho tượng Phật như tháp Phật Tích, tháp
Chương Sơn, tháp Tường Long Riêng tháp chùa Báo Thiên với tên Đại thắng Tư Thiên lại
mang tư cách đài chiến thắng báo công với trời.
Tháp vốn từ kiến trúc trải rộng diễn biến thành kiến trúc cao tầng bình diện vuông, tầng
dưới các cửa có tượng Kim Cương đứng trấn giữ. Các tầng càng lên cao càng thu nhỏ dần, theo
những hình tháp in trên gạch và tháp thời Trần thì chiều cao tháp thường bằng chu vi chân tháp.
Một số tháp đã khai quật có cạnh chân dài tử âm đến hơn 19m, như thế tháp có thể cao từ hơn
30m đến hơn 70m, phù hợp với tháp chùa Báo Thiên được sử cũ ghi là cao vài mười trrợng và
văn học xây dựng thành hình tượng cột trụ chống trời.
Nền móng tháp phải vững, xây tường dầy và dật cấp, trong nền trộn đất sét với sỏi đá. Các
tháp thờ Phật thường có tầng lẻ biểu thị sự phát triển, dấu tích hiện vật và thư tịch cho biết
thường là 5- 7- 9 thậm chí 13 tầng ; riêng tháp dài Chiến thắng có số tầng chẵn (12 hay 30
tầng ?) lại biểu thị sự ổn định. Vật liệu xây tháp rất phong phú, tùy tháp mà thuần gạch, thuần
đá hoặc xen kẽ gạch với đá, cả đồng nứa. có cả tháp gốm men. Mặt ngoài tháp được khắc rạch,
những hình rồng, vòng sáng Đức Phật. Những bộ phận nhô ra được gắn tượng người chim, và
kết thúc đỉnh tháp có tượng người tiên bưng mâm ngọc. Những cây tháp này hoà vào thiên
nhiên mà vẫn nổi trội, là điểm tựa tâm linh của mọi người.
b) Chùa
Thờ -Lý dựng nhiều chùa nhưng không ngôi nào còn đến nay, một số ít chỉ để lại nền móng
(như các chùa Phật Tích, Vĩnh phúc, chùa Dạm ở Bắc Ninh, chùa Bà Tấm ở Hà Nội, chùa
Hương Lãng ở Hưng Y án, chùa Long Đọi ở Hà Nam ), số khác chỉ sót ít di vật (như chùa
Chèo ở Bắc Giang, chùa Kim Hoàng và chùa Thầy ở Hà Tây, chùa Sùng Nghiêm Diên Thánh ở
Thanh Hóa), chùa Một Cột (Hà Nội) đến thời Nguyễn đã làm lại thu nhỏ rất nhiều, chỉ có thể
biết qua thư tịch và ý đồ kiểu thức kiến trúc. Nhà Lý chia các chùa trong nước làm ba loại là
Đại - Trung và Tiểu danh lam, dựa trên cơ sơ số lượng và số người giúp việc nhà chùa ; song
dưới góc độ nghệ thuật có thể chia làm bốn loại :
- Chùa dựng trên một cột : sử cũ cho hay Thăng Long có "Lầu chuông một cột, sáu cạnh,
hình hoa sen, trong điện Linh Quang ; chùa Linh Xứng (Thanh Hóa) có tòa sen trồi lên mặt
nước, trong có "Tượng Ngũ Trí Như Lai sắc vàng rực rỡ". Đặc biệt chùa Một Cột tức Diên Hựu
tự được bia và sử cũ miêu tả: chùa được dựng giữa hai lần hồ, có hành lang bao quanh và cầu

cong đi vào, riêng cây cột đã cao tới mười trượng chạm đủ ngàn cánh sen. Đỉnh cột dựng ngôi
chùa mang hình bông sen là "y theo mưu mới, lại dựa vào dấu tích xưa". Dấu tích xưa là kiểu
nhà mái tròn khắc trên trống đồng Đông Sơn, là cây hương dựng trên đầu trụ, là cái chòi trên
cành cây Trên cơ sở đó đã sáng tạo theo mưu mới là giấc mơ của vua Lý Thái Tông được
Quan âm dắt lên đài sen. Truyền rằng riêng cây cột đá đã cao hơn 30m, vậy ngôi chùa trên đó
phải lớn và toàn cảnh rất rộng.
- Chùa kiêm hành cung : loại chùa này gắn với hoàng gia, thường được nhà vua ghé thăm,
để lên chùa, tổ chức cùng quần thần đối cảnh làm thơ. Được xây ở nơi thắng cảnh, gắn với núi
sông ngoạn mục, chiếm cả vạt núi, đồng thời cũng hay có tháp Phật để trải rộng lại vươn cao.
Hình điêu khắc ở những chùa này phổ biến là rồng để vừa gợi nguồn nước vừa tượng trưng cho
vua. Tiêu biểu là các chùa Phật Tích, Tường Long, Long Đọi, Chương Sơn.
13
-Chùa gắn với cả quý tộc và dân làng : Các bà Hoàng thường tham gia đóng góp, có thể
dựng ở sườn núi (như chùa Vĩnh Phúc, chùa Tĩnh Lự ở Bắc Ninh) nhưng phổ biến là ở cánh bãi
đầu làng (như chùa Bà Tấm ở Hà Nội, chùa Hương Lãng ở Hưng Yên), mặt bằng khá rộng,
điêu khắc không có hình rồng, thường có tượng con sấu trên thành bậc cửa và sư tử đội tòa sen
mà dân gian gọi là "ông Sấm" gần với việc cầu đảo cần cho nông nghiệp lúa nước.
- Chùa làng : dựng ở vùng quê hẻo xóm núi ít người qua lại (như chùa Chèo ở Bắc Giang,
chùa Kim Hoàng ở Hà Tây) quy mô nhỏ, dấu vết còn lại hiếm hoi, không được thư tịch đề cập.
Có thể lúc đầu chỉ là thảo am hay mái đá. Đôi khi có sự tham gia của quý tộc nhưng ở miền núi
khuất nẻo.
Kiến trúc chùa thời Lý tuy không còn, song thư tịch đương thời đôi khi có miêu tả, chẳng
hạn bia chùa Sùng Nghiêm Diên Thánh cho biết : cầu nhà cong cong như cầu vồng nhô la sau
cơn mưa tạnh, mái đắp uyên ương xập xoè múa lượn trong gió, nóc nhà uốn như chim trĩ xòe
cánh, hình phạm trên đầu như phượng múa lại chầu, mái cong lấp lánh dưới nắng và hiên quanh
co trước gió, hành lang bao quanh tường vách sạch bụi Lại sắm chiếu giường cho khách lỡ
dường nghỉ trọ, còn xây bếp núc giúp người phương tiện. Thực là cảnh chùa ngăn nắp, tượng
Phật trang nghiêm. Kết hợp dấu tích còn lại với thư tịch, ta thấy chùa tháp thời Lý có quy mô
lớn, được xây dựng ở nơi cảnh trí đẹp, kết hợp thắng cảnh với danh lam tạo ra một tổng thể kiến
trúc sơn thuỷ hữu tình bố cục cân đối, hòa nhập với môi trường để hài hòa với tự nhiên và nâng

quy mô lên nhiều lần. Những công trình này gắn với quý tộc cũng gắn với toàn dân, cầu chúc
hoàng đồ củng cố và nhân dân an lạc.
III - NGHỆ THUẬT ĐIÊU KHẮC
Bia chùa Phật Tích cho biết tại đây năm 1057 vua Lý Thánh Tông dựng cây tháp cao ngàn
trượng, trong tháp có pho tượng Phật bằng đá thếp vàng cao 6 thước, trước thềm bày mười con
thú cũng bằng đá. Một số chùa thời Lý cũng có bia đề cập tới tượng tròn và chạm khắc trang trí.
Tập hợp những điêu khắc hiện còn, có thể phân thành hai loại là tượng tròn và chạm nổi.
1. Tượng tròn
Tượng tròn thời Lý hiện còn có tượng Phật, Kim Cương, người chim và tượng thú. Mỗi loại
còn được vài pho.
a) Tượng Phật Thế Tôn
Các chùa Phật Tích, Ngô Xá (Chương sơn) và Kim Hoàng đều chỉ để lại mỗi chùa một pho
tượng Phật. Các chùa Thầy, chùa Chèo và chùa Sùng Nghiêm Diên Thánh không còn tượng
nhưng còn bệ tượng và toà sen thích hợp với một pho tượng Phật ngồi trên. Các chùa Một cột,
Long Đọi, Linh Xứng được văn bia xác nhận có tượng Phật.
Tượng Phật chùa Phật Tích vốn được gọi là đức Thế Tôn ở thế ngồi thiền cao lm85 (tương
đương 6 thước thời Lý). Phần bệ không còn nguyên và đã làm lại tòa sen cao thêm 0m84 nữa,
vốn xưa ở trong lòng tháp và được thếp vàng. Đã từ lâu phần sơn thếp bong hết để lộ đầy đủ
phần lõi được chạm rất cẩn thận và hoàn chỉnh. Tượng được bố cục theo khối nón vững vàng,
ngồi thiền khuỳnh hai đầu gối, lưng thẳng đứng, mặt hơi cúi xuống, do đó từ trên cao có sự giao
cảm với các Phật tử đang chiêm bái.
Toàn thân tượng khuôn trong đường viền khép kín, nhưng do mảng khối óng chuốt nên cứ
chập chờn - nhất là khi được chiếu sáng. Tượng mang vẻ đẹp quý phái của phụ nữ Việt Nam.
Mặt trái xoan, cồ cao 3 ngấn, thân hình dong dỏng. mình mỏng. Đính đầu có nhục kháo nhô
cao, tóc xoăn, tai dài là những quý tướng. Đôi mắt đăm chiêu khép hờ, cặp lông mày thanh
cong giao nhau, mũi dọc dừa thanh tú, miệng chúm chím với nụ cười tế nhị, các ngón tay thon
thả. Tấm áo dài óng ả có đường gân cuộn xoáy ở bả vai phải, rồi lượn theo các nếp áo như trôi
chảy vào không gian, chỉ đọng lại ở thân mình vì bị “vướng”.
Tượng được tạo bằng những mảng khối óng mượt, đường nét minh triết, từng chi tiết tao
nhã và trí tuệ. Tất cả toát lên vẻ đẹp cổ điển về một tâm hồn từ bi, vị tha. Khối tượng tĩnh lặng,

trang nghiêm nhưng được đặt trên toà sen nửa khối cầu lại tạo ấn tượng chao đảo. Tòa sen này
làm lại ở thời sau, hơi nhỏ so với khuỳnh 'chân ngồi thiền. Đối chiếu với bệ tượng các chùa
khác cùng thời thì dưới tòa sen còn thiếu khối tượng sư tử hay đôi lân chầu ngọc. Phần dưới
14
cùng là bệ bát giác khối nón gồm nửa dưới là những lớp sáng vừa dàn ra lại vừa vươn lên, từng
đợt mênh mông vô tận, nửa trên là hai tầng bậc cấp thu vào, có mặt nằm chạm hoa dây như cúc
cuống hoa có người bé tí leo trèo, còn mặt đứng chạm rồng rắn thoăn thoắt đuổi nhau.
Ngược với khối tượng trơn, phần bệ phủ kín hoa văn với kĩ thuật tỉ mỉ, chính xác như chạm
vàng bạc.
Chùa Ngô Xá ở chân núi cũng có pho tượng Phật đưa từ phế tích tháp Chương Sơn ở đỉnh
núi xuống, lớn bằng người thực, cấu tạo chung giống như tượng chùa Phật Tích, nhưng khuôn
mặt thực hơn với người Việt (lông mày không giao nhau, mũi hơi gãy, mắt hơi xếch, tai không
chảy). Tượng Phật chùa Kim Hoàng bị mất đầu, thân hình có thô hơn tượng Phật Tích một chút
nhưng về tổng quát lại rất gần gũi.
b) Tượng Kim Cương
Thư tịch nói rõ bốn cửa tháp chùa Báo Thiên có bốn cặp tượng Kim Cương trấn giữ. Tượng
Kim Cương chùa Phật Tích được đưa về Bảo Tàng Lịch sử Việt Nam. Tượng Kim Cương chùa
Long Đọi còn 6 pho gắn vào tường chùa, là tượng tròn nhưng sau lưng gắn liền vào đá tấm.
Tượng to bằng người thực, đẹp khoẻ mạnh, dáng ung dung cương nghị, khuôn mặt đôn hậu, là
võ tướng nhưng không ở các thế võ, cơ bắp thả lỏng, đứng nghiêm chống kiếm trước bụng, trên
y phục được chạm những bông hoa nhiều cánh xoè nở gây cảm giác toàn thân tượng như phập
phồng thở.
Tấm đá nền sau tượng, ở diềm đứng chạm các ô tròn hoa sen to và nối với nhau bằng hình
người bé tí trong ô tròn nhỏ.
c) Tượng người chim
Trong phế tích các tháp Phật Tích, Long Đọi và Chương Sơn đã tìm được một số tượng
người chim vốn xưa đậu trên những đấu chạc dưới các tầng mái. Đây là nhân vật thần thoại,
nửa trên là người nhưng ngoài đôi tay còn thêm đôi cánh, nửa dưới hoàn toàn là chim. Ở Long
Đọi, người chim đánh chũm chọe, còn ở Phật Tích có người chim đánh trống cơm, có người
chim gẩy đàn nguyệt. Là nhân vật thần thoại, song từng phần lại rất thực, hoạt động nghệ thuật

sôi nổi nét mặt tập trung vào âm thanh của những nhạc cụ đang biểu diễn, đôi cánh cũng như vỗ
theo và những túm lông đuôi uốn lượn bay lên mềm mại: Có thể xem đây là những nhạc công
thiên thần.
d) Tượng thú
Nếu ở bệ tượng Phật thường có tượng sư tử đội tòa sen mà dân gian gọi là “ông Sấm”, thì ở
thềm tầng bậc thứ 2 chùa Phật Tích có 5 cặp tượng thú dàn thành một hàng ngang hai bên cửa
đối nhau.
Ông Sấm ở chùa Bà Tấm chi có phần đầu, hai con đội chung một tòa sen, ở thế nằm cao
1m, rộng lm36, còn ở chùa Hương Lãng ( Hưng Yên) chỉ có một con chạm cả phần đuôi, dài
2m30 còn phần đầu như ở chùa Bà Tấm. Hình dáng là con sư tử phu phục đội tòa sen, trán có
chữ Vương là chúa rừng xanh.
Ngoài những lông xù cuộn xoáy, dọc chân và quanh mép còn có hàng hoa văn dấu hỏi tựa
nhau, quanh miệng có những bông hoa nhiều cánh, phần đuôi được chạm trang trí rất kỹ, có lẽ
do sư tử gầm như tiếng sấm, lại cũng do ước vọng cầu mưa nên dân địa phương gọi sư tử là
"ông Sấm”.
Còn 5 cặp tượng thú chùa Phật Tích, từ giữa toà ra là sư tử - voi - trâu - tê giác - ngựa, tất
cả đều to bằng trâu ngựa thực và đều nằm trên toà sen, là những con vật thiêng của thế giới nhà
Phật.
Tượng và bệ liền khối đá. Trang trí phần bệ đáng chú ý hơn cả là con vật thần thoại gần
giống như người nhưng đuôi lại uốn lượn như mình rồng, chạm tinh tế, thống nhất phong cách
nghệ thuật Lý. Song phần tượng, cả 5 loại thú đều là những con vật thực, từ con vật rất thân
thuộc (trâu) đến con vật hầu như không có ở Việt Nam (sư tử) nhưng đều được chạm rất thực,
khối hình to mập, dáng khoẻ chắc, có phần xa với phong cách. Lý mà đến thời Trần mới phát
triển.
15
2. Chạm khắc trang trí
Trong điêu khắc Lý đặc biệt phải kể đến mảng chạm nổi trên đá với sự tinh khéo như chạm
đàng, bạc. Ở đây nổi lên một số đề tài là rồng, nhạc công, vũ nữ và hoa lá.
a) Hình rồng rắn
Có một số con rồng rất lớn, thân duỗi ra dài vài mét (như ở cột đá chùa Đạm, đế bia chùa

Long Đọi và chùa Chương Sơn, trong ao rồng chùa Phật Tích), song phần lớn là những con
rồng nhỏ dài vài mươi phân nằm trong một đồ án gọn xinh theo các hình tròn, thoi, chữ nhật, lá
đề, nửa lá đề … nhưng luôn thống nhất về cấu tạo.
Đầu to với bờm tóc mượt bay, răng nanh cuộn xoắn với môi trên lại có thêm đường viền
thành chiếc mào phập phồng như ngọn lửa, mũi như đoạn vòi co dãn, lông mày cuộn vòng lên
cả hai đầu và cạnh đó là hình trang trí chữ S không bao giờ thiếu vắng, là dấu hiệu về nguồn
nước.
Thân rồng tròn trịa, dài nhỏ, uốn thắt túi thoăn thoắt như chiếc lò xo ẩn tàng sức bật mạnh,
cử thể thu nhỏ về đuôi, nếu không để ý đến chân thì không phân biệt được thân và đuôi, dọc
lưng có đường vây như vây cá và dưới bụng là dãy nếp gấp như bụng rắn để dễ di chuyển.
Rồng có 2 chân trước mọc lệch chỗ và 2 chân sau mọc cùng chỗ, chân sau cùng dài hơn hẳn,
chân nào cũng như múa rất dẻo, mỗi chân có ba ngón với móng cong nhọn sắc như của chim.
Một số người quen gọi là rồng giun, nhưng ngay ở đương thời người xưa đã nhiều lần gọi
là long xà tức rồng rắn, lấy con rắn làm cơ bả n rồi thêm những yếu tố của một số con vật khác
như chim, ngựa và thêm vào một số họa tiết khác, làm cho con vật thần thoại mà thân thuộc như
con vật thực. Nền rồng là mây trời nhưng cũng có khi là hoa lá. Trong cấu tạo, con rồng có cả
yếu tố âm và dương, nó lưỡng cư và lưỡng tính, tuy đã gắn với triều đình, nhưng về bao quát
vẫn là con vật biểu trưng nguồn nước, là chỗ dựa của cư dân nông nghiệp trồng cấy lúa nước,
của cư dân gắn vận mệnh với sông nước, và phần nào cũng nhắc nhở nguồn gốc dân tộc là con
rồng cháu tiên. Hình rồng Lý là hình trang trí đậm chất Việt Nam, có tiếp nhận một số yếu tố
văn hóa Đông Sơn và vãn hoá phương Nam, rất khác rồng Trung Quốc trước và cùng thời với
nó.
b) Nhạc công và vũ nữ
Chùa Phật Tích có một số chân tảng dá kê cột của thời Lý được dùng lại, mặt trên chạm
thành bông sen nở xoè nhiều cánh, còn bốn mặt bên là bốn dàn nhạc giống nhau.
Mỗi mặt chân cột là một băng ngang dài 73cm cao 13cm người xưa tạo ra một khung hình
cách mép gần 1cm, trong đó viền hai bên và phía trên là dải dấu móc tựa lưng nhau như cánh
hoa, còn viền phía dưới là dải sóng hài loại chồng chất như ở bệ tượng Phật, giành ra khoang
giữa dài 70cm cao 9,5 cm để chạm dàn nhạc : chính giữa là một vòng sáng lá đề bên trong có
vài bông hoa như hoa cúc, tất cả được đặt trên một bông sen, hẳn là hình tượng trưng cho đức

Phật.
Hai bên có mười nhạc công chia đôi, dàn thành hàng ngang múa tiến vào vòng sáng, động
tác múa thống nhất nhưng tay lại biểu diễn những nhạc cụ khác nhau, từng cặp từ hai đầu vào
giữa là trống cơm và trống da, đàn nguyệt và nhị, tiêu và sáo, đàn tranh và đàn thập lục, cặp
phách mở và chập. Từng người đều chân thấp chân cao, mình uốn vạn ba khúc , từ búi tóc cao
và cổ chân còn tóat ra những dải lụa bay lượn nhịp nhàng, phục trang đẹp gọn làm nổi các
đường lượn của thân thể tròn lẳn.
Bức chạm đông người mà không che khuất nhau, ai cũng ở chính diện với độ lớn bằng
nhau, ở đây như có cả tính dân chủ cộng đồng làng xã.
Đề tài vũ nữ còn được thể hiện ở tay vịn thành bậc cửa tháp Chương Sơn, cả 2 mặt giống
nhau : lớp trên chạm bảy vũ nữ, lớp dưới chạm băng hoa. Băng hoa mặt trong chia ra các ô tam
giác vuông cân để ứng với các đầu bậc thì để trơn, và do đó bức chạm phải để dốc 450 hình
người mới đứng. Băng hình vũ nữ cao 0m27 và dài 2m15, từng hình đều to rõ và dáng chung
như các nhạc công Phật Tích nhưng hai tay đưa lên cao dâng hiến, tay trước cầm cả hoa và lá
sen còn cuộn.
c) Hình hoa lá
16
Trên nhiều mặt phẳng của kiến trúc và của bệ tượng, người xưa thường chạm hoa lá theo
từng băng dài, phần lớn là cúc và sen đan xen nhau. Dây hoa với những lá nhỏ tỏa về hai bên là
chung cho cả hai thứ hoa, uốn lượn bao lấy từng bông hoa tròn. Hoa được cách điệu nhưng có
thể nhận ra sen và cúc, có khi chì là cúc nhưng nhìn ở góc độ khác nhau, đều lớn như nhau, Hai
loại hoa này thường được gán cho hai tính chất thanh cao (sen) và ẩn sĩ (cúc), song trong văn
hóa tâm linh nó còn mang ý nghĩa sâu sắc hơn.
Nhà thơ Trần Nguyên Đán ở thời Trần đã nhận ra ở hoa cúc có khí mạnh và tài năng của
trời đất, nó coi thường cả uy của sương và sự lấn của tuyết.
Cúc còn tượng trưng cho mặt trời để đôi rồng chầu vào, là biểu hiện của khí dương. Còn
sen ở nước, cả trong Phật thoại và triết lý dân gian đều xem là dấu hiệu yếu tố âm, gợi hình mặt
trăng. Hình chạm hai thử hoa này đan xen nhau còn là sự hòa hợp âm dương để tạo phúc cho
cuộc sống cả xã hội, và do đó gắn với cuống hoa thường có hình người bé tí leo trèo sống động.
IV - NGHỆ THUẬT HỘI HỌA

Tranh thời Lý cách ngày nay rất xa, thường vẽ trên tường vách của công trình kiến trúc,
một số tranh độc lập có thể vẽ trên gỗ hoặc giấy, vải nên rất khó bảo quản và bảo dưỡng. Tường
đổ, nhà cháy, nấm mốc, nắng mưa do con người và thời tiết gây ra đã cướp đi tất cả. Tuy
nhiên, qua thư tịch có thể biết chút ít về tranh, và một phần hình vẽ trên gồm có thể cho biết
thêm yếu tố của hội hoạ đương thời.
Thư tịch xưa cho hay các vua Lý "ở trên lầu bốn tầng Tất cả cung điện ở Thăng Long đều
sơn son, cột vẽ rồng, hạc và tiên nữ”. Các chùa lại càng hay dùng tranh vẽ để trang trí và giáo
dục Phật tử. Chùa Phật Tích có "cung sơn điện vẽ san sát trong núi", có "cung Quảng vẽ hoa nhị
hồng”, có “gác cao vẽ sao ngưu và sao đẩu sáng láng”. Nếu những hình vẽ trên chủ yếu đề trang
trí, thì ở một số chùa khác lại mang rõ ý nghĩa giáo dục, chẳng hạn bia chùa Linh Xứng núi
Ngưỡng Sơn (Thanh Hóa) dựng khi khánh thành chùa cho biết : "Quanh tường thêu vẽ dung
nghi đẹp đẽ của cực quả mười phương, cùng với mọi hình tướng biến hóa muôn hình vạn trạng
không sao kể xiết”.
Với nho giáo, Nhà nước ngay khi xây Văn Miếu đã cho vẽ chân dung 72 người học trò
ngoan và giỏi của Khổng Tử để các sĩ tử noi theo. Chữ Hán với bố cục khối vuông, được viết
đẹp cũng là những bức tranh chữ thuộc loại "thư họa”. Thư tịch cho biết vua Lý Nhân Tông
''viết bút lông rất khéo, chữ như rồng múa phượng lượn, phép theo tay ngọc của ngài như chim
loan vòng, chim thước nhảy”. Trong thời gian ở ngôi, nhà vua đã nhiều lần đi thăm các chùa và
viết chữ ban cho để khắc vào bia.
Những hình vẽ trên đều đã mất, nhưng trên gốm men ngọc của thời này còn giữ được một
số hình khắc chìm tức vê bằng vật cứng khi xương gốm mới làm xong, sau đó tô men và nung.
Những hình vẽ này thường chỉ là hoa lá, đôi khi có cả chuồn chuồn, ong, bướm và em bé nửa,
chưa thành bức tranh, nhưng cho thấy các yếu tố hội họa, nó bắt nguồn từ cuộc sống và được
thể hiện một cách hiện thực.
Mặc dù nhà Lý quản lý đất nước sau khi thóat khỏi bắc thuộc đã hơn 70 năm, song hầu như
không được thừa hưởng thành quả mỹ thuật của các triều Ngô - Đinh - Tiền Lê. Nhưng mỹ
thuật Lý vừa xuất hiện đã đạt được vẻ đẹp cổ điển chuẩn mực, nó là biểu hiện của ý thức muốn
xây dựng một quốc gia đàng hoàng có nền văn hóa riêng, nên trên cái nền xã hội thái bình thịnh
trị, được Phật giáo gợi hứng, đã biết sáng tạo trên cơ sở sự hưng khởi của đất nước, khai thác
yếu tố thích hợp từ trong vốn cổ Đông Sơn và qua giao lưu lại tiếp nhận một phần thành quả

của các nền văn hóa láng giềng. Đó là hướng đi đúng, tạo phẩm chất nghệ thuật cao cho mỹ
thuật Lý.
17
Chương V
MỸ THUẬT THỜI TRẦN (1226 - 1400)
I - HOÀN CẢNH XÃ HỘI
Sau hai trăm năm hưng thịnh, vào đầu thế kỷ XIII nhà nước Đại Việt bộc lộ dần những mâu
thuẫn xã hội mà nhà Lý tỏ ra bất lực. Trong khi đó một số quý tộc địa phương mạnh lên muốn
tranh chắp với triều đình. Tập đoàn họ Trần vốn là dân chài ở Hải ấp (Thái Bình) vừa là một thế
lực lớn vừa khôn khéo đã liên minh với triều đình, rồi qua con đường hôn nhân tiến hành một
cuộc đảo chính hòa bình giành chính quyền một cách êm thấm. Chấn chỉnh lại tổ chức để củng
cố chính quyền trung ương vững mạnh, nhà Trần tiếp tục những chính sách tiến bộ của nhà Lý
như khuyến khích khai hoang, đắp đê các dòng sông từ đầu nguồn đến tận ven biển, ổn định
dân cư các làng xa, đăng ký ôn dịch trong nông dân để huấn luyện nhưng thời bình chỉ giữ đội
quân thường trực "cốt tinh" không cốt nhiều" còn giành nhân lực cho sản xuất, đến thời chiến
có thể động viên tối đa. Nông nghiệp ổn định kéo theo kinh tế hàng hóa và giao thông cũng
được phát triển.
Phật giáo vẫn tiếp tục được phát triển mạnh. Ba dòng Thiền với nhưng cách tu khác nhau ở
thời Lý, giờ đây được thống nhất lại thành một Thiền phái Việt Nam là Trúc Lâm thống với chủ
trương "hòa quang đồng trần" tức đem ánh sáng Phật pháp soi tỏ vào khắp cõi trần, trong đó cả
ba vị sáng nghiệp "Trúc Lâm tam tổ" đều là những quý tộc cao cấp nhất của triều đình, những
kiện tướng Nho gia. Với Nho giáo chỉ sau ít năm nắm chính quyền, năm 1232 nhà Trần dã tổ
chức khoa thi Thái học sinh (tương đương thi tiến sĩ sau này). Đội ngũ nho sĩ ngày càng đông,
có lúc họ đã công kích Phật giáo kịch liệt, nhưng cuối đời lại phải thừa nhận sai lầm. Vào
khoảng cuối thời Trần, xã hội khủng hoảng thì họ lại muốn cải cách theo phương Bắc, đã bị các
vua Trần Nghệ Tông và Trần Dụ Tông phê phán kịch liệt.
Trong sự mâu thuẫn tư tưởng trên đây, nhà Trần luôn có sự ứng xử khéo léo, như tổ chức
thi Tam giáo (Phật, Đạo, Nho), trọng thực học hơn từ chương, nhà vua "tu trên ngai vàng" bằng
cách "lấy ý của dân làm ý của vua".
Điều nổi bật ở thời Trần là các võ công. Vào thế kỷ XIII đế chế Mông Cổ trở nên hùng

mạnh muốn làm bá chủ thế giới. Năm 1258 trong khi chừa thay thể được nhà Tống, một cánh
quân của Mông Cổ đã theo đường núi Vân Nam thọc xuống nước ta. Đặc biệt sau năm 1271
Mông Cổ lập ra nhà Nguyên ở Trung Quốc, thêm hai lần nữa xâm lược nước ta vào các năm
1285 và 1287 - 1288. Cả ba lần nhà Trần đều đại thắng, giữ vững độc lập quốc gia và che chắn
cho cả khu vực Đông Nam Á phía sau, tạo nên hào khí Đông A mà chính sứ nhà Nguyên là
Trần Cương Trung (tức Trần Phu) sau khi sang ta được tiếp đón trọng thể lại run sợ "thấy giáo
sắt loé sáng lòng đau khổ, nghe tiếng trống đồng sợ bạc cả đầu". Cũng qua những chiến công
đó, triều đình thấy rõ sức mạnh và vai trò của nhân dân lao động, đã chủ trương "nới sức dân để
làm kế rễ sâu gốc bền", tạo điều kiện cho văn hóa nghệ thuật ở các làng xã phát triển.
Tuy nhiên vào nửa sau thế kỷ XIV, mặc dù các vua Trần rất có ý thức dân tộc, muốn xây
dựng đất nước không thua kém phương Bắc nhưng phải khác phương Bắc, vẫn không tránh
được trí trệ, nhiều trận đói lớn xảy ra (nhất là các năm 1343, 1344, 1354, 1356, 1357, 1379 ),
hàng loạt gia nô bỏ trốn, nông dân nhiều nơi nổi dậy và đã từng tấn công vào tận Thăng Long.
Chiến tranh với Chiêm Thành lại liên tục diễn ra, chỉ từ nửa sau thế kỷ XIV, vài lần nhà Trần
đánh sang Chiêm Thành đều thất bại (1353, 1367, 1377), trong khi đó lại luôn bị Chiêm Thành
tấn công (1371, 1377, 1378, 1380, 1382, 1383 và 1389 - 1390) , thậm chí đã từng chiếm và tàn
phá Thăng Long.
Trong hoàn cảnh phức tạp ấy, nhà Trần tỏ ra bất lực, quý tộc ngoại thích họ Hồ đã xúc tiến
dần âm mưu đảo chính để từ 1400 thì lập vương triều mới. Trong khi chuẩn bị đảo chính, Hồ
Quý Ly đã cho in tiền giấy với nhiều hình vẽ nghệ thuật và xây thành Tây Giai (tức thành nhà
Hồ - Thanh Hoá) với kỹ thuật và nghệ thuật độc đáo, song đều mang danh nghĩa nhà Trần và
tiến hành dưới thời Trần, do đó vẫn thuộc mỹ thuật thời Trần. Nhà Hồ chỉ tồn tại có 7 năm
(1400 - 1407), tuy có thực hiện một vải cải cách xã hội, song phải tập Tung cho hoạt động quân
sự để sẵn sàng đối phó với cuộc xâm lược của nhà Minh, nên hầu như về văn hóa nghệ thuật
chưa làm được gì.
18
II. NGHỆ THUẬT KIẾN TRÚC
1. Kiến trúc cung đình
a) Kinh thành Thăng Long
Vương triều Trần thành lập được tiếp thu toàn bộ gia tài kiến trúc cung đình của triều Lý,

vài năm sau mới phải xây dựng bổ sung. Năm 1230 dựng cung Thánh Từ và Quan Triều, năm
1248 làm cầu Lâm Ba ở chùa Chân Giáo, năm 1253 lập Quốc Học viện và Giảng Võ đường.
Nhưng sau đó quân Mông - Nguyên nhiều lần xâm lược nước ta, đặc biệt trong lần xâm lược
thứ ba 1287 - 1288 đã tàn phá Thăng Long rất nặng nề, đến nỗi sau chiến thắng vua Trần trở về
kinh thành phải ở trong trại lính.
Năm sau, 1289 nhà Trần xây dựng lại Thăng Long, bắt những ai đã hàng giặc phải chở gỗ
đá để chuộc lại. Lần này chắc xây dựng đơn giản nên sử cũ không ghi gì cụ thể. Sứ nhà Nguyên
là Trấn Cương Trung sang ta năm 1293 có tả lại cung điện ở Thăng Long, cơ bản chỉ nói tới tên
các cửa và vài công trình như Tập Hiền điện, Đức Huy điện và Minh Linh các. Phải đến cuối
thể kỷ XIV với sự ăn chơi của triều đình, Thăng Long vào năm 1363 xây thêm điện Lạc Thành,
lầu vườn ngự, xếp núi đá, đào hồ, nuôi chim thú quý , thậm chí chở cả nước mặn về để thả đồi
mồi và cá sấu. Năm 1368 làm hành lang ở cổng thành. Nhưng ngay sau đó, quân Chiêm Thành
tấn công đã đốt phá Thăng Long nặng nề. Năm 1371 kinh thành được xây dựng lại nhưng đơn
giản, do những viên quan nhàn tản trông nom. Thế rồi năm 1397 Hồ Quý Ly lại cho dỡ một số
cung điện ở Thăng Long để lấy vật liệu Chuyển vào Thanh Hoá xây ly cung vả kinh đô mới.
Như vậy kinh thành Thăng Long ở thời Trần không có thể ổn định để phát triển như ở thời
Lý, mà luôn biến động giữa việc xây và phá với xu hướng ngày càng đơn giản.
b) Khu cung điện Thiên Trường
Vùng Tức Mặc (Nam Định) với tính cách là quê hương trực tiếp của nhà Trần, năm 1262
được đổi làm phủ Thiên Trường. Nhà Trần lại đặt thông lệ vua cha nhường ngôi cho thái tử để
làm thái thượng hoàng, dơ đó còn xây thêm một hệ thống cung điện ở quê hương để vua cha
nghỉ ngơi và các vua khi về thăm ; năm 1239 dựng cung Trùng Quang, năm 1262 dựng cung
Trùng Hoa Những cung điện ở Thiên Trường tuy không phải là nơi tiểu đình làm việc, các
vua cũng chỉ dùng như một hành cung mỗi khi về thăm thái thượng hoàng, nhưng ở đây còn có
nhà dạy học và phủ đệ của hoàng gia. Thơ văn đương thời ví nó với cung điện ở đất phát tích
của nhà Hán, là nơi tiên cảnh. Khu vực này về sau trở thành đền thờ các vua Trần, xung quanh
đó đã phát hiện được một số di vật như gạch hoa, ngói chiếu, chén, bát và cả giếng nước cổ.
Cạnh các cung điện, nơi đây có chùa Phổ Minh để phục vụ sinh hoạt tôn giáo của hoàng gia.
c) Thành Tây Giai
Cuối thời Trần, Hồ Quý Ly trong âm mưu đảo chính, năm 1397 đã cho xây thành Tây Giai

ở gần quê mình tận Thanh Hoá, ép triều đình rời đô về đây sau trở thành kinh đô của nhà Hồ
nên nhân dân thường gọi là thành Nhà Hồ. Tòa thành này ở vùng trung du, vòng thành ngoài lợi
dụng sông núi, chỉ đắp đất trồng tre những đoạn nối, tập trung xây dựng cho Hoàng thành. Dấu
tích còn lại là tòa thành hình chữ nhật dài 900m x 700m ứng với bốn hướng nam - bắc - tây
đông, xây bằng đá khối hộp có mặt hở ra ngoài trung bình 2m x 1m, có khối dài 4m x lm3, tạo
thành vách đá thẳng đứng phía ngoài còn phía trong đắp đất thoai thoải. Bao quanh thành có
hào sâu. Chính giữa các mặt thành đều xây cửa cuốn với những khối đá múi cam, tự nó là
những con chêm dùng sức nặng bản thân chèn nhau. Cửa Nam là cửa kính, có ba vòm cổng bề
thế. Các cung điện trong thành không còn, song những khu đất cân đối hai bên đông và tây cho
biết mặt bằng xưa có bố cục đăng đối với những tên gọi còn bảo lưu đến nay. Trên trục đường
Thần đạo nối cửa Nam với cửa Bắc, nay còn hai con rồng thành bậc cửa hồi tưởng lại nhiều nét
của rồng thời Lý. Đào đất trong thành vẫn phát hiện được một số di vật, nhất là loại gạch hoa
thường gặp ở thời Trần.
d-Khu lăng mộ An Sinh
Các vua Đinh Tiên Hoàng và Lê Đại Hành khi mất đều táng ở trong kinh đô Hoa Lư. Từ
thời Lý về sau, với quan điểm "cáo chết quay đầu về núi", các vua khi mất đều đưa về quê: các
19
vua nhà Lý đều táng chung khu Thọ Lăng trong rừng Báng (Bắc Ninh) , các vua Lê sơ táng ở
khu Lam Kinh (Thanh Hoá) trừ trường hợp cá biệt Nhà Trần cũng nằm chung trong xu hướng
trên, song ngoài việc phức tạp của tình hình xã hội còn có chuyện dịch chuyển quê hương.
Vùng Tức Mặc - Nam Định là quê hương trực tiếp ngay khi quý tộc Trần mạnh lên và sáng
lập ra vương triều Trần, còn quê gốc khi mới nhập cư Việt Nam là Quảng Ninh, sau đó tiến sâu
vào đồng bằng đã từng có giai đoạn trung chuyển ở Thái Bình. Vì thế các vua đầu triều Trần
khi mất thường chôn cất ở phủ Long Hưng (nay là Hưng Hà - Thái Bình) mà ngày nay ở vùng
Thái Đường và Thâm động vẫn còn dấu tích. Các vua thuộc nửa sau của triều đại này thì khi
mất đưa về An Sinh – Quảng Ninh chôn cất. Cịn về chiến trang xm lược từ bên ngoài luôn kéo
theo việc tàn phá, chúng đ đào phá lăng miếu nhà Trần, thì cuối thế kỷ XIV lại bị quân Chiêm
Thành bảy lần tấn công. Rút kinh nghiệm thế kỷ trước, sau 4 lần bị quân Chiêm Thành tiến
đánh (1371, 1377, 1378, 1380), năm 1381 nhà Trần dã di chuyển lăng mộ ở Long Hưng về cả
An Sinh. Vì thế, ở An Sinh, chỉ quanh vùng đồi rừng thôn Trại Lốc dã có tới 9 lăng mộ vua

Trần (Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông, Trần Anh Tông, Trần Minh Tông,
Trần Hiến Tông, Trần Dụ Tông, Trần Nghệ Tông và Trần Giản Định). Mở rộng khu An Sinh
còn lăng mộ vua Trần Thuận Tông ở thôn Đạm Thủy. Ngoài ra còn có đền An Sinh mà dân địa
phương quen gọi là đền Sinh thực chất là tẩm thờ chung của vua Trần. Đường trục của các lăng
kéo dài về đằng trước (cơ bản là thuộc hướng nam) đều quy tụ về tẩm thờ đền Sinh, như vậy bố
cục toàn cảnh là theo hình rẻ quạt tạo sự đồng quy.
Lăng các vua từ thời Lý về trước đều nhỏ bé và đơn giản, chỉ là một nấm mồ hay một gò
đất, thì lăng mộ các vua Trần khá lớn, mỗi lăng chiếm một quả đồi, tuy thế còn rất đơn giản
không có tường, giới hạn khuôn viên chỉ rải sỏi cuội, tất cả đến thời Nguyễn mới được dựng bia
mộ chí, một số lăng có cửa vào được đánh dấu bằng đôi tượng sấu hay rồng làm thành bậc cửa.
Về bố cục, điển hình là lăng vua Trần Anh Tông được gọi là Thái Lăng ở trên đồi Táng quỷ:
Lăng có ba lớp lồng nhau đều gần vuông, lớp ngoài cùng cạnh dài 61 m. Mặt trước lăng hướng
nam, ở cả ba lớp đều có cửa thành bậc chạm rồng, trong đó ở lớp giữa cửa có 3 lối đi liền nhau
với bốn thành bậc. Cùng ở lớp giữa còn có cửa phụ ở hai bên, thành bậc chạm sấu. Trung tâm
của lăng là nấm mộ. Như vậy bố cục mặt bằng ở đây vừa cân đối hau bên vừa quy tụ vào tâm.
Cả tám con rồng tuy đều không còn nguyên vẹn, song vẫn nhận ra sự đồng dạng với rồng Trần
ở thành nhà Hồ và các nơi khác: là tượng tròn, thân mình mập khỏe, khúc uốn đều đặn, bờm
mượt uốn sóng trên lưng, vẫn còn chiếc mào lửa nhưng đã có sừng. Lăng vua Trần Hiến Tông
còn gọi là lăng Ao Bèo không có tượng rồng và sấu, nhưng có các tượng quan hầu (2), hổ (2),
dê (2), ngựa, voi, trâu, chó. Do mặt bằng bị phá nên các tượng bị xáo trộn và vỡ nát hầu hết, chỉ
còn ít tượng tương đối nguyên vẹn: quan hầu, trâu, chó. Có lẽ xa xưa được xếp thành hai hàng
đối nhau ở hai bên sân đường Thành đạo.
Riêng với vua Trần Nhân Tông là trường hợp ngoại lệ. Sau khi nhường ngôi để thực hiện
chí nguyện tu hành, ngài trở thành Tổ thứ nhất phái Trúc Lâm, nơi tu chính và đã mất ở đó là
am Ngoại Vân ở trên núi cao thuộc An Sinh. Khi ngài mất, đệ tử đã hỏa táng và chia sá lỵ ra
táng ở nhiều nơi, trong đó có tháp mộ Ngọa Vân được xây từ đầu thế kỷ XIV trước khi nhà
Trần chủ trương xây lăng mộ An Sinh.
2. Kiến trúc tôn giáo
a) Tháp Phật
Kiến trúc chính ở thời Trần vẫn là chùa tháp. Tháp chùa sớm nhất còn đến nay là tháp Phổ

Minh và tháp Bình Sơn – Chùa Phổ Minh (Nam Định) tương truyền có từ thời Lý, năm 1262
được làm lại ở cạnh cung điện Thiên Trường, là chùa của hoàng gia, có quy mô khá lớn, nay
còn có một số dấu tích của thời Trần là các tượng rồng và tượng sấu thành bậc, là bộ cánh cửa
chạm rồng … Các thời Mạc, Lê Trung Hưng và Nguyễn đều tiếp tục tu bổ và để lại dấu tích đến
nay.
Dân địa phương quen gọi là chùa Tháp, vì kiến trúc chính của chùa là cây tháp Phật dựng ở
trước sân chùa 14 tầng (nhưng 3 tầng trên cùng xây lại ở đầu thể kỷ XX, nên số tầng thực có thể
hơn kém một chút) cao hơn 21 m, bình diện vuông, cạnh chân 5m2, đế và tầng 1 bằng đá xanh,
còn các tầng trên bằng gạch in rõ năm sản xuất là Hưng Long 13 tức 1305. Vòng quanh đế tháp
được chạm thành một đài sen, lòng sân tháp lại trũng xuống khiển cây tháp như mọc lên từ một
bông sen. Các tầng mái nhô ra và có đao cong vênh lên, dứt khoát và nhẹ nhàng. Chính giữa các
20
mặt tầng đều có vòm cửa, trong đó chỉ cửa ở tầng 1 là trổ vào tận lòng tháp rỗng với trần chạm
đôi rồng trong vòng tròn. Phần đá khắc rạch hoa lá và sóng nước, mây trời; phần gạch đã trát
kín, song vốn xưa được chạm rồng với màu đỏ tươi.
Xung quanh tháp có nhiều cây cổ thụ vừa hòa quyện vừa tôn vinh cây tháp. (Tháp Phổ
Minh. Xem phần phụ bản) - Tháp Bình Sơn dựng ở sân trước chùa Vĩnh Khánh (Vĩnh Phúc), bị
mát phần trên còn 11 tầng, cao hơn 15m, bình diện vuông cạnh dài 4m4, lòng rỗng thông lên
tán đinh, tường xây gạch được ốp những tảng đất nung đổ khuôn rồi gia công lại, có nhiều hành
trang trí rồng, cây tháp, sư tử, cặp sừng được xác định thuế cuối chót thế kỷ XIV. Gạch xây
tháp có viên mang dòng chữ "Canh Ngọ, Linh Sơn tháp", cho biết tên tháp là Linh Sơn, dựng
năm Canh Ngọ han ứng với năm 1396. Toàn bộ cây tháp đỏ au, khi ánh sáng chiều vào như
phát quang. Các tảng đất nung vốn làm khuôn cả một mặt tầng tháp, sau đó cắt có khi vào hình
trang trí, khi nung do co ngót không đều, được ghép bằng mộng cá chì, lại làm cho cây tháp
như có sự rung động. Ngoài hai cây tháp trên, còn có một số tháp thờ tráng men mang phong
cách thời Trần. Tất cả đều xác định tháp cao gấp 4 cạnh lần, tức bằng chu vi đáy tháp.
b) Chùa làng
Vào cuối thời Trần, xã hội có nhiều biến động - nhất là chiến tranh với Chiêm Thành và
khởi nghĩa nông dân, đã nảy sunh trong nhân dân tâm lý dựa vào Thần quyền và do đó chùa
làng dược xây dựng nhiều. Những chùa Thái Lạc (Hưng Yên), Bối Khê (Hà Tây), Dâu (Bắc

Ninh) mặc đù được xây dựng bổ sung nhiều vào thời Lê trung hưng và thời Nguyễn, song vẫn
nhận ra tòa Thượng điện với bộ khung gỗ là thuộc phong cách nghệ thuật thời Trần. Những
chùa này hoặc nằm trong hệ thống chùa Tứ Pháp (Dâu, Thái Lạc ) hoặc kết hợp thờ Phật với
thờ Thần của địa phương mà dân tôn lảm đức Thánh (Bối Khê). Các tòa Thượng điện nảy đều
xây trên nền cao vượt hẳn trên mật sân chừng 1m, bình diện gần như vuông, gồm 1 gian chính
và 2 gian đốc, do đó ngoài mái trước và mái sau còn 2 mái phụ ở hai bên, bốn góc mái có các
hoa đao vút cong tạo cho toàn cảnh như bông sen nở xoè. Nền cao nhưng mái lại lan xuống
thấp nên chắc chắn mà vẫn nhẹ nhàng. Bốn xung quanh nay bưng ván nhưng vốn xưa thông
thoáng, từ ngoài nhìn thấy thức kiến trúc dân tộc là bộ khung gỗ ăn mộng nhau chắc chắn rồi
cùng dồn sức nặng qua các cột xuống nền.
Trong bộ khung nhà, quan trọng là hai vì nóc gian giữa, cấu tạo gồm câu đầu đè lên đầu hai
cột cái, thông qua cái đấu vuông thót đáy, phía trên đỡ hai trụ chống nâng một con giường cong
vồng lên gọi là con cung (hay con lợn vì dáng béo mập), lưng con cung đỡ xà nóc thông qua
đấu và dép hoành. Khoang giữa hai trụ ở dưới con cưng được lắp ván hình lá đề. Do các bộ
phận gỗ đều lực lưỡng, to khỏe, toàn bộ vì nóc đặc, nên để xóa đi cảm giác nậng nể, ngoài việc
tạo dáng con cung và đấu, người xưa còn viện cầu đến nghệ thuật chạm khắc trang trí : tạo cho
trụ chống có hình phỗng quỳ trên những đợt sóng, đội tòa sen nâng trụ đỡ hòanh hay ít ra cũng
là một trụ hoa ; còn tấm ván lá đề dược chạm thành vòng sáng nhọn đầu, bên trong là hai tiên
nữ dâng hoa hay đôi phượng ngậm hoa hoặc đôi rồng chầu hào quang đức Phật. Nhiều bộ phận
khác trong kiến trúc, từ những cổn ở trong nhà đến đầu bẩy ngoài hiên cũng được chạm nhạc
công, vũ nữ, hoa dây, rồng, chim Nhờ đó kiến trúc mang đậm tính điêu khắc, gợi một thế giới
trang nhã.
III - NGHỆ THUẬT ĐIÊU KHẮC
1. Tượng tròn
Phật giáo thời Trần rất phát triển, nhiều Nho thần phải ganh tị, nhưng cho tới nay chưa tìm
được pho tượng nào trong phật diện. Có thể tượng bị phá qua nhiều lần chiến tranh, tượng gỗ
không vượt được thời gian, và người xưa còn thờ tranh nữa. Nếu ở chùa chỉ còn tượng rồng và
sấu thì ở lăng mộ ngoại tượng như ở chùa, còn có tượng người và thú rất đẹp.
a) Tương quan hầu, trâu, chó lăng Trần Hiến Tông
Lăng vua Trần Hiến Tông có thể là lăng vua Trần đầu tiên được dựng ở An Sinh (ngoại trừ

tháp mộ vua Trần Nhân Tông ở am Ngọa Vân, các vua khác từ Trần Thái Tông đến Trần Minh
Tông đầu có dấu tích lăng mộ ở phủ Long Hưng - Thái Bình, năm 1381 mới chuyển về An
Sinh) . Ông lên ngôi mới 10 tuổi, 23 tuổi đã mất ( 329 - 1341) , việc triều chính đều do thượng
21
hoàng Minh Tông điều hành, và hẳn cũng chỉ đạo việc xây lăng. Lăng này rất rộng, dài 111 m
rộng 71m, khu trung tâm dài rộng đều trên 19m, do bị xáo trộn nên tượng mất gần hết, một ít
tượng còn lại tuy không nguyên nhưng đẹp, đều bằng đá liền khối với bệ. Có hai tượng quan
hầu đều gẫy đầu song đã tìm và chắp lại được một pho. Tượng cao 1m3, đứng chắp tay thước
ngực cầm hộp sớ. Đầu đội mũ như khăn, áo dài đến gót chân, chân đi hài. Mặt và thân đều hơi
dài, các nếp áo chảy càng tăng vẻ trang nghiêm, dáng cung kính, tạo hình hiện thực. Toàn thể
đứng trên một đế vuông thấp.
- Con trâu ở thể nằm co gấp các chân vào trong lòng, còn dài lm3 và cao 0m56, nằm trên bệ
chữ nhật, đầu nhô ra ngoài và cúi xuống, đuôi to chúc thẳng gắn vào góc bệ, khối đóng kín với
đường viền rõ ràng. Hình thực thà, không cần đến các chi tiết trang trí, tiếc là sừng và tai bị sứt.
Dáng chung có vẻ mệt mỏi và chậm chạp.
- Con chó cũng ở thế nằm thu chân vào trong lòng, đầu quay lại gác mõm lên hai chân
trước, cả đuôi cũng lượn vòng vào lòng. Thân mình thon thả, dáng nhanh nhẹn, nằm yên tĩnh
mà như nghe ngóng và sẵn sàng bật dậy, các mảng khối tròn lẳn, cấu trúc vững chãi, toàn thể
đóng kín, bố cục chặt chẽ. Tượng lớn bằng chó thực, dài 0m56 rộng 0m47 và cao 0m25.
b) Tượng hổ lăng Trần Thủ Độ
Trần Thủ Độ là người thiết lập và là trụ cột của vương triều Trần trong mấy chục năm đầu,
có công đầu trong cuộc kháng chiến chống Mông năm 1258, năm 1264 mất được xây lăng ở
huyện Ngự Thiên nay lả huyện Hưng Hà tỉnh Thái Bình. Theo Lê Quý Đôn, khu lăng rộng đến
2 mẫu có hổ đá chim đá và bình phong bằng đá. Dân địa phương cho biết trước kia ở bốn
phương có các tượng thanh long - bạch hổ - huyền vũ - chu tước mà họ gọi là dần - sàng - nong
- nia, nhưng về sau chỉ còn bạch hổ tức ông dần, đã được đưa về Bảo tàng Lịch sử.
Tượng hổ ở thể nằm, dài 1m43 cao 0m75 rộng 0m64, lớn, như hổ thực, gắn liền khối đá với
phần bệ. Hổ nằm hơi nghiêng người, các chân gấp đưa về trước, cả cái đuôi cũng dài lượn về
trước để gắn tất cả thành một khối. Đầu nghển cao như đung đưa bờm phủ rũ xuống gáy rất
mượt, các cơ bắp trên toàn thân nổi lên óng mượt. Để tăng chất khoẻ chắc, nghệ sĩ đã tạo một

dường gân dọc sống lưng, và nhấn mạnh cái đuôi thành khối tiết diện vuông, góc cạnh rõ ràng.
Con vật có tư thế ung dung, đĩnh đạc, dáng thảnh thơi mà tiềm ẩn một sức mạnh phi
thường.
Các tượng trâu, chó, hổ đều ở trong các lăng vua và quý tộc, nhưng không con nào ở tư thế
chầu hầu, chẳng những nằm nghỉ thanh thản mà dáng rất tự nhiên như đang trong cuộc sống
thực, nó mở đầu cho việc đưa tượng thú vào lăng mộ nhưng bình dị, phần lớn là những con vật
thông thường trong gia đình nông dân (trâu, chó) mà sang giai đoạn sau không được vào lăng
nữa.
2. Chạm khắc trang trí
Chạm khắc chủ yếu để trang trí kiến trúc, làm cho mặt tháp đỡ trơ, các vì nóc và mảng cồn
đỡ nặng nề, song một số bức chạm có chủ đề và bố cục độc lập lại là những tác phẩm hoàn
chỉnh.
a) Điêu khắc chùa Thái Lạc
Chùa Thái Lạc có tên chữ là Pháp Vân tự trong nhóm chùa 'Tư Pháp thuộc Hưng yên, dù đã
được dựng thêm một số nhà cửa vào các thời Mạc, Lê trung hưng và Nguyễn, song trong nhà
Thượng điện đã dùng lại khá nhiều bức cồn gỗ thời Trần diễn tả các nhạc công, người chim và
rồng.
Những bức cồn này đều chạm hai mặt, tất cả có 8 bức to (90cm x 90cm) , 8 bức nhỏ (50cm
x 30cm) , 4 bức lá đề vì nóc, ngoài ra còn 12 hình phỗng.
- Bốn bức lá đề ở giữa vì nóc, nơi cao chót, thiểu ánh sáng nhưng thừa khói hương, tạo một
không gian huyền diệu để các hình chạm hoạt động. Toàn bộ lá đề được đặt trên mặt bằng
ngang chạm hoa dây bò lan trên sóng nước. Xung quanh lá đề được viền một vòng ánh sáng
theo kiểu cánh sen xếp cách điệu, gợi một thế giới nhà phật linh thiêng. Bên trong có hai người
chim đứng đối nhau, mỗi người trên một bông sen, đều giang rộng xải cánh, phần trên là tiên nữ
22
thành kính dâng chung một bình hoa. Nền của bức chạm là những dây hoa và tua lụa quấn quít
nhau, nó hòa cùng khói hương cứ dẫn ác nhân vật bay lên cào dần.
- Vẫn đề tài trên còn được thể hiện ở những bức cốn trên xà nách, trong vùng ánh sáng thật
đơn giản và cũng gần đời, gần người xem hơn. Ở đồ án chữ nhật nằm chạm cặp đôi còn ở đồ
án chữ nhật đứng chạm một người, họ đứng trong mây hoặc giữa mây vẫn có cả bông sen,

khung hình được giới hạn bằng diềm lá sồi ở trên và băng móc duỗi ở dưới, được mở về hai
phía, gây hiệu quả chuyển động ngang.
- Về đề tài nhạc công có ba bức, đều chạm từng đôi đang cưỡi chim, biểu diễn các nhạc cụ
đàn tì bà và đàn nguyệt, đàn thập lục và sáo, nhị và phách, bố cục tương tự những bức người
chim đôi. Ở đây hình chim nhìn nghiêng còn hình người nhìn chính diện, mặt đăm chiêu như
lắng đọng âm thanh nhạc khúc.
Một số bức to chạm rồng đôi và bức nhỏ chạm rồng đơn theo bố cục một nửa của bức to.
Những con rồng này uốn khúc mềm dẻo như rồng thời Lý, song thân mập tròn, các chi tiết mào,
tai, sừng, mũi tùy con mà có sự chú ý khác nhau, đều đưa tay đỡ vòng sáng nhọn gồm cặp
sừng và ngọn lửa trên bông sen.
- Hình phỗng được chạm ở mặt, trụ đỡ tạo hình hài hước với dáng quỳ trên sóng nước, đưa
tay lên dỡ tòa sen, mình mặc váy nhưng đeo vòng tua, mảng khối căng bụ, toàn thể khuôn trong
mặt trụ cao 0m47 rộng 0m35.
b- Chữ Phật bia chùa Hàn
Chùa Hàn còn gọi theo tên thôn là chùa Thị Đức có tấm bia dựng năm Khai Hựu 3 (1331),
cao lm5 rộng 0m85 do một con rùa dội. Mặt trước bia là hình chạm chữ phật, như một bức
tranh thư họa. Viền bia ở diềm dưới là băng to chạm sóng, diềm hai bên và phía trên là băng
hẹp hình rồng đuổi nhau, trán bia chạm vòng hào quang tỏa tia sáng xuổng các bông hoa. Cả
mặt bia rộng chạm một chữ Phật là một đại tự ở trên một nét ngang to . Chữ phật như được viết
bằng bút lông nét rất linh hoạt, còn cả xơ bút, nét xổ mạnh, nét uốn duyên dáng. Chữ phật gốc
là Buddha biểu thị sự giác ngộ, gợi thế giới niết bàn. Hai góc dưới còn có hình quỷ đội vạc dầu
vả hạc đi dưới lá phướn, như nêu ra hai thế giới gắn với các hành vi ác và thiện của người đời.
Mặt bia chùa Hàn gợi nhớ năm 1071 Lý Thánh Tông ngự
viết chữ Phật dài 1 trượng 6 thước (khoảng 5m) rồi cho khắc vào bia đá để ở núi Tiên Du.
c) Chạm trang trí bệ đá hoa sen
Bệ đá khối hộp ho a sen là loại hiện vật lớn dài bằng cả chiều rộng gian nhà, rất phổ biến ở
thời Trần với niên đại tuyệt đối thường thuộc những năm 70 - 80 của thế kỷ XIV, được văn bia
ghi là ''Phật thạch bàn'' tức bàn đá thờ phật, luôn được tạo dáng theo ba phần là toà sen mặt bệ,
thần và chân bệ. Phần thân ngoài bốn con chim thần chạm nổi khối cao như tượng ở các góc,
còn chia ra nhiều ô chạm rồng, một số bệ còn chạm dê ngậm cành hoa,- hổ, sư tử, cây cảnh hoa

lá Những hình này được chạm nổi hoặc khắc chìm với thủ pháp nhanh, dứt khoát nên rất
hoạt, chân chất, đậm chất thẩm mỹ dân gian.
IV - NGHỆ THUẬT HỘI HỌA
Hội họa với tính chất là tranh nghệ thuật, do chất liệu dễ hư hỏng (giấy, vải, gỗ, tường )
nên thời gian không giữ lại được tác phẩm nào của thời Trần. Song qua thư tịch có thể thấy sự
phát triển nhất định, và gián tiếp còn thấy một số hình vẽ chơi trên gạch, và hình vẽ trang trí
trên gốm.
Về tranh chân dung, nếu bộ tranh 72 người học trò ngoan và giỏi của Khổng Tử vẽ năm
1253 khi lập Quốc Học viện, để thờ, hoàn toàn chỉ mang tính tượng trưng, vì cách quá xa cả về
không gian và thời gian, thì thời Trần lại có nhiều tranh trực tiếp vẽ người đương thời. Năm
1289 tổng kết ba lần kháng chiến chống Mông Nguyên, những ngươi có nhiều công xung
phong lên trước, phá được trận tuyến giặc, lập được nhiều chiến công thì được vẽ hình và
chép chuyện vào sách "Trung hưng thực lục". Những chân dung này được vẽ bằng cả trách
nhiệm và tình cảm, hẳn đã đạt được vẻ đẹp sống và giống. Tiếp đó, một số quan lại có phẩm
hạnh tốt như Trần Bang Cẩn, Bùi Mộc Đạc cũng được nhà vua cho vẽ tranh và ban tặng. Năm
1394 thượng hoàng Trần Nghệ Tông cho vẽ bộ tranh Tứ Phụ tức bốn người tài đức đã giúp vua
23
lúc nhỏ ở các thời trước thuộc cả Trung Hoa và Việt Nam (Tô Hiến Thành), để ban cho Hồ
Quý Ly với lời dặn hãy theo gương những người này, thì rõ ràng tranh chân dung ngoài phần
đẹp nghệ thuật còn có ý nghĩa giáo dục rất lớn.
Thư tịch còn nói tới một số tranh phong cảnh, thường có kèm theo thơ đề. Chẳng hạn tranh
Con hạc vừa bay vừa ngoảnh lại hay tranh Bầy cá con chầu cá gáy được xem là "diệu bút". Một
số bình phong và quạt giấy cũng được vẽ tranh phong cảnh. Thậm chí theo Trần Cương Trung
là sứ nhà Nguyên sang ta năm 1293 thì cờ nhà Trần có vẽ "các hình ngôi sao, thiên thần và quỷ
dữ". Năm 1396 Hồ Quý Ly cho in tiền giấy các loại với hình vẽ rồng, phượng, lân, rùa và mây,
sóng, rong thì mỗi đồng tiền được xem là một bức tranh đơn giản. Do số lượng tiền in rất lớn,
hẳn là khắc ván in theo kỹ thuật đồ hoạ, và phải tinh khéo, vậy mà vẫn có người trốn vào núi
làm tiền giả, chứng tỏ khả năng vẽ tranh của nhân dân lúc đó rất khá.
Ngày nay còn một số hình vẽ trên gốm. Chẳng hạn các hình mặt người, voi, chim, cây tháp,
con thuyền, hoa lá vẽ trên một số viên gạch xây tháp Bình Sơn, hẳn là hình vẽ chơi của thợ

đóng gạch, chỉ bằng vật cứng và nhanh khi gạch mới ra khuôn, nét thoáng hoạt, đôi khi đạt
mức "tinh khôn". Đặc biệt thời Trần có nhiều gom men ngà vàng vẽ hoa văn rồi tô nâu, hình vẽ
chiến sĩ tập luyện, hổ đuổi voi, chim, các hoa lá sen đều được diễn tả bằng mảng lớn, tô nâu
đồng sắc độ, đường viền rõ ràng, rất ít chi tiết, hình thực mà cách điệu với những điểm nhấn
nên rất động, có giá trị như bức tranh thực sự.
Mỹ thuật thời Trần phát triển trực tiếp từ mỹ thuật thời Lý, song hoàn cảnh đất nước phải
đương đầu với những cuộc xâm lược tàn khốc từ hai phía Bắc và Nam, sức mạnh của nhân dân
được khẳng định lòng tự hào và tự tôn dân tộc được đề cao, thì mỹ thuật cũng tìm được vẻ đẹp
ở sự khoẻ mạnh, mập mạp và theo xu lương hiện thực. Triều Đình nhà Trần từ chỗ gắn bó với
nhân dân để tạo sức mạnh giữ nước, thì thẩm mỹ thời đại cũng thiên về sự dung dị, đôn hậu,
chất phác, chuyển từ sự ổn định cổ điển sang sự linh hoạt, hứng khởi khi sáng tác: Mặt khác
cũng do sau chiến thắng Mông Nguyên, nhà Trần có quan hệ rộng rãi với călc nước, nện đã tiếp
thu một số yếu tố của nghệ thuật Trung Hoa và Ấn Độ thông qua Chăm, nhưng đã Việt hóa để
làm giàu nghệ thuật dân tộc. Nền mỹ thuật ấy đến cuối thời Trần đã tỏa vào các làng quê, tạo cơ
sở cho dòng chảy dân gian, nhưng mới ở mức ương mầm để chờ thời cơ thuận lợi sẽ phát triển.
24
Chương VI
MỸ THUẬT THỜl LÊ SƠ (1427 - l527)
1. HOÀN CẢNH XÃ HỘI
Nhà Lê và Trần xây dựng văn hóa dân tộc bằng con đường phát huy truyền thống vẻ vang
làm đà đi lên, nhưng đến nửa sau thế kỷ XIV vốn cũ đã cạn thì rơi vào hoang mang. Nho sĩ và
quý tộc Trần muốn cải cách nhưng chưa tìm được lối ra, thì Hồ Quý Ly đảo chính lập ra vương
triều Hồ đảm nhiệm trọng trách lịch sử. Cải cách của nhà Hồ chưa được xã hội đồng tình, sức
sống mới nhen nhóm thì nước ta bị quân Minh xâm lược. Nhà Hồ đã chiến đấu anh dũng,
nhưng do sai lầm chính trị nên mau chóng thất bại từ năm đầu 1407.
Quân Minh trong 20 năm xâm chiếm nước ta đã thi hành chính sách bóc lột tàn bạo, đặc
biệt là triệt để hủy diệt văn hóa Đại Việt, rồi cưỡng bức du nhập văn hoá Hán để âm mưu đồng
hóa trước mắt và cả lâu dài nữa.
Năm 1427 cuộc khởi nghĩa Lam Sơn thắng lợi, nhà Hậu Lê thành lập nhưng vừa đi trọn
một trăm năm thì mất vai trò lịch sử, để rồi cuối thế kỷ XVI mới tái lập gọi là Lê trung hưng.

Giai đoạn đầu 1427 - l527 được gọi là Lê sơ rất đề cao ý thức dân tộc. Thay mặt vua Lê Thái
Tổ, đầu năm 1428 Nguyễn Trãi công bố bài Đại cáo bình Ngô là ý chí của dân tộc quyết chống
mọi xâm lược phương Bắc để giành lại những quyền lợi đã mất, tự hào về nền văn hiến Đại
Việt coi thường "thằng nhãi ranh Tuyên Đức", nhờ đó mà quyết đánh và đã chiến thắng.
Độc lập rồi, nhả nước đã tập trung khôi phục sản xuất như cấm bỏ đất hoang, bắt dân lưu
tán về quê nhận ruộng cày cấy, tổ chức khai hoang lập dồn điền, đắp thêm đê, nạo vét sông,
xây dựng công trình thủy lợi lớn, giảm quân đội từ 35 vạn người xuống còn có 10 vạn, lại chia
ra 5 phiên chỉ giữ 1 phiên (2 vạn người) làm quân thường trực, còn tất cả cho về quê để tăng
cường sức sản xuất. Do đó nông nghiệp đã nhanh chóng phát triển, kéo theo thủ công và thương
nghiệp, tạo nên một xã hội thái bình thịnh trị như ca dao xác nhận.
Đời vua Thái Tổ, Thái Tông
Con dắt, con bế, con bồng, con mang
Bò đen húc lẫn bò vàng
Rút kinh nghiệm Hồ Quý Ly in tiền giấy thất bại, trong tình hình đồng khan hiếm, vua Lê
Thái Tổ cũng định in tiền giấy đã hỏi ý kiến nhân dân nhưng không được đồng tình nên thôi,
còn khuyên các con không nên tu tạo tổn kém. Nhà nước phong kiến trung ương tập quyền còn
phong kiến hóa cơ cấu làng xã, xây dựng hệ thống chính quyền xuống tận cơ sở, lập ra một tiểu
triều đình ở nông thôn.
Nhưng chính quyền nhà nước Lê sơ tổ chức theo mô hình phong kiến Trung Hoa, đã đề cao
Nho giáo lên địa vị độc tôn, trở thành khuôn mẫu về mọi mật, đào tạo Nho sĩ hàng loạt Riêng
đời Hồng Đức đào tạo được số trạng nguyên nước lại hạn chế phật giáo, giảm sư tăng, cấm
dựng chùa mới, hạn chế sửa chùa cũ; còn coi một số hoạt động hồn nhiên của trai gái như hát,
múa Lý liên (rí ren) dắt tay nhau hoặc ngoắc chân chéo cổ là dâm bôn và cấm. Tình hình trên
làm cho văn hóa dân gian đã có cơ sở ở cuối thời Trần bị cản trở không phát triển được, mà chỉ
văn hóa chính thống vẫn mang đậm chất dân gian. Nhà vua được đề cao là bậc chí tôn, song
ngay sau dinh cao Hồng Đức đã rơi nhanh vào khủng hoảng, các vua Lê Uy Mục và Lê Tương
Dực bị dân coi là "vua Quỷ" và "vua Lợn". Điều đó đã báo hiệu việc chuyển quyền lực sang
một vương triều thân dân, gắn với dân hơn.
II. NGHỆ THUẬT KIẾN TRÚC
1. Kiến trúc cung đình

a) Kinh thành Đồng Kinh
Đầu năm 1428 vua Lê Thái Tổ chính thức lên ngôi hoàng đế, đóng đô ở Thăng Long nhưng
gọi là Đông Đô, đến năm 1430 thì đổi làm Đông Kinh. Quy mô kinh thành vẫn giới hạn bằng
đường đê bao quanh của thời Lý - Trần, năm 1477 đắp lại cho kiên cố hơn. Bố cục vẫn gồm hai
phần ngăn cách nhau bởi bức tường xây gọi là Long Thành, các năm 1467, 1474, 1490 và 1499
25

×