ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ TP.HCM
KHOA KIẾN TRÚC MỸ THUẬT
LỊCH SỬ MỸ THUẬT VIỆT NAM
.
GVHD: Nguyễn Đỗ Đông
Câu 1: Các di chỉ khảo cổ học tuy đã chứng minh có nghệ thuật đồ
đá Việt Nam, nhưng không để lại các tác phẩm nghệ thuật độc lập và
những tác phẩm dạng “cự thạch”. Chưa có tranh hang động lớn và đẹp
như Altamira (Tây Ban Nha) hoặc những tranh khắc cảnh nhảy múa ở
hang Addaura, cũng không có những tượng vật người hay tượng bò
rừng sinh động như ở Madeleine (Pháp, từ 15000 đến 10000 năm TCN)
… Phản ánh điều gì trong mỹ cảm của người Việt cổ.
Trong tất cả các nền nghệ thuật Đông Nam Á, có lẽ nghệ thuật Việt
Nam được phương Tây biết đên ít nhất và ít được nghiên cứu thất, trừ trong
giai đoạn cổ xưa nhất (văn minh Đông Sơn). Có lẽ tại vì lâu lắm rồi, người
ta chỉ xem kỹ những tác phẩm với một nhận định không thuật lợi và các sản
phẩm mỹ nghệ thường rất hấp dẫn bởi sự dụng công điêu luyện hơn là tính
sâu sắc của nó; hơn nữa, người ta nghĩ rằng chỉ tìm thấy ở nghệ thuật Việt
Nam một dạng thức thứ yếu của nghệ thuật Trung Hoa.
Có cần nhấn mạnh là những nhận định trên là vừa sai vừa không xác
đáng không? Ngoài một hệ thống ảnh tượng học đôi khi còn là điều lờ mờ,
một sự quá đáng nào đó trong điệu bộ và tính màu mè đôi khi quá thực, các
tác phẩm thường cho thấy một cảm thức của một kiểu quan sát và một cách
diễn tả độc chất, không kể đến các tính chất của một nền kiến trúc hoàn toàn
hài hòa với các phong cảnh. Cũng cần lưu ý thêm bằng những công trình
mới đây, xuất bản bằng tiếng Việt, vẫn không đến được với phần đông người
đọc nước ngoài.
Thoạt tiên, khó kết nối sản phẩm tối cổ với nghệ thuật của thời kỳ lịch
sử vì có một điều rất quan trọng là xứ sở này có thời kỳ dài lâu đã bị người
Trung Quốc chiếm đóng (43 trước công nguyên – năm 905); do đó, nó đã
gạt bỏ những liên hệ và sự liên tục rất thực vì sự thôn tính không bóp nghẹt
được tính độc đáo trong nghệ thuật cũng như tinh thần dân tộc. Sự bành
trướng của nghệ thuật Việt Nam ở phần phía Đông bán đảo trực tiếp độc lập
với tiến trình lịch sử và được diễn tả bằng sự gạt bỏ dần dần các truyền
Đồ đá 30.000 năm tuổi, Hà Giang
thống Ấn Độ hóa của Champa và của Campuchia phía Nam bằng sự Trung
Hoa hóa của Việt Nam
Do đó những công trình nghệ thuật cổ xưa có rất nhiều ở phần thuộc
phương Bắc. Các vết tích cổ xưa nhất về kiến trúc đã cho thấy tầm quan
trọng có tính chất truyền thống về việc xây dựng gằng gạch và bằng vật liệu
nhẹ. Chúng được biết đến do các chứng cớ vẽ trên trống đồng. Các mẫu thu
nhỏ tìm thấy ở các lăng mộ (thế kỷ thứ III-V) cho thấy sự hiện hữu của một
nền kiến trúc rất tinh vi và thường mang tính chất phòng ngự.
Có thể thấy các di chỉ cổ của Việt Nam chưa nhiều, chưa có nhiều
những dấu ấn đặc biệt tinh vi và quần tụ lớn mạnh như các nước trên thế
giới( hang Altamira- Tây Ban Nha hay Madeleine- Pháp) , nhưng nó vẫn
mang bản sắc riêng và nói lên quá trình phát triển của dân tộc sinh sống tại
vùng đất nhất định.
Đồ đá cách nay 3000-4000 năm
Câu 2: Phân tích vẻ đẹp và giá trị hoa văn trên trống đồng.
Trống đồng là linh khí tượng
trung cho uy quyền, thủ lĩnh của Nhà Nước sơ khai.
Trống đồng được công nhận là sản phẩm của 2.500 năm về
trước, hoa văn trên trống đồng chính là thông điệp của
người Việt thời Hùng Vương gửi cho các thế hệ sau. Cho
dù hoa văn trên trống đồng của từng giai đoạn, từng địa
điểm cư trú đều được ghi khắc theo một hệ thống và một
phong cách ổn định, hoàn chỉnh. Trống đồng được xem là biểu tượng rực rỡ
nhất và hoàn mĩ nhất ở văn minh thời đại các Vua Hùng.
Với những giá trị trải qua chặng đường dài phát triển hàng nghìn năm. Điều
đó được chứng minh trên hàng chục chiếc trống đồng: Ngọc Lũ, Hoàng Hạ,
Cổ Loa, Sông Đà, Miếu Môn Mỗi chiếc trống đều được khắc ghi thể hiện
khá đầy đủ về một giai đoạn của xã hội đương thời.
Những hoa văn trang trí trên trống đồng chính là mô hình vũ trụ theo
quan niệm của người Việt cổ. Có thể hình dung cái mô hình vũ trụ ấy, là
gồm "ba tầng, bốn thế giới"."Tầng trên", tương ứng với phần mà thời sau gọi
là "mặt trống đồng", gồm hai thế giới: Trời ("Mường blời") tượng trưng
bằng hình mặt trời tỏa các tia sáng (mà có người gọi bằng tên: "ngôi sao") và
"Mường tất" tượng trưng bằng các cảnh nhà cửa, người, chim, thú (mà
cũng có người gọi là cảnh "hội làng", "hội cầu mùa" vận hành quanh mặt
trời, theo chiều quay ngược kim đồng hồ). "Tầng bên" (cạnh), tương ứng với
phần "tang trống đồng" - vẫn theo cách gọi ở thời sau, là "thế giới nước"
("Mường nác"), tượng trưng bằng các hình thuyền, người chèo thuyền ("bơi
chải"), cá ("giao long"), chim nước ("hậu điểu" ). "Tầng dưới", tương ứng
với phần "thân Trống đồng", là "Cõi âm" ("Mường âm phủ", ở đó, có hình
tượng tổ tiên, với bộ trang phục hình chim - vật tổ). Như vậy, sản phẩm của
việc cụ thể hóa (hình tượng hóa) quan niệm về vũ trụ của người Việt cổ như
thế này, ngay khi mới được tạo tác - cùng lúc với việc xuất hiện các Vua
Hùng đầu tiên - thì đã vừa có tính linh thiêng của việc thu cả đất trời vào
một vật thể, vừa mang cả giá trị của sức lực và quyền uy trần thế, thu vào
cho ai làm ra (đúc được) cái phẩm vật không chỉ diệu kỳ các giá trị trừu
tượng, mà còn chính là nơi hội tụ của khả năng và kỹ thuật - công nghệ: khai
thác quặng mỏ, luyện kim đúc đồng, sáng tạo nghệ thuật (tạo dáng, trang
trí)
Trên mặt trống ở chính giữa là một mặt trời với 14 tia chiếu ra chung
quanh, sau đó là 16 vòng hoa văn. Nội dung các hoa văn phong phú, sinh
động: đó là những người hoá trang hình chim cầm lao, giáo, khèn một giàn
cồng chiêng có người đánh, người giã gạo chày đứng, hình chim bay, nhà
sàn mái hình thuyền có chim, gà đậu trên nóc và người ở bên trong, cảnh
người đang đánh trống đồng. Vòng hoa văn thứ 8 là những con hươu đang
thong thả bước và chim đang bay. Vòng thứ 10 là những con chim mỏ dài,
đuôi dài đang bay và những con chim mỏ ngắn đang đậu. Trên tang trống có
10 vòng hoa văn trong đó có khắc hình những chiếc thuyền cong có sàn có
lái mũi đang chở những người cầm rìu, giáo, cung tên cùng với chó, chim,
trống đồng, bình đồng. Thân trống có 6 khung, hoa văn, mỗi khung là hình
hai người hoá trang thành chim cầm rìu và mộc. Chân trống không trang trí.
Ngôi sao trên mặt trống đồng là biểu trưng cho mặt trời mà tục thờ mặt trời
là một hình thức của đạo sùng bái tự nhiên được phản ảnh rộng rãi trong
phong tục tập quán cổ truyền của người Việt. Những hình người hoá trang
thành chim trên trống đồng mang ý nghĩa tín ngưỡng vật tổ, mà vật tổ đây là
một loài chim. Trong truyền thuyết của người Việt, người Mường có câu
chuyện trăm trứng mang ý nghĩa vật tổ. Cuộc hôn nhân Cha Rồng (Lạc
Long) - Mẹ Tiên (Âu Cơ) phản ánh sự liên kết của hai bộ lạc thờ Rồng và
thờ Chim thần. Theo dõi những hình người khắc trên trống đồng, chúng ta
thấy những nhân vật chiếm vị trí trung tâm trong các sinh hoạt và nghi lễ
Trống đồng và hoa văn trên mặt trống
thường được hoá trang thành chim, họ tự trang sức mình bằng những chiếc
mũ hình chim, hoặc bộ quần áo lông chim, thậm chí những vũ khí, công cụ
sản xuất, mũi thuyền, nóc nhà cũng làm theo hình chim, được trang trí hình
chim, được trang sức lông chim. Hình ảnh người - chim Việt cổ chẳng
những thể hiện một cách có hệ thống trên các trống đồng mà còn thấy trên
nhiều thạp đồng, rìu đồng nữa. Chính loài chim bay, có mào, cổ và chân dài,
có mặt trên hầu khắp các trống Đông Sơn từ chiếc sớm nhất đến chiếc muộn
nhất, giống chim nước gần với loài cò, sếu, vạc ấy là chim vật tổ của người
Việt cổ. Trống đồng Đông Sơn còn cho chúng ta những hình ảnh cụ thể về
trang phục, về nghệ thuật kiến trúc, chạm khắc, trang trí, nghệ thuật ca múa
nhạc của người Việt cổ.
Hoa văn trang trí trên trống đồng phản ánh một quá trình lao động dài từ
thấp đến cao, từ thô sơ lạc hậu đến sự phát triển văn minh rực rỡ mà được
đánh dấu là nền văn minh trống đồng, người Việt lúc đó đã phải trải qua một
quá trình lâu dài. Và cũng chính từ đây quá trình của tư duy, thẩm mỹ và
trình độ nhận thức nhân sinh quan cũng vươn tới một giai đoạn cao hơn, họ -
những người Việt thời Hùng Vương bên cạnh nghề trồng lúa nước họ đã biết
thể hiện bản thân, thể hiện ước vọng của mình, thể hiện sự khát khao vươn
lên, biến những sinh hoạt đời thường của mình trở thành những hình thức
văn hóa – tín ngưỡng mang khí chất và tinh thần một dân tộc.
3. So sánh với mĩ thuật thời Nguyên
Thủy để thấy rõ sự tiến bộ của mĩ thuật thời đại Hùng Vương.
Hoa văn mô phỏng trên trống đồng
Họa tiết mô phỏng trên mặt trống
a. Thời nguyên thủy:
Năm 1960, các nhà khảo cổ học Việt Nam đã tìm thấy di tích núi Đọ
thuộc xã Thiệu Khanh, Huyện Thiệu Hoá, Tỉnh Thanh Hoá. Hàng ngàn khảo
cổ được phát hiện. Mặc dù đó là Mảnh cước, Hạch Đá, các công cụ chặt,
nạo, rìu Được chế tác rất thô sơ và nghèo nàn về loại hình, song nó đã
chứng tỏ rõ sự có mặt làm ăn sinh sống của những người nguyên thuỷ trải
dài trên đất nước Việt Nam của chúng ta. Di chỉ núi Đọ được xếp tương
đuơng với giai đoạn Sen và đầu Asơn thuộc do thời kỳ đồ đá cũ, cách ngày
nay khoảng 30 vạn năm. Mặc dù vậy phải trải qua một thời gian dài chúng ta
mới tìm được một số hình khắc những dấu hiệu đầu tiên của mỹ thuật Việt
Nam thời Nguyên Thuỷ. Trên cơ sở đó đến cuối thời kỳ đồ đá mới, mỹ thuật
đã phát triển hơn một bước nửa so với thời kỳ trước, tuy vậy phải đến thời
kỳ đồ đồng, chúng ta mới tìm được nhiều tác phẩm mỹ thuật thuộc nhiều
loại nghệ thuật tạo hình. Những tác phẩm quý báu là nguồn tư liệu cho các
thế hệ con cháu ngày nay tìm hiểu và học tập vốn tinh hoa của nghệ thuật
truyền thống ông cha ta ngày xưa.
Nếu thời kỳ núi Đọ người nguyên thuỷ dùng đá ba gian để chế tạo công cụ,
thì thời kỳ đồ đá cũ con người lại dùng các đá cuội tìm được ở các bãi sông.
Sau văn hoá Vi Sơn, Người Việt cổ bước vào thời kỳ đồ đá giữa, tương
đương với nền văn hoá Hoà Bình. Những dấu vết về một nền nông nghiệp sơ
khai được tìm thấy ở nhiều nơi. Lao động bằng đá còn tìm được các công cụ,
vũ khí bằng tre, nứa, xương, sừng rất phong phú. Đồ trang sức bằng vỏ sò,
ốc, xương thú. Điều này cho thấy cuộc sống của các bộ lạc người Việt Cổ đã
phát triển thêm một bước.
b. Thời kỳ Hùng Vương:
Làm nghệ thuật tạo hình và những tác phẩm nghệ thuật tạo hình là một
trong những sinh hoạt và thành tựu văn hóa tinh thần, phong phú và đặc sắc
nhất của người thời Hùng Vương.
-Vẽ hình : Nội dung chủ yếu của mảng nghệ thuật vẻ hình xoay quanh
con người (Toàn bộ là nhửng thành viên công xã )giới động vật quần tụ
quanh con người (Chim, nai, hưu, cá …) những sản phẩm bình thường của
con người (Nhà cửa , thuyền bè …)
-Tạc Tượng: Người thời Hùng Vương vừa vẻ hình vừa làm tượng.
Những bức tượng còn để lại đến ngày nay phần lớn là tượng nhỏ. Và chủ
yếu là tượng tròn. Chất liệu để làm tượng là đất nung, đồng thau và đá, nặn
tay, đúc, rèn. Đề tài của tượng vẫn là con người và là con người ở trạng thái
động: Nhảy múa,thôỉ kèn, yêu đương … đó là những nhóm tượng. Một số
tượng khác có thể xem như tượng chân dung và là chân dung phụ nữ .
-Mỹ Thuật Thực Dụng: Mĩ thuật thời Hùng Vương dù là vẽ tranh, tạo
tượng hay mĩ nghệ, đều bắt nguồn từ cuộc sống thực tiển của con người và
trở lại gắn bó trong cuộc sống đó. Nội dung phản ánh của nó những con
người bình dị, gắn bó với cộng đồng và những sinh hoạ bình thường, những
con vật phần lớn hiền hòa, những mẩu đề trang trí dịu dàng, duyên dáng
….nói lên rất rõ ràng đó là mỉ thuật của một xã hội có vai trò rất quan trọng
rất lớn của quần chúng các công xã. Mỹ thuật thời Hùng Vương mang tính
chất trang trí rất rõ.Và do đó đã trở nên rất phổ biến. Mặt khác đó củng là
một nền nghệ thuật phản ánh trung thành về thực tế xã hội và tình cảm tư
tưởng con người mang tính hiện thực cao, phong cách hồn nhiên, trong sáng,
kỷ thuật phát triển với những tỉ lệ chuẩn xác kết cấu hài hòa cân xứng, tất cả
đả nói lên được trình độ thẩm mĩ của người thời Hùng Vương.
Nghiên cứu về những thành tựu thời dại Hùng Vương, chúng ta cảm
thấy tự hào với những thành quả văn hóa mà tổ tiên đã gầy dựng trong một
hoàn cảnh đầy khó khăn. Chính điều đó mà mỗi cá nhân phải biết trân quý,
giử gìn, không để những nguồn văn hóa ngoại lai làm lu mờ những giá
trị tốt đẹp ấy; đồng thơì phải biết chắt lọc những tinh hoa của thế giới để tô
điểm thêm cho nền văn hóa Việt Nam ngày thêm rạng rỡ.
Thời kỳ nguyên thủy
-Thời kỳ khởi đầu của nền văn
minh.
-Các công cụ đơn giản được chế
tác rât thô sơ và nghèo nàn về loại
hình .
-Là Mảnh rước, Hạch Đá, các
công cụ chặt, nạo, rìu
-Đến thời kỳ đồ đồng tìm được
nhiều tác phẩm mỹ thuật thuộc loại
nghệ thuật tạo hình.
Thời Vua Hùng
-Thời kỳ đầu của chế độ nhà nước
-Các tác phẩm tạo hình khá tinh
xảo và đặc sắc.
-Vừa vẽ hình vừa làm tượng, là đất
nung, đồng thau và đá, nặn tay,
đúc, rèn.
- Những sinh hoạ bình thường,
những con vật phần lớn hiền hòa,
những mẩu đề trang trí dịu dàng,
duyên dáng.
Câu 4: Tại sao nhữngnét vẽ, khắc hình người và thú, trên các đồ đồng lại
không xuất hiện trên các đồ gốm? Sự phân biệt này phản ánh điều gì?
Từ sau thời kỳ đồ đá, đồ đồng được người nguyên thủy sử dụng làm dụng cụ
để săn bắt thú rừng nên hoa văn, họa tiết khắc trên những dụng cụ đó cũng phải
mang tính biểu trưng cho sức mạnh và tính hoang dã. Nhưng từ khi đồ gốm ra đời
kéo theo tính thẩm mỹ ngày càng được nâng cao thì những hoa văn vẽ trên những
sản phẩm mỹ nghệ ấy cũng ngày càng được phát triển, ngày càng nhiều những sản
phẩm có tính thẩm mỹ ra đời.
Điều này cũng cho thấy nhận thức về cái đẹp của người nguyên thủy ngày càng
được nâng cao, yếu tố sang trọng càng được chú trọng hơn. Chứng tỏ đời sống tinh
thần ngày cang được cải thiện.Câu 5: Hãy phân tích tình hình xã hội thời Lý, từ
đó nêu bật sự ảnh hưởng của hoàn cảnh xã hội tới sự phát triển của mỹ thuật.
Bối cảnh lịch sử thời Lý:
Mùa xuân năm 1010, một lần từ kinh đô Hoa Lư trở lại thăm quê nhà ở Cổ
Pháp ( Bắc Ninh ), Lý Thái Tổ có ghé qua thành cũ Đại La. Vua thấy đây là vùng
đất ở trung tâm đất nước, đất rộng lại bằng phẳng, dân cư không khổ vì ngập lụt,
muôn vật phong phú tốt tươi. Càng nghĩ, vua càng tin rằng muốn cho con cháu đời
sau xây dựng được cuộc sống ấm no thì phải dời đô từ miền núi chật hẹp Hoa Lư
về vùng đồng bằng rộng lớn và màu mỡ này.
Mùa thu năm ấy, kinh đô được dời ra thành Đại La. Lý Thái Tổ phán truyền đổi tên
thành Đại La thành Thăng Long.
Dời đô ra Thăng Long là một bước ngoặc rất lớn. Nó đánh dấu sự trường thành của
dân tộc Đại Việt. Chúng ta không cần phải sống phòng thủ, phải dựa vào thế hiểm
trở như ở Hoa Lư để đối phó với quân thù. Chúng ta đã đủ lớn mạnh để lập đô ở
nơi có thể đưa nước phát triển đi lên, đưa đất nước trở thành quốc gia độc lập sánh
vai với phương Bắc. Kinh đô Thăng Long quả là cái nôi lập đế nghiệp cho muôn
đời, là nơi để cho sơn hà xã tắc được bền vững muôn đời vậy !
Vào thời Lý, Phật giáo phát triển và được xem là Quốc giáo, là chỗ dựa tinh thần
cho nhân dân, nơi nào có phong cảnh đẹp nơi đó có chùa tháp, chùa được xây khắp
nơi. Triều đình lập ra chế độ công tượng, những thợ giỏi được mời về kinh thành,
đảm nhiệm việc xây dựng, bởi thế, mỹ thuật thời Lý đã đạt đến độ tinh xảo, mang
tình chất nghệ thuật kim hoàn.
Đất nước thống nhất, thanh bình, nông nghiệp đươc mùa, phát triển khá mạnh, sử
cũ ghi nhiều lần được mùa to, lại còn những hiện tượng lạ như mua ra thóc, mua ra
gạo, lúa chín bông, cau chín buồng và chim thú quý xuất hiện liên tục đều biểu
hiện xã hội thái bình thịnh trị. Đời sống nhân dân ấm no nên đời sống tinh thần
càng được nâng cao, tình hình xã hội lúc bấy giờ tạo nên lối sống, văn hóa của
người Việt cổ và chính những quan niệm trong tư duy đã tạo ra những tác phẩm mỹ
thuật như: tượng Phật A Di Đà (ở chùa Phật Tích) cao 1m87 (không tính phần bệ
tượng), làm băằng tượng đá nguyên khối, ngồi thế tọa thiền, tượng được tạc một
cách đăng đối, nguyên tắc ngồi nghiêm trang, mang phong thái hiền hậu. Bên cạnh
đó, hình tượng rồng thời Lý với thân tròn lẳn, khá dài và không có vẩy, uốn khúc
mềm mại và thon dài từ đầu đến chân, rất nhẹ nhàng và thanh thoát. Con Rồng thời
này mang hình dạng của một con rắn, uốn khúc nhỏ dần về đuôi, hình tượng rồng
thể hiện tư duy của con người Đại Việt, khác với rồng Trung Hoa mang hình dạng
rồng thú, mạnh mẽ, thể hiện sức mạnh bành trướng, khác với rồng phương Tây thể
hiện cho sức mạnh của mãnh thú, cái xấu, xuất phát từ nền kinh tế nông nghiệp lúa
nước, hình tượng rồng mang biểu tượng cội nguồn của dân tộc, nguồn nước, biểu
tượng cho cái thiện,… Qua đây, cũng cho thấy được trình độ tay nghề, tư duy sáng
tạo của người nghệ nhân Đại Việt.
Câu 6: Đặc điểm cảu mỹ thuật thời Lý nói chung và đặc điểm kiến trúc, điêu
khắc nói riêng:
1. Đặc điểm chung của mỹ thuật thời Lý
-Năm 1010, Lý Công Uẩn dời đô từ Hoa Lư về Thăng Long.
-Đất nước thống nhất, thanh bình, nông nghiệp được mùa, làng nghề thủ công phát
triển.
-Phật giáo được xem là quốc giáo, là chỗ dựa tinh thần cho nhân dân, được xây
dựng ở thế đất đẹp, nơi nào có thắng cảnh đẹp nơi đó có chùa tháp.
-Lập ra chế độ công tượng, nghệ thuật thời Lý đạt đến độ tinh xảo, mang tính chất
nghệ thuật kim hoàn.
-Nghệ thuật thời Lý ít chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa, chịu ảnh hưởng của
văn hóa Champa. Tiếp thu có chọn lọc văn hóa nước láng giềng, tạo ra được phong
cách độc đáo, sáng tạo, đậm đà bản sắc văn hóa nước Đại Việt.
1. Nghệ thuật kiến trúc.
Trên cơ sở" thức kiến trúc Đông Sơn" đã hoàn chỉnh trong thời Bắc thuộc,
nhân dân ta lại tiếp thu Phật giáo và đi kèm với nó là việc xây dựng chùa tháp. Hẳn
trình độ xây dựng của thợ Việt có tay nghề cao, nên thái thú Tôn Tú đã bắt hơn
nghìn thợ thủ công Giao Chỉ đưa về Bắc để giúp vua Ngô xây dựng kinh đô Kiến
Nghiệp. Ngay khi đất nước giành được độc lập, công việc hàng đầu là phải " an
cư" và cũng để thể hiện diện mạo nhà nước, nên sau khi đã định đô thì phải dựng
đô.
1.1. Kiến trúc thành Thăng Long
Nếu Ngô Vương Quyền mở đầu nên chính thống, để có chỗ làm việc ngay
đã dùng lại kinh đo Cổ Loa vốn xây dựng từ hơn nghìn năm trước; Đinh Tiên
Hoàng thống nhất đất nước xây dựng kinh đô Hoa lư ở gần quê hương có núi sông
hiểm trở, và vua Lê Đại Hành vừa thắng ngoại xâm vẫn cần đến Hoa Lư để thủ thế,
thì vua Lý Thái Tổ với hoài bão xây dựng một quốc gia đàng hoàng, sau khi hỏi ý
kiến và được quần chúng đồng tình, đã quyết định xây dựng kinh đô mới là Thăng
Long.
Kinh thành Thăng Long được khởi dựng từ mùa thu năm 1010 đến mùa
xuân năm 1011 xong cơ bản, về sau được bổ xung vào năm 1029 và 1203. Với dấu
tích hiện còn bờ đê và những đoạn thành cao, nối lại cho vòng thành khép kín dài
trên 20km, được xây dựng ở vị trí trung tâm của đất nước nơi giữa đồng bằng, các
núi sông lớn đều chầu về, dễ dàng liên hệ với cả nước bằng đường bộ hoặc bằng
đường thuỷ, có thể tấn công hay phòng ngự đều thuận lợi, từng được khai thác từ
đầu thời đại đồ đồng và đến thế kỷ X đã trở thành trung tâm kinh tế – văn hoá "
muôn vật cực kỳ giàu tịnh đông vui".
Vòng thành đất đắp trên là giới hạn hoàn bộ kinh thành cũng là phòng thành chống
lụt và ngăn địch từ xa mới tới. Bốn phía có bốn ngôi đền thờ các vị thần bảo hộ
cho kinh thành : phía Nam có đền Kim Liên thờ Cao Sơn đại vương là thần núi,
phía Tây có đền Voi Phục thờ Linh Lang đại vương là thần sông. Các thần núi, thần
sông là linh khí đất nước, và do đó Núi Sông chính là biểu hiện củaTổ Quốc. Phía
Đông có đền Bạch Mã thờ thần Ngựa Trắng là biểu trưng của mặt trời, được tiếp
nhận từ văn hoá ấn Độ, phía Bắc có đền Quán Thánh thờ Huyền Thiên Trần Vũ có
nguồn gốc từ văn hoá Trung Hoa có tài trừ ma quỷ.
Bên trong phòng thành chia làm hai phần lồng nhau là Hoàng thành và khu
dân cư ngăn cách bởi bức tường xây gạch, mở bốn cựa về bốn phía mang các tên
nhằm cầu phúc cho dân tộc : cửa Tường Phù ở phía đông, cửa Quang Phúc ở phía
tây, cửa Đại Hưng ở phía nam và cửa Diệu Đức ở phía bắc. Trong hoành thành,
ngay lần mới xây dựng đầu đã có trung tâm là điện Càn Nguyên làm nơi vua coi
chầu, hai bên phải trái có các điện Tập Hiền và Giảng Võ là nơi làm việc của vua.
Phía sau dựng điện Long An và Long Thuỵ làm chố nhà vua nghỉ ngơi, hai bên
phải trái có điện Nguyệt Minh và điện Nhật Quang.Phía sau là các cung Thuỷ Hoa
và Long Thuỵ.
1.2. Kiến trúc tôn giáo
Kiến trúc Phật giáo thời Lý được thư tịch nói đến nhiều và một số nơi còn để
lại dấu tích chùa tháp, mà tháp mới là công trình trung tâm.
a. Tháp phật
Tháp thời Lý là đền thờ phật giáo, trong lòng có pho tượng Phật như tháp
phật Tích, tháp Chương Sơn, tháp Tường Long Riêng tháp chùa Báo Thiên với
Hoàng thành Thăng Long
tên Đại Thắng Tư Thiêm lại mang tư cách đài chiến thắng báo công với trời.
Tháp vốn từ kiến trúc trải rộng diễn biến thành kiến trúc cao tầng bình diện vuông,
tầng dưới các cửa có tượng Kim Cương đứng trấn giữ. Các tầng càng lên cao càng
thu nhỏ dần, theo những hình tháp in trên gạch và tháp thời Trần thì chiều cao tháp
thường bằng chu vi chân tháp. Một số tháp đã khai quật có cạnh chân dài từ 8m
đến hơn 19m, như thế tháp có thể cao từ hơn 30 m đến hơn 70m, phù hợp với tháp
cảu BảoThiên được sử cũ ghi là cao vài mươi trượng và văn học xây dựng thành
hình tượng cột trụ chống trời. Nền móng tháp phải vững chắc, xây tường dầy và
dất cấp, trong nền trộn đất sét với sỏi đá. Các tháp thờ Phật thường có số tầng lẻ
biểu thị sự phát triển, dấu tích hiện vật và thư tịch cho biết thương là 5 – 7 – 9 thậm
chí 13 tầng, riêng tháp đài Chiến thắng có số tầng chắn ( 12 hay 30 tầng) lại biểu
thị sự ổn định. Vật liệu xây tháp rất phong phú. Mặt ngoài tháp được khắc rạnh,
những hình rồng, vòng sánh đức phật. Những bộ phận nhô ra được gắn tượng
người chim, và kết thúc đỉnh tháp có tượng người tiên bưng mâm ngọc. Những cây
tháp này hoà vào thiên nhiên mà vẫn nổi trội, là điểm tựa tâm linh cảu mọi người.
b. Chùa
Thời Lý dựng nhiều chùa nhưng không ngồi nào còn đến nay, một số ít chỉ
để lại nền móng ( như các chùa phật Tích, Vĩnh Phúc, chùa Dạm ở Bắc Ninh, chùa
Bà Tấm ở Hà Nội, chùa Hương Lãng ở Hưng Yên, chùa Long Đọi ở Hà Nam ),
số khác chỉ sót ít di vật (như chùa Chèo ở Bắc Giang, chùa Kim Hoàng và chùa
Thầy ở Hà Tây, chùa Sùng Nghiêm Diêm Thánh ở Thanh Hoá), chùa Một Cột ( Hà
Nội) đến thời Nguyễn đã làm lại thu nhỏ rất nhiều, chỉ có thể biết qua thư tịch và ý
đồ kiểu thức kiến trúc. Nhà Lý chia các chùa trong nước làm ba loại là Đại – Trung
và Tiểu danh lam, dựa trên cơ sở số ruộng và số người giúp việc nhàchùa, song
dưới góc độ nghệ thuật có thể chia làm bốn loại:
- Chùa dựng trên một cột: Sử cũ cho hay Thăng Long có " Lầu chuông một
cột, sáu cạnh, hình hoa sen " trong điện Linh Quang, chùa Linh Xứng (Thanh Hoá)
có toà sen trối lên mặt nước, trong có tượng Ngũ Trí Như Lai sắc vàng rực rỡ". -
Chùa kiêm hành cung: loại chùa này gắn với hoàng gia, thường được nhà vua ghé
thăm, để lên chùa, tổ chức cùng quân thần đối cảnh làm thơ. Được xây ở nơi thắng
cảnh, gần với núi sông ngoạn mục, chiếm cả vạt núi, đồng thời cũng hay có tháp
phật để trải rộng lại vươn cao.Hình điêu khắc ở những chùa này phổ biến là rồng
để vừa gợi nguồn nước vừa tượng trưng cho vua. Tiêu biểu là các chùa Phật Tích,
Tường long, Long Đọi, Chương Sơn.
- Chùa gắn với cả quý tộc và dân làng : Các bà Hoàng
thương tham gia đóng góp, có thể dựng ở
các sườn núi ( như chùa Vĩnh phúc chùa
Tĩnh Lự ở Bắc Ninh) nhưng phổ biến
là ở cánh bãi đầu làng ( như chùa Bà
Tấm ở Hà Nội, chùa Hương Lãng ở
Hưng Yên), mặt bằng khá rộng, điều
khắc không có hình rồng, thường có
tượng con sấu trên thành bậc cửa và
sư tử đội toà sen mà dân gian gọi là " ông Sấm" gắn liền với việc cầu đảo cần cho
nông nghiệp lứa nước.
- Chùa làng: dựng ở cùng quê hẻo xóm núi ít người qua lại ( như chùa Chèo
ở Bắc Giang, chùa Kim Hoàng ở Hà Tây), quy mô nhỏ, dấu vết còn lại hiếm hoi,
không được thư tịch đề cập. Có thể lúc đầu đây chỉ là thảo am hay mái đá. Đôi khi
có sự tham gia cảu quy tộc nhưng ở miền núi khuất nẻo.
Kết hợp dấu tích còn lại với thư tịch, ta thấy tháp thời Lý có quy mô lớn,
được xây dựng ở nơi cảnh trí đẹp, kết hợp thắng cảnh ở danh lam tạo ra một tổng
thể kiến trúc sơn thuỷ hữu tình bố cục cấn đối, hoà nhập với môi trường để hài hoà
với tự nhiên và nâng quy mô lên nhiều lần. Những công trình này gắn với quý tộc
cũng gắn với toàn dân, cầu chúc hoàng đồ củng cố và nhân dân an lạc.
2. Nghệ thuật điêu khắc
Bia chùa Phân Tích cho biết tại đây năm 1057 vua Lý Thánh Tông dựng cây
tháp cao ngàn trượng trong tháp có pho tượng bằng đá thếp vàng cao 6 thước,
trước thềm bày mười con thú cũng bằng đá. Một số chùa thời Lý cũng có bia đề
cập tới tượng tròn và chạm khắc trang trí.
2.1. Tượng tròn
Tượng tròn thời Lý hiện còn có tượng Phật, Kim Cương người chim và
tượng thú. Mỗi loại còn được vài pho
a. Tượng phật Thế Tôn
Chùa Một Cột
Các chùa Phật Tích, Ngô Xá
( Chương Sơn) và Kim Hoàng đều chỉ để
lại mỗi chùa một pho tượng Phật.
Các chùa Thầy, chùa Chèo và
chùa Sùng Nghiêm Diên Thánh
không còn tượng nhưng còn bệ
tượng và toà sen thích hợp với
một pho tượng Phật ngồi trên.Các
chùa Một Cột, Long Đọi, Linh
Xứng được văn bia xác nhận có
tượng Phật.
Tượng Phật chùa Phật Tích vốn được gọi là đức Thế Tôn ở thế ngồi thiền
cao 1m85 ( tương đương 6 thước thời Lý). Phần bệ không còn nguyên và đã làm
lại toà sen cao thêm 0m84 nữa, vốn xưa ở trong lòng tháp và được thếp vàng. Đã
từ lâu phần sơn thếp bong hết để lộ đầy đủ phần lõi được chạm rất cẩn thận và
hoàn chỉnh. Tượng được bố cục theo khối nón vững vàng, ngồi thiền khuỳnh hai
đầu gối, lưng thẳng đứng, mắt hơp cúi xuống, do đó từ trên cao có sự giao cảm với
các Phật tử đang chiếm bái. Toàn thân tượng khuôn trong đường viền khép kín,
nhưng do mảng khối óng chuốt nên cứ chập chờn – nhất là khi được chiếu sáng.
Tượng mang vẻ đẹp quý phái cảu người phụ nữ Việt Nam. Mặt trái xoan, cổ cao 3
ngấn, thân hình dong dỏng, mình mỏng. Đỉnh đầu có nhục kháo nhô cao, tóc xoăn,
tai dài là những quý tướng. Đôi mắt đăm chiêu khép hở, cặp lông mày thanh cong
giao tế nhị, các ngón tay thon thả. Tấm áo dài óng ả có đường gân cuộn xoáy ở bả
vai phải, rồi lượn theo các nếp áo như trôi chảy vào không gian, chỉ đọng lại ở thân
mình vì bị " vướng".
b. Tượng Kim Cương
Thư tịch nói rõ bốn cựa tháp chùa Báo Thiên có bốn cặp tượng Kim Cương
trấn giữ. Tượng Kim Cương chùa phật Tích dược đưa về Bảo Tàng Lịch Sử Việt
Nam. Tượng Kim Cương chùa Long Đọi còn 6 pho gắn vào tường chùa, là tượng
tròn nhưng sau lưng gắn liền vào đá tấm. Tượng to băng người thực, đẹp khoẻ
mạnh, dáng ung dung cương nghị, khuôn mặt đồn hậu, là võ tướng nhưng không ở
các thế võ, cơ bắp thả lỏng, đứng nghiêm chống kiếm trước bụng, trên y phục được
Tượng phật Thế Tôn
chạm nhưng bông hoa nhiều cánh xoè nở gây cảm giác toàn thân tượng như phập
phồng thở.
c. Tượng người chim
Trong phế tích các tháp Phật Tích, Long Đọi và Chương Sơn đã tìm được
một số tượng người chim vốn xưa đậu trên những đấu chạc dưới các tâng mái. Đây
là nhân vật thần thoại, nửa trên là người nhưng ngoài đôi tay còn thêm đôi cánh,
nửa dưới hoàn toàn là chim. ở Long Đọi, người chim đánh chũm choẹ, còn ở Phật
Tích có người chim đánh trống cơm, có người chim gẩy đàn nguyệt. Là nhân vật
thần thoại song từng phần lại rất thực, hoạt động nghệ thuật sôi nổi, nét mặt tập
trung vào âm thanh cảu những nhạc cụ đang biểu diễn, đôi canh cũng như vỗ theo
và những túm lông đuôi uốn lượn bay lên mềm mại. Có thể xem đây là những nhạc
công thiên thần.
d. Tượng thú
Nếu ở bệ tượng Phật thường có tượng sư tử đội toà sen mà dân gian gọi là "
ông Sấm", thì ở thềm tầng bậc thứ 2 cảu chùa Phật Tích có 5 cặp tượng thú dàn
thành một hành ngang hai bên cửa đối nhau. ông Sấm ở chùa Bà Tấm chỉ có phần
đầu, hai con đội chung một toà sen, ở thế nằm cao 1m, rộng 1m36, còn ở chùa
Hương Lãng (Hưng Yên) chỉ có một con chạm cả phần đuôi, dài 2m30 còn phần
đầu như ở chùa Bà Tấm. Hình dáng là con sư tử phủ phục đội toà sen, trán có chữ
Vương là chúa rừng xanh. Ngoài những lông xù cuộn xoáy, dọc chân và quanh
mép còn có hang hoa văn dấu hỏi tựa nhau, quang miệng có những bông hoa nhiều
cánh, phần đuôi được trang trí rất kỹ, có lẽ do sư tử gầm như tiếng sấm, lại cũng do
ước vọng cần mưa nên địa phương gọi là " ôngSấm"
2.2. Chạm khắc trang trí
Trong điêu khắc Lý đặc biệt phải kể đến mảng chạm nổi trên đá với sự tinh
khéo như chạm vàng, bạc. ở đây nổi lên một số đề tài là rồng, nhạc công, vũ nữ và
hoa lá.
a. Hình rồng rắn
Có một số con rồng rất lớn, thân đuôi ra dài vài mét ( như ở cột đá chùa
Dạm, đế bia chùa Long Đọi và chùa Chương Sơn, trong ao rồng cảu Phật Tích),
song phần lớn là những con rồng nhỏ dài mười phân nằm trong một số đồ án gọn
xinh theo các hình tròn, thoi, chữ nhật, lá đề, nửa lá đề nhưng luôn thống nhất về
cấu tạo : đầu to với bờm tóc mượt bay, răng nanh cuộn xoắn với môi trên lại có
thêm đường viền thành chiếc mào phập phồng như ngọn lửa, mũi như đoạn vòi co
dãn, lông mày cuộn vòng lên cả hai đầu và cạnh đó là hình trang trí chứ S không
bao giờ thiếu vắng, là dấu hiệu về nguồn nước.
Thân rồng tròn trịa, dài nhỏ, uốn thắt túi thoăn thoắt như chiếc lò xo ẩn tàng sức
bật mạnh, cứ thế thu nhỏ về đuôi, nếu không để ý đến chân thì không phân biệt
được thân với đuôi, dọc lưng có đường vây nhưng vảy cá và dưới bụng là dãy nếp
gấp như bụng rắn để dễ di chuyển. Rồng có 2 chân trước mọc lệch chố và2 chân
sau mọc cùng chố, chân sau cũng dài hơn hẳn, chân nào cũng như múa rất dẻo, mỗi
chân có ba ngón với móng cong nhịn sắc như của chim. Một số người quên gọi là
rồng giun, nhưng ngay ở đương thời người xưa đã nhiều lần gọi là long xà tức là
rồng rắn, lấy con rắn làm cơ bản rồi thêm vào một số hoạ tiết khác, làm cho con
vật thần thoại mà thân thuộc như con vật thực. Nền rồng là mây trời nhưng cũng có
khí là hoa lá. Trong cấu tạo, con rồng có cả yếu tố âm và dương, nó lưỡng cư và
lương tĩnh, tuy đã gần với triều đình, nhưng về bao quát vẫn là con vật biểu trưng
nguồn nước, là chố dựa của cư dân nông nghiệp trồng cấy lúa nước, cảu cư dân
gắn vận mệnh với sông nước, và phần nào cũng nhắc nhở nguồn gốc dân tộc và
con rồng cháu tiên. Hình rồng Lý là hình trạng trí đạm chất Việt Nam, có tiếp nhận
mộ số yếu tố văn hoá Đông Sơn và văn hoá phương Nam, rất khác rồng Trung
Quốc trước và cùng thời với nó.
b. Nhạc công và vũ nữ
Chùa Phật Tích có một số chân tảng đá kê cột của thời Lý được dựng lại,
mặt trên chạm thành bông sen nở xoè nhiều cánh, còn bốn mắt bên là bốn dàn nhạc
giống nhau.
Rồng thời Lý
Mỗi mặt chân cột là một băng ngang dài 73cm cao 13cm, người xưa tạo ra một
khung hình cách mép gần 1cm, trong đó viền hai bên và phái trên là dải dấu móc
tựa lưng nhau như cách hoa, còn viền phía dưới là dải song hai loại chồng chất như
ở bệ tượng Phật, giành ra khoang giữa dài 70cm cao 9,5cm để chạm dàn nhạc :
chính giữa là một vòng sáng lá đề bên trong có vài bông hoa như hoa cúc, tất cả
được đặt trên một bông sen, hẳn là hình tượng trưng cho đức Phật. Hai bên có
mười nhạc công chia đôi, dàn thành hàng ngang múa tiến vào vòng sáng, động tác
múa thống nhất nhưng tay lại biểu diễn những nhạc cụ khác nhau, từng cặp từ hai
đầu vào giữa là trống cơm và trống da, đàn nguyệt và nhị, tiêu và sáo, đàn tranh và
đàn thập lục, cặp phách nở và chập.
c. Hình hoa lá
Trên nhiều mặt phẳng cảu kiến trúc và của bệ tượng người xưa thường chạm
hoa lá theo từng băng dài, phần lớp là cúc sen đan xen nhau. Dây hoa với nhữg lá
nhỏ toả về hai bên là chung cho cả hai thứ hoa, uốn lượn bao lấy từng bông hoa
tròn. Hoa được cách điệu nhưng có thể nhận ra sen và cúc, có khi chỉ là hoa cúc
nhưng nhìn góc độ khác nhau, đều lớn như nhau. Hai loại hoa này thường được
gán cho hai tính chất thanh cao ( sen) và ẩn sĩ ( cúc), song trong văn hoá tâm linh
nó còn mang ý nghĩa sâu sắc hơn. Nhà thơ Trần Nguyên Đán ở thời Trần đã nhận
ra ở hoa cúc có khí mạnh và tài năng cảu trời đất, nó coi thường cả uy của sương
và sự lấn củatuyết.
3. Nghệ thuật hội hoạ
Trang thời Lý cách ngày nay rất xa, thường vẽ trên tường vách của công
trình kiến trúc, một số tranh độc lập có thể vẽ trên gỗ hoặc giấy, vải nên rất khó
bảo quản và bảo dưỡng. Tường đổ, nhà cháy, nấm mốc, nắng mưa do con người
và thời tiết gây ra đã cướp đi tất cả. Tuy nhiên, qua thư tịch có thể chút ít về tranh,
và một phần hình vẽ trên gốm có thể cho biết thêm yếu tố hội hoạ đương thời.
Thư tịch xưa cho hay các vua Lý " ở trên lầu bốn tầng Tất cả cung điện ở Thăng
Long đều sơn son, cột vẽ rồng, hạc và tiên nữ". Các chùa lại càng hay dùng tranh
vẽ để trang trí và giáo dục Phật tử. Chùa Phật Tích có " cung sơn điện vẽ san sát
trong núi" có " cung Quảng vẽ hoạ nhi hồng" có " góc cao vẽ sao ngưu và sao đẩu
sáng láng". Nếu những hình vẽ trên chủ yếu để trang trí, thì ở một số chùa khác lại
mang rõ ý nghĩa giáo dục, chẳng hạn bia chùa Linh Xứng núi Ngưỡng Sơn ( Thanh
Hoá).
Câu 7: Đánh giá giá trị của mỹ thuật thời Lý?
Kéo dài 215 năm (1009 - 1225) với 9 đời vua trị vì đất nước, nhà Lý đã đạt
được nhiều thành tựu trên nhiều lĩnh vực, trong đó có mỹ thuật. Mỹ thuật thời
Lý là một kết quả của quá trình sáng tạo đồ sộ và đặc sắc, mang giá trị nghệ
thuật cũng như giá trị lịch sử văn hóa to lớn. Mỹ thuật bao gồm hội họa, điêu
khắc và trang trí. Trong đó trang trí là một mảng quan trọng chi phối và tạo nên
giá trị nghệ thuật cho tất cả các tác phẩm mỹ thuật thời kỳ này. Nói đến trang
trí cũng là nói đến sự sáng tạo công phu và tỉ mỉ, sự phối hợp và sắp xếp…
Những yếu tố này đã được các nghệ nhân thời Lý sáng tạo, sử dụng và có những
đặc điểm, giá trị nghệ thuật to lớn.
Có thể thấy nhiều công trình kiến trúc nổi bật của thời Lý như Hoàng
thành Thăng Long, tiêu biểu cho mỹ thuật cung đình; còn mỹ thuật Phật giáo nổi
trội hơn với chùa Diên Hựu, chùa Phật Tích, Tường Long, Chương Sơn Do
nhiều nguyên nhân, trải qua gần 1.000 năm, hầu hết các di tích do triều Lý xây
dựng không còn tồn tại. Tuy nhiên, những gì còn lại đã khẳng định thành tựu
đặc biệt của mỹ thuật thời kỳ này: qua bia ký ở chùa Linh Xứng và các tài liệu
khác, chùa Diên Hựu được mô tả nguy nga, tráng lệ; các di vật phát lộ trong quá
trình khai quật khảo cổ cho thấy quy mô của các chùa tháp xưa; hay tượng
adiđà khổng lồ ở chùa Phật Tích, không chỉ là một trong số các tác phẩm đẹp
nhất trong nền điêu khắc mỹ thuật cổ của Việt Nam mà mang tầm cỡ quốc tế
Trong số các di vật thời Lý đã được tìm thấy, hầu hết đều có các họa tiết
trang trí hình rồng, cánh sen, lá đề được chạm khắc tinh tế, mềm mại, cho thấy
sự định hình phong cách mỹ thuật và thể hiện đồng nhất trên hệ thống di tích
thời Lý. Đánh giá về mỹ thuật thời kỳ này tại Hội nghị liên ngành về mỹ thuật
thời Lý diễn ra tại Hà Nội, Ts Ngô Văn Doanh (Viện Nghiên cứu Đông Nam Á)
cho rằng: “Mỹ thuật thời Lý vừa là sự tổng kết chặng đường đã qua và mở ra
một thời kỳ mới. Đến thời Lý là điểm chốt, là kết tinh của mỹ thuật 1.000 năm,
từ đầu Công nguyên, qua thời kỳ Bắc thuộc, đến khi giành được độc lập dưới các
triều Ngô, Đinh, tiền Lê. Và cũng đến thời Lý, mỹ thuật mở đầu cho 1.000 năm
sau, đến ngày nay. Không phải ngẫu nhiên mà các nhà khoa học, khi nghiên cứu
mỹ thuật, đều đặt con rồng thời Lý lên đầu, rồi mới đến thời Trần, Lê, Nguyễn.
Mỹ thuật thời Lý đã đạt đến cái đẹp hoàn chỉnh. Tất nhiên, mỗi thời kỳ có phong
cách riêng, nhưng cái đầu tiên của tất cả là từ thời Lý”.
Theo Gs Lê Văn Lan, mỹ thuật thời Lý phát triển mạnh mẽ bởi “chiến lược
phục hưng văn hóa với tất cả những giá trị từ thời Vua Hùng dựng nước”. Mỹ
thuật cổ điển của người Việt ở thời kỳ Đông Sơn, trải qua hàng nghìn năm, cho
đến thời Lý bất thần xuất hiện trở lại khiến nhiều người ngỡ ngàng. Các yếu tố
thời đại như sự phát triển của vương quốc Đại Việt, sự trưởng thành của ý thức
dân tộc đã giúp triều Lý nâng tầm các giá trị truyền thống.
Lý Thái Tông là ông vua đầu tiên của
triều Lý biểu dương trống đồng, vật tiêu biểu
của thời kỳ Hùng Vương. Ông nâng trống đồng
lên hàng thần linh bảo hộ cho cả vương
triều, với việc thờ thần Trống Đồng ở đền
Đồng Cổ (Hà Nội)
Nguyên Viện trưởng Viện Mỹ thuật Việt
Nam Nguyễn Tiến Cảnh nhận định, ngoài
các yếu tố truyền thống, mỹ thuật thời Lý
còn chịu ảnh hưởng của văn hóa Chămpa ở
phương Nam, nhà Tống phương Bắc, cũng
như văn hóa các nước Đông Nam Á. Khi đã
hội tụ, chọn lọc và kết tinh lại thành những
hạt ngọc của nền văn hóa ở nhiều thể loại,
thì nó lại làm nhiệm vụ khuyếch tán ra các vùng xung quanh: đó là chùa Phật
Tích (Bắc Ninh), chùa Long Đọi (Hà Nam), chùa Chương Sơn (Nam Định) Kiến
trúc, hiện vật ở các di tích này vẫn thể hiện rõ sự giao thoa văn hóa của nước
Đại Việt và các quốc gia lân cận dưới thời vương triều Lý.
Với chiến lược phục hưng văn hóa truyền thống của dân tộc, kết hợp với yếu tố
thời đại và ảnh hưởng của các nền văn hóa Chămpa ở phía Nam, nhà Tống ở
phương Bắc, mỹ thuật thời Lý được coi là kết tinh của 1.000 năm trước đó và là
sự mở đầu cho 1.000 năm sau.
Quá trình Phật giáo hóa Đông Á và Đông Nam Á diễn ra muộn nhất ở Đại Việt
với vai trò quốc giáo của Phật giáo trong thời nhà Lý và nhà Trần. Mỹ thuật Lý
là giai đoạn mỹ thuật vương quyền và mỹ thuật Phật giáo cực thịnh, hoàn chỉnh
nhất.Tính chất vương quyền thể hiện ở kết cấu, quy hoạch và quy mô kiến trúc
hoàng thành Thăng Long cũng như các không gian cung đình khác ở Bắc Ninh
và các địa phương. Một hệ thống dày đặc các chùa Phật được xây dựng với quy
mô lớn nhất, lớn hơn mọi thời kỳ sau. Kết cấu kiến trúc và phong cách mỹ thuật
hoàn toàn thống nhất đến mức hiếm có. (Năm 973 Đinh Liễn khắc 100 cột kinh
Phật ở Ninh Bình, năm 1007 Minh Đề và Hoàng Thành Nhã sang Tống xin sách
Nho và kinh đại tạng, năm 1040 triều đình làm tượng Phật, tranh Phật, đại phan
mỗi thứ 1000 bản, năm 1075 dựng chùa Phật Tích, năm 1087 dựng chùa Dạm,
ngoài ra còn có tháp Báo Thiên, chuông Quy Điền - chùa Một Cột , tất cả đều
quy mô nhất trong lịch sử Phật giáo Việt Nam). Các ngôi chùa thời Lý chắc chắn
từng là những trung tâm đào tạo và trung tâm văn hóa quan trọng nhất của đời
sống Đại Việt.
Trong quá trình củng cố vương
quyền và khuếch trương đạo
Phật, mỹ thuật tất nhiên đã
đóng vai trò quan trọng nhất,
hơn mọi ngành văn nghệ khác.
Cũng tất nhiên là nền mỹ thuật có vẻ là non trẻ
nhất trong thế giới Đông Á và Đông Nam Á sẽ giao
hòa mọi ảnh hưởng từ các nền mỹ thuật lân cận,
đậm nét nhất là với mỹ thuật Trung Hoa và mỹ thuật
Chăm. Tuy nhiên trực tiếp hơn, gần gũi hơn, sâu nặng hơn là với mỹ thuật Chăm
bởi có sự tham gia cụ thể trực tiếp của các thầy và thợ Chăm từ phía Nam ra
định cư ở đất Bắc. Mỹ thuật ở Hoàng thành Thăng Long, chùa Dạm, chùa Phật
Tích và các di tích Lý khác nói lên điều đó. Mỹ thuật Lý nói riêng và văn hóa Đại
Việt thời Lý nói chung từng là kết quả của một cuộc hội nhập khu vực và quốc tế
“lần thứ nhất” khá sâu rộng. Mỹ thuật Lý đặc sắc chính bởi những kết quả hội
nhập đó.
Nhà Lý mở đầu và kết thúc bằng hai lần nhường ngôi “êm ả”. Hai thế kỷ Lý
cũng là thời kỳ thanh bình, khoan hòa, an lạc nhất trong lịch sử Việt Nam. Mỹ
thuật Lý thấm đậm lý tưởng Phật giáo nhu hòa, bao dung, hỷ xả. Tính tinh tế, kỳ
bí, mềm mại, uyển chuyển và dày đặc của nghệ thuật trang trí kiến trúc cũng
như các thành phần điêu khắc giàu chất trang trí trên hai chất liệu chính là đá
và gạch nung là sự đối lập hữu cơ với tính hoành tráng, đồ sộ uy nghi của các
công trình. Đường cong họa tiết, các đồ án hình tròn, bán viên và hoa dây lên
ngôi, làm mẫu mực cho các thời kỳ sau. Nghệ thuật gốm đạt đỉnh cao chưa từng
có với gốm men ngọc, men lam và men nâu của các “lò quan” cung đình cũng
như “lò chợ” dân gian. Điêu khắc - tháp Chăm, gốm Lý Trần Mạc và tượng gỗ -
đình chùa Bắc bộ thế kỷ XVI-XVIII chắc chắn là ba đóng góp đáng kể nhất của
văn hóa Việt Nam vào văn hóa nhân loại.
Câu 8: Phân tích đặc điểm của mỹ thuật thời Trần- Hồ. So sánh với mỹ
thuật thời Lý để làm rõ sự khác nhau giữa 2 thời kỳ này.
p.1. Một số đặc điểm của mỹ thuật thời Trần-Hồ:
a. Sự thừa kế những tinh hoa văn hoá thời Lý
Nhà Trần kế tiếp ngay sau thời Lý. Vì vậy khi bắt đầu được thành lập, nhà
Trần thừa hưởng toàn bộ gia sản văn hoá thời Lý nhất là về mặt kiến trúc. Mãi
đến sau kháng chiến chống quân Nguyên Mông, kinh thành Thăng Long bị tàn
phá nặng nề đến năm 1289 nhà Trần mới cho xây dựng lại kinh đô.
Các công trình kiến trúc từ thời Lý như tháp Báo Thiên, chùa Dạm, chùa
Phật Tích… vẫn còn tồn tại sừng sững và đẹp đẽ. Những công trình kiến trúc,
những tác phẩm nghệ thuật điêu khắc từ thời Lý là cơ sở, nền
móng cho mĩ thuật thời Trần phát triển. Mĩ thuật có sự thay
đổi về phong cách phù hợp với diều kiện, hoàn cảnh xã hội mới.
Tuy vậy cũng không thể có ngay một phong cách khác, mà cần có
thời gian. Sự chuyển biến về phong cách sẽ diễn ra từ từ trên cơ
sở thừa kế những tinh hoa của văn hoá nghệ thuật thời Lý.
Điều này có thể thấy rõ qua một số tác phẩm và hình tượng nghệ thuật tiêu biểu,
nhất là trong nghệ thuật chạm khắc trang trí. Những đề tài, hình tượng nghệ
thuật ít có sự thay đổi. Trong chạm khắc ta lại gặp những nội dung đề tài quen
thuộc. Đó là sóng nước, rồng, hoa sen, hoa văn tay mướp, phượng, người chim,
mây, mặt trời…. Về hình thức thể hiện cũng có nhiều sự đồng nhất. Hoa văn sóng
nước vẫn mang tinh thần hoa văn hình nấm, cao tầng như thời Lý.
Hình rồng trên viên gạch thuộc hoa chùa Hoa Yên – Yên Tử – Quảng Ninh, vẫn
mang những nét điển hình của rồng thời Lý như sự đều đặn, uốn lượn nhịp
nhàng và sự mềm mại của đường nét. Đề tài rồng được thể hiện trong các mô
típ đã được sử dụng nhiều trong mỹ thuật thời Lý như rồng châu vông sáng. Một
số hoa văn lá vẫn mang tính cách điệu cao như hình lá dương xỉ trang trí trên bệ
đá chùa tháp Phổ Minh (Nam Định).
Nhìn chung những chạm khắc trang trí thời Trần vẫn mang phong cách
mềm mại, nhẹ nhàng, bộc lộ trí tưởng tượng phong phú và tài năng sáng tạo
của ông cha ta. Những nét tinh hoa của văn hoá tạo hình thời Lý vẫn trở lại trên
các tác phẩm mĩ thuật thời Trần. Phải chăng đó không phải là đặc điểm của mỹ
thuật thời Lý mà còn chính là đặc điểm mang tính dân tộc đậm đà của người
Việt, mặc dù thời gian có thay đổi. Nói như vậy cũng không có nghĩa là đồng
nhất mỹ thuật thời Lý và thời Trần, mà trên cở sở tinh hoa văn hoá Lý, mỹ thuật
Trần lại phát triển trong điều kiện xã hội hội có nhiều biến thiên khác với thời
Lý. Do đó bên cạnh việc kế thừa về văn hoá, nghệ thuật các nghệ nhân thờiTtrần
còn sáng tạo nhiều công trình tác phẩm mỹ thuậtđặc sắc và mang một phong
cách riêng của thời Trần. Mặc dù vậy, những nét dân tộc vẫn được thể hiện rõ
trong mỹ thuật thời Trần.
b. Những thay đổi và sáng tạo trong mỹ thuật thời Trần
• Nghệ thuật kiến trúc
Tháp Báo Thiên