Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

ĐỊA LÝ ĐỊA PHƯƠNG - LẠNG SƠN HAY NHẤT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (472.71 KB, 22 trang )

LAÏNG SÔN
Lạng Sơn còn gọi là
xứ Lạng là một
tỉnh ở vùng Đông
Bắc Việt Nam.
Mục lục
• 1 Địa lý
o 1.1 Vị trí
o 1.2 Địa hình
o 1.3 Khí hậu, thời tiết
Tỉnh Lạng Sơn
Tỉnh Việt Nam
Chính trị và hành chính
Bí thư tỉnh ủy Phùng Thanh Kiểm
Chủ tịch HĐND Hoàng Thị Bích Ly
Chủ tịch UBND Vi Văn Thành
Địa lý
Tỉnh lỵ Thành phố Lạng Sơn
Miền Đông Bắc
Diện tích 8.305,21 km²
Các thị xã / huyện 10 huyện
Nhân khẩu
Số dân (2001)
• Mật độ
715.300 người
86 người/km²
Dân tộc Việt, Tày, Dao, Nùng
1
o 1.4 Hệ thống sông ngòi
• 2 Các đơn vị hành chính
• 3 Thay đổi hành chính


• 4 Dân cư
• 5 Văn học
• 6 Liên kết ngoài
Tỉnh Lạng Sơn
Lạng Sơn là một tỉnh lớn và quan trọng, nằm phía Đông-Bắc của nước ta, diện
tích 6.200 cây số vuông, phía Bắc giáp tỉnh Cao Bằng, phía Đông giáp biên giới
Trung Hoa và tỉnh Hải Ninh, phía Nam giáp tỉnh Bắc Giang, phía Tây giáp hai tỉnh
2
Bắc Kạn và Thái Nguyên. Tỉnh lỵ Lạng Sơn cách Hà Nội 154 cây số về hướng
Đông Bắc.
Địa thế Lạng Sơn có những cao độ thay đổi từ 100 thước đến 1.009 thước. Phía
Đông Bắc thành phố Lạng Sơn là dãy núi Mẫu Sơn cao 1.500 thước chế ngự cả
thung lũng sông Kỳ Cùng. Phía Đông-Nam cũng có một dãy núi trung bình cao
700 thước. Phía Tây và Tây-Nam có dãy núi Cai Kinh cao 600 thước. Phía Đông và
phía Bắc là những dãy núi đá bao trùm thung lũng Thất Khê và làm thay đổi
hướng sông Kỳ Cùng.
Sông Kỳ Cùng là sông chính của tỉnh, dài 170 cây số, bắt nguồn từ Hải Ninh chảy
tới theo hướng Đông Nam-Tây Bắc cho đến châu Điềm He. Từ đây, giòng sông
chảy theo hướng Tây-Bắc cho tới Na Sầm rồi chảy vào đồng bằng Thất Khê, theo
hướng từ Tây Bắc xuống Đông-Nam, ngược hẳn với hướng lúc mới vào địa phận
Lạng Sơn. Rồi sông chảy bao quanh dãy núi Khao Kỳ cho đến biên giới Hoa-Việt
và chảy thẳng sang Trung Hoa đổ vào sông Bằng Giang ở Long Châu. Sông Kỳ
Cùng có nhiều sông nhánh, nhưng chỉ có hai sông đáng kể là sông Bắc Giang dài
54 cây số và Ba Khê dài 30 cây số. Sông Thương cũng khá quan trọng, dài 80 cây
số, có hai chi lưu là sông Rồng dài 30 cây số và sông Trung dài 50 cây số.
Khí hậu Lạng Sơn lạnh hơn tỉnh Hải Ninh vì ở xa bờ biển hơn, và chịu ảnh hưởng
nhiều của địa thế vì Lạng Sơn ở vị trí khá cao, ở mức bình nguyên cao độ còn trên
270 thước. Khí hậu trung bình là 21.7 độ bách phân.
Về giao thông, hai quốc lộ 1 và 4 nối Lạng Sơn với các tỉnh lân cận và đi
qua Trung Hoa.

Điều kiện tự nhiên
(cập nhật:25/9/2005)
Vị trí địa lý
Lạng sơn là một tỉnh miền núi biên giới, thuộc khu vực Đông bắc của Tổ quốc Việt
nam:
- Diện tích là 830.521 ha ( 8.305,21Km2) , đường biên giới với Trung Quốc dài 253 km.
- Có vị trí từ 20027' - 22019' vĩ Bắc; 106006' - 107021' kinh Đông.
- Phía Bắc giáp tỉnh Cao Bằng : 55 km
- Phía Đông Bắc giáp Trung Quốc. : 253 km
- Phía Nam giáp tỉnh Bắc Giang. : 148 km
- Phía Đông Nam giáp tỉnh Quảng Ninh. 48 km
- Phía Tây giáp tỉnh Bắc Kạn : 73km
- Phía Tây Nam giáp tỉnh Thái Nguyên : 60 km Lạng Sơn có 2 cửa khẩu Quốc tế : Cửa khẩu
đường sắt Đồng Đăng và cửa khẩu đường bộ Hữu Nghị, có hai cửa khẩu Quốc gia là : Chi
3
ma ( Huyện Lộc Bình ), Bình nghi ( Huyện Tràng Định ) và 7
cặp chợ biên giới với Trung Quốc. Có một vị thế chiến lược quan
trọng của vùng Đông Bắc Tổ quốc Việt Nam.
Tỉnh Lạng sơn có 10 huyện và 01 Thành phố : 226 xã phường,
thị trấn bao gồm : Thành phố Lạng Sơn và các huyện: Hữu lũng;
Chi Lăng; Cao Lộc; Lộc Bình; Đình Lập; Văn Lãng; Tràng Định;
Văn Quan; Bình Gia; Bắc Sơn. Thành phố Lạng Sơn là Trung
tâm Chính Trị - Kinh tế xã hội của Tỉnh,
Địa hình
Dạng địa hình phổ biến ở Lạng Sơn là:
núi thấp và đồi, độ cao trung bình 252 m so với mặt nước biến,
nơi thấp nhất là 20 m ở phía nam huyện Hữu Lũng và nơi cao
nhất là núi Mẫu Sơn 1541 m.
Đồi núi chiếm > 80 % diện tích cả tỉnh
Khí hậu thời tiết

Khí hậu của Lạng Sơn thể hiện rõ nét khí hậu miền Bắc Việt Nam.
Khí hậu phân mùa rõ rệt, ở các mùa khác nhau nhiệt độ phân bố không đồng đều do sự phức
tạp của địa hình miền núi và sự biến tính nhanh chóng của không khí lạnh trong quá trình di
chuyển ở vùng nội chí tuyến đã gây nên những chênh lệch đáng kể trong chế độ nhiệt giữa
các vùng.
Nhiệt độ trung bình năm : 17 - 22oC
- Lượng mưa trung bình hàng năm từ 1200 - 1600 mm
- Độ ẩm tuơng đối trung bình năm 80 - 85%.
- Luợng mây trung bình năm khoảng 7,5/10 bầu trời.
- Số giờ nắng trung bình khoảng 1600 giờ.
Huớng gió và tốc độ gió của Lạng Sơn vừa chịu sự chi phối của yếu tố hoàn lưu, vừa bị biến
dạng bởi địa hình. Mùa Lạnh thịnh hành gió Bắc, mùa nóng thịnh hành gió Nam và Đông
Nam. Tốc độ gió nói chung không lớn, trung bình đạt từ 0,8 - 2 m/s song phân hoá không đều
giữa các vùng trong tỉnh.
Hệ thống sông ngòi
Mật độ sông suối của Lạng Sơn thuộc loại trung bình đến khá dày, qua địa phận có các sông
chính là:Sông Kỳ Cùng. Bắt nguồn từ vùng núi Bắc Xa cao 1166 m thuộc huyện Đình Lập,
chảy về lưu vực sông Tây Giang Trung Quốc.
Độ dài : 243 km
Diện tích lưu vực : 6660 km2
Sông Ba Thín
Sông Ba thín bắt nguốn từ vùng núi cao thuộc Quảng Tây (Trung Quốc ) đổ vào bờ phải sông
Kỳ Cùng ở xã Khuất Xá huyện Lộc Bình.
Độ dài : 52 km
Diện tích lưu vực : 320 km2 Sông Bắc Giang
4
Quang cảnh Lạng Sơn
Quang cảnh Lạng Sơn
Độ dài : 114 km
Diện tích lưu vực : 2670 km2

Sông Bắc Khê
Độ dài : 54 km
Diện tích lưu vực : 801 km2
Sông Thương
Là sông lớn thứ hai của Lạng Sơn, bắt nguốn từ dãy núi Na Pa
Phước ( huyện Chi Lăng ) chảy trong máng trũng Mai Sao - Chi
Lăng và trên địa phận tỉnh Bắc Giang.
Độ dài : 157 km
Diện tích lưu vực : 6640 km2
Sông Hoá
Độ dài : 47 km
Diện tích lưu vực : 385 km2
Sông Trung
Độ dài : 65 km
Diện tích lưu vực : 1270 km2
Nguồn Nhân lực
- Dân số trung bình 733.700 người ( năm 2001 ), mật độ 88 người/ km2
- Tỷ lệ tăng dân số 0,97%.
Các dân tộc:
Dân tộc Nùng chiếm 42,97%, Tày chiếm 35,92%,Kinh 16,5%,còn lại là
các dân tộc Dao,Hoa, Sán Chay, H'Mông.
Trình độ nghề nghiệp
- Trên đại học : 46 người
- Đại học : 6.133 người
- Cao đẳng
Hạ tầng và dịch vụ
(cập nhật:25/9/2005)
Giao thông vận tải
Các tuyến Quốc lộ trên địa bàn:
- Quốc lộ 1A: Là tuyến quốc lộ xuyên Việt, từ cửa khẩu Hữu Nghị Quan qua địa phận Lạng

Sơn về Hà Nội .
- Quốc lộ 1B: Lạng Sơn qua Thái Nguyên
- Quốc lộ 4A: Lạng Sơn đi Cao Bằng
- Quốc lộ 4B: Lạng Sơn qua Tiên Yên đến thị xã Móng Cái tỉnh Quảng Ninh.
- Quốc lộ 31 : Đình lập - Bắc Giang.
- Quốc lộ 279 : Bắc kạn - Bình gia ( Tỉnh Lạng Sơn ) - Lục ngạn ( Tỉnh Bắc Giang ).
Các tuyến đường liên huyện, xã:
5
Quang cảnh Lạng Sơn
Cơ bản đến nay đường giao thông đã đến trung tâm các xã.
Các tuyến đường sắt:
- Đường sắt liên vận Quốc tế Hà Nội - Trung Quốc chạy qua địa phận Lạng Sơn khoảng
trên 100 km.Là đường hỗn hợp gữa hai khẩu độ 1m và 1,435m.
- Đường sắt Lạng Sơn - Na Dương.
Bưu Điện dịch vụ
- Tại Thành phố Lạng Sơn có thể liên lạc được với 220 nước
trên Thế giới - Tổng số máy điện thoại: 24.995 máy.(năm 2001) -
75,7% số xã, phường, thị trấn có điện thoại. - 181/226 xã,
phường, thị trấn có báo đọc hàng ngày. - Các dịch vựu bưu
chính viễn thông: - Mạng điện thoại di động phủ sóng Thành phố
Lạng sơn, khu vực cửa khẩu và một số huyện trong tỉnh. - Thư
chuyển phát nhanh ( EMS ), thư điện tử, bưu phẩm, bưu kiện
phát nhanh ( EXPRES ), điện hoa, chuyển tiền nhanh, tiết kiệm
bưu điện - Dịch vụ tự động trả lời các thông tin kinh tế xã hội
( 108 ), Dịch vụ nhắn tin (107), dịch vụ điện thoại thẻ Việt Nam, dịch vụ Internet, truyền số
liệu, Fax, telex
Truyền tải điện năng
Điện lưới Quốc gia mở rộng đến 85,4% xã, phường, thị trấn . - Sản lượng điện thương phẩm
đạt 82,5 triệu KW giờ/năm 2000.
Hệ thống cung cấp nước sạch

Tại Thành phố Lạng Sơn do Công ty cấp thoát nước Lạng Sơn cung cấp chủ yếu từ hệ thống
nước ngầm công suất 11000m3 / ngày đêm, đáp ứng 85 % nhu cầu dân cư đô thị. - Một số thị
trấn, thị tứ thôn bản sử dụng hệ thống cấp nước của các chương trình nước sạch VSMT
Quốc gia.
Hệ thống Y tế - Giáo dục
Đã có 64,7 % xã, phường, thị trấn có bác sĩ. - Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng còn
khoảng 28%. - Trên 98,5 % các cháu trong độ tuổi đã được đến trường. - Năm 1997 Tỉnh đã
hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học, xoá mù chữ. - Đến hết năm 2002 đã thực hiện phổ cập
trung học cơ sở được 91 xã, phường, thị trấn
Hệ thống các Bệnh Viện
- Bệnh viện đa khoa tỉnh với số giường bệnh là 250 giường - Bệnh viện Lao tỉnh có 60 giường
bệnh. - Bệnh viện Y học dân tộc tỉnh có 50 giường bệnh. - Bệnh viện điều dưỡng tỉnh có 40
giường bệnh - 10 bệnh viện huyện tại mỗi huyện có trến 50 giường bệnh.
Hệ thống Ngân hàng Bảo hiểm
6
Bưu điện Tỉnh Lạng Sơn
Hệ thống ngân hàng: - Ngân hàng Nhà nước. - Các ngân hàng chuyên doanh : + Ngân hàng
Đầu tư và phát triển, chi nhánh Lạng Sơn + Ngân hàng Nông nghiệp và PTNT Lạng Sơn. +
Ngân hàng phục vụ người nghèo Lạng Sơn. + Ngân hàng công thương Lạng Sơn. Hệ thống
Bảo hiểm: - Bảo hiểm xã hội. - Các loại hình bảo hiểm khác như Bảo việt, Bảo minh
Dân Cư - Kinh Tế
Dân chúng Lạng Sơn gồm các sắc dân Tày, Thổ, Mường, Nùng, Mán và Yao; người
Kinh sống nhiều ở những thị trấn. Đồng bào Thổ có phong tục giống như người
Kinh; đặc biệt là tính hiếu khách, tiếp đón khách lạ rất nồng hậu, nhất là trong
những ngày hội.
Vì là vùng rừng núi nên Lạng Sơn không phát triển về canh nông, dân chúng chỉ
trồng được một ít lúa cạn, lúa nước. Hoa màu phụ có khoai tây, sắn, ngô, dâu để
nuôi tằm. Ngược lại, Lạng Sơn có những lâm sản và khoáng sản đáng kể và có
nhiều loại cây kỹ nghệ vì rừng núi chiếm diện tích khá lớn trong tỉnh. Lâm sản có
các loại gỗ quý như hoàng đàn, lim, lát hoa, sến, lý, thông , và rất nhiều tre,

song, mây, nứa, vầu, mộc nhĩ, nấm hương, mật ong.
Về loại cây kỹ nghệ, dân chúng trồng thuốc lá, trà, trẩu, mía, cây có dầu. Rừng
Mẫu Sơn có loại trà rất ngon. Cây ăn trái có nhiều loại nổi tiếng như mận thép,
mận đường ở Thất Khê, lê ở Tràng Định, đào ở vùng Mẫu Sơn nửa hồng nửa
trắng, hồng ở Bảo Lâm. Về khoáng sản có những mỏ vàng, đồng, chì, phốt-phát,
kẽm, thạch miên
Tài Nguyên Đất
Có ba loại đất chính :
Tài Nguyên Động vật
Giới động vật Lạng Sơn khá phong phú và đa dạng.
- Lớp thú có 8 bộ với 56 loài. ( Hổ , Báo hoa mai, Báo gấm, Beo,
Gấu ngựa, Cầy vằn,Cáo, Sơn dương, Hươu sao, Hươu xạ, Lửng
lợn, Khỉ vàng, Khỉ bạc má, Khỉ cộc, Vượn đen, Sóc, . . .) - Lớp
chim có18 bộ, 46 hộ với 200 loài ( Phượng hoàng, Công, Trĩ,
Sáo, Bìm bịp, Gà lôi trắng, Hồng hoàng, Cao cát, Gà tím, Gõ
kiến, Vẹt, Diều hâu, Cò , Vạc, Cu gáy, . . . )
- Lớp bò sát lưỡng cư có 3 bộ, 17 họ với 50 loài. Một số loài
thường gặp là : Tắc kè, Trăn, Rắn, ếch, Nhái, Ba ba, Rùa hộp, Rùa núi vàng, . . )
- Lớp cá có hàng chục họ. Trong đó có những loài quí hiếm như : Cá măng giả, Cá chép gốc,
Cá anh vũ, Cá sinh gai, . . .
Tài Nguyên Thực Vật
7
Cảnh rừng Hữu Liên
Lạng Son có tài nguyên thực vật khá phong phú
- Kiều rừng kín thường xanh mưa ẩm nhiệt đới.
- Kiều rừng kín nửa rụng lá ẩm nhiệt đới
- Kiều rừng kín rụng lá hơi ẩm nhiệt đới
- Kiểu rừng kín thường xanh mưa ẩm, cận nhiệt đới núi thấp.
Các cây rừng tự nhiên có giá trị : Đinh, Lim, Sến, Nghiến, Hoàng đàn,
Lát, Pơ mu, Sa mu, Trầm, . .

Các cây rừng nhân tạo chủ yếu : Bạch đàn, Keo, Thông, . .
Các loại cây đặc sản chủ yếu :
Cây công nghiệp : Hồi, Thuốc lá.
Các kiểu thảm thực vật phân bố ở Lạng Sơn là: Cây ăn quả: Hồng không hạt, Na dai, Quýt vàng, Đào,
Mận, Lê,
Tài Nguyên Khoáng Sản
Khoáng sản kim loại đen:
Kim loại mầu:
Nhóm kim loại mầu gồm có Nhôm, Đồng, Chì, Kẽm và đa kim. Trong số đó Nhôm có trữ lượng lớn
nhất sau đó là Đồng, Chì, Kẽm và đa kim.
- Nhôm: Có 37 mỏ và điểm quặng, phân bố chủ yếu ở khối núi Bắc sơn, ngoài ra ở dọc đường Quốc lộ
1A từ Lạng sơn đi Đồng Đăng. Quặng nhôm ở Lạng sơn gồm 2 loại : Bô xít và alit
- Sắt: Bao gồm 1 mỏ và 7 điểm quặng. Trước đây người Pháp và người Nhật phát hiện và đã từng khai
thác từ những năm 1937, 1938.
- Mỏ Sắt Gia Chanh nằm ở xã Mai Sao, huyện Chi Lăng, các điểm quặng ở Nà mò, Khau khiêng, làng
Diệu, Lân Nài, Lân Rì, Kẽm Càng.
Kim loại mầu:
Nhóm kim loại mầu gồm có Nhôm, Đồng, Chì, Kẽm và đa kim. Trong số đó Nhôm có trữ lượng lớn
nhất sau đó là Đồng, Chì, Kẽm và đa kim.
- Nhôm: Có 37 mỏ và điểm quặng, phân bố chủ yếu ở khối núi Bắc sơn, ngoài ra ở dọc đường Quốc lộ
1A từ Lạng sơn đi Đồng Đăng. Quặng nhôm ở Lạng sơn gồm 2 loại : Bô xít và alit
- Các mỏ và điểm quặng Bôxít: Đã phát hiện đợc 8 mỏ và điểm quặng bôxít tập trung ở khu vực gần
Thành phố Lạng sơn: Ma Mèo, Tam Lung, Bản loóng, Khỏn Pích khu vực Thanh Mọi, Nà Doòng và Nà
Chuông Trong đó mỏ Ma Mèo có trữ lượng khoảng 20 triệu tấn.
- Các mỏ và điểm quặng alít: Đã phát hiện được 12 mỏ và điểm ở khu vực Cầu Bóng huyện Bắc Sơn.
đặc biệt mỏ alit ở Ba Xã ở huyện Văn Quan, nằm trong khối đá vôi Bắc Sơn với 7 dải quặng với trữ
lượng quặng nhôm khoảng 7 triệu tấn ( trong đó chủ yếu là quặng gốc ).
- Đồng: tồn tại dưới dạng các vành phân tán.
- Chì, Kẽm: Có hai mỏ ( Háp Cây và Mỏ Ba ), 2 điểm quặng ( Làng Nấc và mỏ Trạng ) và 13 vành phân
tán nguyên tố và 9 vành phân tán khoáng vật của chì, kẽm. Trữ lượng chì, kẽm cả tỉnh khoảng 100.000

tấn. - Đa kim: Có mỏ Tình Sùng xã Gia Cát huyện Cao Lộc, trữ lượng khai thác khoảng 500 tấn Kim
loại quí:
Vàng được phát hiện thấy ở trên 35 mỏ, điểm khoáng hoá và vành phân tán từ Hữu Lũng qua Bắc Sơn,
Bình Gia, Văn Mịch, Thất Khê. Trong khu vực này còn phát hiện hằng trăm mẫu đãi vàng sa khoáng
nằm rải rác trong các thung lũng, sông, suối.
Kim loại hiếm:
- Thiếc: 2 vành phân tán, đó là vành phân tán Gia Hoà ở tây nam thị trấn mỏ Nhài huyện Bắc sơn và
vành phân tán Kao Tiang ở trung tâm đới khoáng hoá vàng nội sinh Bình Gia - Văn Mịch - Thất khê. -
8
Hoa Đ o Mà ẫu Sơn
Môlípđen: Chỉ gặp dưới dạng nguyên tố trong vành phân tán kim lượng. - Vanađi: Có nhiều ở vùng
Thất Khê.
- Thuỷ ngân: gặp dưới dạng khoáng vật xinoba.
Khoáng sản phi kim loại:
Khoáng sản nhiên liệu:
- Than nâu ( Than lửa dài ): Có tại mỏ Na Dương huyện Lộc bình và điểm quặng Thất khê. Mỏ Than Na
Dương trữ lượng khoảng 96,6 triệu tấn.
- Than bùn: Có ở Nà Mò ( huyện Lộc bình ) và thị trấn Bình Gia. Điểm than bùn thị trấn Bình Gia trữ
lượng có thể tới vài trăm nghìn tấn.
Khoáng sản dùng làm nguyên liệu áp quang và áp điện ).:( Thạch anh kỹ thuật
Khoáng sản dùng làm nguyên liệu hoá học:).
Trữ lượng Phốtphorít ở Lạng sơn khoảng 666.000tấn ( đã khai thác 555.513 tấn ) còn lại khoảng hơn
100.000 tấn .
Barit được phát hiện gần đây ở Đình Lập, trữ lượng chưa xác định.
Khoáng sản dùng làm vật liệu xây dựng:
- Đá cacbônat rất phổ biến ở Lạng Sơn, chiếm 1/4 diện tích của Tỉnh, chủ yếu ở phía tây và tây nam. Đá
sét trữ lượng khoảng 32.296.500 tấn .
- Cát, cuội, sỏi: Tập trung ở các dải dọc sông Kỳ Cùng và Sông Hoá.
- Sét và vôi sét: có mặt trong hệ tầng Mẫu sơn.
- Đá phun trào và đá mafic tuổi triat: Có thể làm đá ốp lát chất lượng cao. Với khối lượng khá lớn và

gần Quốc lộ 1B từ Lạng Sơn đi Thái Nguyên.
Kinh tế và phát triển
(cập nhật:25/9/2005)
Một số chỉ tiêu đã đạt được
- Tổng sản phẩm trong tỉnh ( GDP ): 2.742.146 triệu đồng/năm
2002. - GDP bình quân đầu người đạt: 3.685.000đồng/năm. -
Sản lượng một số sản phẩm chủ yếu: - Công nghiệp - Xây dựng:
16,02% năm 2002 Các đơn vị công nghiệp trọng điểm: + Công ty
xi măng và xây dựng công trình. + Nhà máy giấy. + Công ty sản
xuất vật liệu xây dựng. + Cơ sở sản xuất bia hơi, cơ sở chế biến
hoa quả. - Nông lâm, ngư nghiệp: 47,04% - Thương mại, dịch
vụ: 36,94 %. - Thương mại:Tổng mức lưu chuyển hàng hoá bán
lẻ: 1395 tỷ đồng - Kim ngạch xuất nhập khẩu: 285 triệu USD/năm2002
Định hướng phát triển dến 2005
- Các chỉ tiêu phát triển kinh tế xã hội chủ yếu. - Nhịp độ tăng trưởng GDP hàng năm tăng từ:
10 -15 %. - GDP bình quân đầu người đạt: 350 USD. - Tổng vốn đầu tư trên địa bàn 5 năm là:
7.110 tỷ đồng.
Cơ cấu kinh tế của tỉnh đến 2005
9
Hội chợ
- Ngành nông lâm nghiệp: 42%. - Ngành công nghiệp, xây dựng: 16,2 %. - Các ngành dịch vụ:
41,8 %.
Định hướng phát triển kinh tế
Nông lâm nghiệp : Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông lâm nghiệp theo hướng sản xuất hàng
hoá, phấn đấu đến năm 2005 tổng sản lượng quy thóc đạt 227 ngàn tấn. Phát triển mạnh cây công
nghiệp, cây lâm nghiệp, cây ăn quả, cây thực phẩm có giá trị kinh tế cao theo hớng tập trung, chuyên
canh. Công nghiệp, xây dựng : Tập trung ưu tiên phát triển công nghiệp chế biến nông lâm sản, sản xuất
vật liệu xây dựng, chế biến hàng xuất khẩu, công nghiệp lắp ráp máy nông nghiệp, khai khoáng nhỏ.
Thương mại - Dịch vụ : Phát triển và nâng cao chất luợng các hoạt động thương mại, dịch vụ, nhất là
khu vực các khu kinh tế cửa khẩu và Thành phố Lạng Sơn. Tiếp tục mở rộng mạng lưới thương nghiệp

quốc doanh, hợp tác xã mua bán. Đa dạng hoá các loại hình du lịch, hình thành các điểm, cụm tuyến du
lịch.
Hệ thống cửa khẩu
(cập nhật:25/9/2005)
1 - Cửa khẩu Hữu Nghị
Giao thông: Đường bộ
Từ TP Lạng Sơn đến cửa khẩu: 17 Km
Giờ làm việc: Giời hành chính
Tính chất: Quốc tế
Khả năng thông thương:Đảm bảo nhanh nhất
Lưu lượng hàng hoá/tháng:
- 9.000 lượt hành khách
- XNC bằng hộ chiếu/tháng
- Kim ngạch XNK đạt khoảng 13 triệu USD/tháng
Chú ý:
Làm thủ tục Hải quan đối với tất cả các loại hình hàng hoá Xuất nhập khẩu
2 - Cửa khẩu Đồng Đăng
Giao thông: - Đường sắt
Giờ làm việc: Giời hành chính
Tính chất: Quốc tế
Khả năng thông thương:Đảm bảo nhanh nhất
Lưu lượng hàng hoá/tháng:
- 1.000 lượt hành khách XNC bằng hộ chiếu/tháng
- Kim ngạch XNK đạt khoảng 14 triệu USD/tháng
Chú ý:
Chỉ làm thủ tục HQ đối với các loại hàng hóa mậu dịch vận chuyển bằng đường sắt, mà
không làm thủ tục đối với hàng tiểu ngạch
3 - Cửa khẩu Tân Thanh
10
Giao thông: Đường bộ

Từ TP Lạng Sơn đến cửa khẩu: 28 Km
Giờ làm việc: Giời hành chính
Tính chất: Cặp chợ biên giới
Khả năng thông thương:Đảm bảo nhanh nhất
Lưu lượng hàng hoá/tháng:
- Chủ yếu là cư dân biên giới qua lại bằng sổ thông hành.
- Kim ngạch XNK đạt khoảng 3 triệu USD/tháng
Chú ý: Đây là khu Kinh tế cửa khẩu, làm thủ tục đối với tất cả các loại hình hàng
hoá Xuất nhập khẩu.
4- Cửa khẩu Chi Ma
Giao thông: Đường bộ
Từ TP Lạng Sơn đến cửa khẩu: 37 Km
Giờ làm việc: Giời hành chính
Tính chất: Quốc Gia
Khả năng thông thương:Đảm bảo nhanh nhất
Lưu lượng hàng hoá/tháng:
- Chủ yếu là cư dân biên giới qua lại bằng sổ thông hành.
- Kim ngạch XNK đạt khoảng 1,5 triệu USD/tháng
Chú ý:
Làm thủ tục đối với tất cả các loại hình hàng hoá Xuất nhập khẩu
Chú ý: tại tất cả các cửa khẩu: hàng XK từ VN nếu có giấy chứng nhận xuất xứ mẫu E do
Việt Nam cấp thì được hưởng thuế NK ưu đãi theo Hiệp định khung ASEAN - Trung Quốc
5- Cửa khẩu Cốc Nam
X HÃ Ộ I
UBND tỉnh họp trực tuyến với Chính phủ (cập nhật:31/3/2009)
Sáng 30/3/2009, tại hội trường UBND tỉnh, đồng chí Dương Thời Giang, Phó Chủ
tịch UBND tỉnh cùng lãnh đạo một số Sở, Ngành của tỉnh đã tham dự cuộc họp trực
tuyến với Chính phủ dưới sự chủ trì của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng
Thành phố Lạng Sơn tích cực tuyên truyền về tổng điều tra dân số và nhà ở (cập
nhật:31/3/2009)

Lạng Sơn thực hiện phương châm “động” và “mở” trong công tác quy hoạch cán bộ (cập
nhật:31/3/2009)
Chi đoàn Văn phòng Cục Hải quan thăm, tặng quà tại Trung tâm Bảo trợ Xã hội (cập
nhật:31/3/2009)
Biên giới Việt - Trung và những nguyên tắc công bằng (cập nhật:24/2/2009)
11
Trước lễ chào mừng hoàn thành công tác phân giới cắm mốc biên giới trên đất liền
Việt Nam - Trung Quốc diễn ra chiều nay (23/2) tại cửa khẩu Hữu Nghị, Lạng Sơn, Thứ
trưởng Ngoại giao Vũ Dũng trao đổi với báo giới những nguyên tắc công bằng trong
đàm phán
Việt Nam - Trung Quốc mừng hoàn thành phân giới cắm mốc (cập nhật:23/2/2009)
Hôm nay, tại cửa khẩu quốc tế Hữu Nghị - Hữu Nghị quan, Việt Nam phối hợp
với Trung Quốc tổ chức lễ Chào mừng hoàn thành công tác phân giới cắm mốc đường
biên giới trên đất liền giữa hai nước
Lãnh đạo tỉnh kiểm tra tình hình triển khai công tác năm 2009 tại Sở Tài chính (cập
nhật:19/2/2009)
Sáng ngày 19/2/2009, các đồng chí lãnh đạo Tỉnh ủy, UBND tỉnh đã có buổi làm
việc với Sở Tài chính nhằm kiểm tra về tình hình triển khai thực hiện nhiệm vụ kế
hoạch và ngân sách nhà nước năm 2009
Tổng kết công tác thi đua-khen thưởng năm 2008 cụm thi đua 7 tỉnh biên giới phía Bắc (cập
nhật:19/2/2009)
Sáng ngày 18/2/2009, tại nhà khách UBND tỉnh, Cụm thi đua 7 tỉnh biên giới
phía Bắc gồm Cao Bằng, Hà Giang, Lào Cai, Điện Biên, Lai Châu, Sơn La và Lạng
Sơn đã tổ chức hội nghị tổng kết công tác thi đua-khen thưởng năm 2008

Hội Lồng Tồng : ( Hội xuống đồng )
Tổ chức vào đầu xuân năm mới sau dịp tết nguyên đán tại các bản làng. Hội này của
các dân tộc Nùng, Tày. Mục đích lễ hội cầu trời đất cho mưa thuận gió hoà, mùa màng
bội thu, bền vững cộng đồng.
Hội chùa Tam Thanh:

Hội chùa Tam Thanh: Tổ chức vào ngày 15 tháng giêng âm lịch, còn có tên gọi là hội Chúng
sinh. Lễ hội thu hút rất nhiều du khách thập phương đến lễ chùa, tham quan và tham gia các
hoạt động của ngày hội.
Hội chùa Tiên:
Hội chùa Tiên: Tổ chức vào ngày 18 tháng giêng âm lịch.
Các món ăn truyền thống
(cập nhật:25/9/2005)
Vịt Quay:
Vịt Quay: Món ăn đặc sản nổi tiếng của Lạng Sơn, nhất là Vịt Quay Thất Khê. Vịt sau khi
được làm sạch, được nhồi gia vị và nhất là lá cây Mác Mật vào bụng rồi khâu kín lại. Sau đó
12
bỏ vịt vào dầu lạc hoặc mỡ đun sôi đến khi chín vàng. Thịt vịt quay da giòn, có hương vị thơm
ngon, hợp khẩu vị mọi người và rất được ưa thích.
Lợn Quay
Lợn Quay: Có nguồn gốc đặc sản nổi tiếng của người Hoa. Lợn được quay trên Than củi
hồng, thường là Lợn khoảng 30 - 40 kg để khi quay thịt có độ giòn và ít mỡ. Là món ăn không
thể thiếu tại các dịp lễ hội của đồng bào các dân tộc Lạng Sơn.
Khau Nhục
Khau Nhục: Được chế biến từ thịt lợn ba chỉ. Đây là món ăn đòi hỏi kỹ thuật nấu nướng phức
tạp với rất nhiều các loại gia vị và là món ăn truyền thống tại các lễ cưới của nhân dân trong
vùng.
Phở chua:
Phở chua: Món ăn đậm đà bản sắc dân tộc, được khách du lịch và mọi người ưa thích.
Rượu Mẫu Sơn:
Rượu Mẫu Sơn: Là rượu trắng, được trưng cất từ gạo và men lá do đồng bào sống ở vùng
núi cao Mẫu Sơn tự chế biến. Đặc điểm loại rượu này có mùi vị thơm dịu của lá, rễ cây thuốc
miền núi Lạng Sơn .
Cơm Lam:
Cơm Lam: Là món ăn rất đặc trưng của người Tày và người Nùng.
Du lịch nội địa:

Du lịch nội địa: Tới các danh lam thắng cảnh trong và ngoài tỉnh theo nhu cầu của khách du
lịch.
Du lịch nước ngoài:
Du lịch nước ngoài: Tới một số nước trên thế giới và đặc biệt là du lịch tới các vùng của đất
nước Trung Quốc.
13
Danh lam thắng cảnh
(cập nhật:25/9/2005)
Phố chợ Kỳ lừa
Phố chợ Kỳ lừa: Chợ Kỳ Lừa ở Lạng Sơn là nơi mua bán trao đổi hàng hoá giữa các vùng, miền, trong
cả nước cùng với các hoạt động văn hoá mang bản sắc dân tộc của Lạng Sơn Chợ Kỳ lừa mỗi tháng họp
6 phiên vào các ngày 2, ngày 7 âm lịch, có hàng hoá sản vật của hầu hết các tỉnh . Người đến chợ có khi
không cốt để mua bán mà chỉ để thăm hỏi, bàn chuyện làm ăn, Thanh niên nam nữ các dân tộc đến chợ
để gặp ban thân, tìm bạn đời qua các lời ca giao duyên sli, lượn, tìm đến những niềm đồng cảm bao
quanh. Tại chợ, cùng với những màu sắc đa dạng của những hàng thổ cẩm, trang phục,còn có các món
ăn đậm đà hương vị miền núi Xứ Lạng. Mỗi năm Lạng Sơn có Hội chợ Kỳ lừa, kéo dài từ 22 đến ngày
27 tháng giêng âm lịch, là nét sinh hoạt văn hoá cổ truyền đậm đà bản sác dân tộc. Chợ Kỳ lừa ngày nay
đã được tôn tạo và mở cửa cả ngày và đêm. Với không khí trong lành của núi rừng miền biên cương,
cùng với cảnh và người đi chợ đêm gây được ấn tượng sâu sắc khó phai đối với khách đến Lạng Sơn
Nàng Tô Thị
Nằm trong quần thể danh lam thắng cảnh Nhị, Tam Thanh, truyền thuyết về Nàng
Tô Thị đã đi vào tâm khảm của dân tộc Việt Nam thiên nhiên đã tạo ra hình tượng
người mẹ ôm con đứng chờ chồng trên đỉnh núi cao như một biểu tượng của lòng
thuỷ chung son sắt của người phụ nữ Việt Nam.
Thắng cảnh chùa Tam Thanh
Có từ thời Lê, theo sách Đại Nam Nhất Thống Chí ghi rằng ' Chùa Tam Thanh
nằm trong động núi đá thuộc địa phận xã Vĩnh Trại, Châu Thoát Lãng nay là
phường Tam Thanh Thành phố Lạng Sơn. Trải qua bao thăng trầm của thời gian,
lịch sử chùa Tam thanh vẫn giữ được nhiều vẻ đẹp ban đầu hấp dẫn du khách gần
xa bằng vẻ đẹp tự nhiên vốn có của di tích. Trong động có tượng phật A Di Đà lớn

tạc nổi vào vách đá từ thế kỷ XV là tác phẩm nghệ thuật giá trị cao,hồ Âm Ti nước
trong xanh quanh năm không bao giờ vơi cạn, với muôn trùng nhũ đá thiên tạo từ
ngàn xưa tạo nên những hình thù sinh động, hấp dẫn .
Động Nhị Thanh
14
Là Chùa Tam Giáo, trong Động có nhiều tượng thánh bày thờ theo nhiều hình thức
- Động Nhị Thanh gắn liền với danh nhân Ngô Thì Sỹ khi Ông được cử lên làm
quan đốc trấn Lạng Sơn từ năm 1777 - 1780. Trong khoảng thời gian ngắn, ông đã
làm cho bộ mặt Lạng Sơn thay đổi phát triển đi lên về các mặt Chính trị - Kinh tế,
bảo vệ đất nước Đặc biệt về văn hoá, ông đã có công phát hiện ra 8 cảnh đẹp Xứ
Lạng ( Trấn doanh bát cảnh ) trong đó có động Nhị Thanh. Tháng 5 năm 1779 ông
đã thuê thợ khởi công xây dựng tôn tạo khu động. Động bên trái cao, thế đất tốt
hơn làm chùa Tam Giáo thờ 3 vị thánh là Khổng Tử - Lão Tử - Phật Thích Ca.
Động Nhị Thanh ở bên dưới chùa Tam Giáo, là một hang đá tự nhiên từ cửa trước
ra cửa sau dài hơn 500m, với nhiều cảnh đẹp tự hiên kỳ vĩ. Ngày nay, tại di tích
này có hệ thống văn bia tạc trên vách đá của các danh nhân thi sĩ qua lại các thời
kỳ lưu lại. Đây là nguồn sử liệu, những tác phẩm văn học hết sức quí giá, thông tin
về lịch sử và di tích Lạng Sơn, nơi đây còn có tượng truyền thần của Ngô Thì Sĩ tạc cùng năm 1779 rất
đẹp và có giá trị mỹ thuật cao.
Bến đá Kỳ Cùng
Bến đá Kỳ Cùng: Trong tám cảnh của Lạng Sơn, Ngô Thì Sĩ gọi đây là Kỳ Cùng Thạch độ.
Hang động chùa Tiên và Giếng Tiên:
Hang động chùa Tiên và Giếng Tiên: Cách cầu Kỳ cùng khoảng nửa cây số, trên đường đi Mai Pha, có
núi đá hình voi nhô lên giữa cánh đồng. Đó là núi đại tượng, nơi đây có động Chùa Tiên, là một trong
bát cảnh mà Ngô Thì Sĩ đã ghi nhận. Động Chùa Tiên Nằm ngang chừng núi, lối lên có 64 bậc, cửa phụ
quay về hướng đông, có cửa thông hiên, có đường xuống hồ thu thuỷ. Chùa Tiên còn được gọi là chùa
Song tiên, được lập vào thời Hồng Đức ( 1460 - 1497 ). Trong động có nhiều thạch nhũ có hình dáng
tiên ông , con voi hoặc con dơi bay. Nhiều tấm bia ma nhai của các nhà văn, các danh nhân cũng được
thấy ở chùa Tiên này. Đằng sau núi Voi - Chùa tiên ở lưng chừng núi trên mặt bằng đá rộng đó là Giếng
tiên, miệng giếng rộng 20cm có mạch nước quý chảy quanh năm.

Khu Du lịch Mẫu Sơn:
Khu Du lịch Mẫu Sơn: Cách Thành phố khoảng 15 km về phía đông bắc Lạng Sơn, là một dãy núi cao
nằm theo hướng Đông - Tây, cả dãy có nhiều ngọn núi hình người đứng nhấp nhô, đỉnh cao nhất 1541
m so với mặt biển gọi là núi Mẹ và núi Cha. Nhiệt độ trung bình ở đây là 15,50C đỉnh núi quanh năm có
mây phủ rất lý tưởng cho nghỉ dưỡng sức khoẻ con người. Từ năm 1935 người Pháp đã quy hoach và
xây dựng tại đây nhiều nhà nghỉ mát, Ngày nay Tỉnh Lạng sơn đang cho xây dựng những công trình
phục vụ cho việc nghỉ dưỡng và đón khách du lịch. Đến nghỉ tại đây quý khách sẽ được thưởng thức các
sản phẩm độc đáo có tính chất riêng biệt của Lạng sơn và đồng bào dân tộc ở đây như Đào Mẫu Sơn,
Chanh rừng, ếch hương, mật ong, rượu trắng Mẫu Sơn đến Mẫu Sơn du khách còn được thưởng thức
những giá trị bản sắc văn hoá của đồng bào Dao, Nùng, Tày được thể hiện quan các làn điệu dân ca, các
ngày lễ hội truyền thống.
Khu danh thắng Hang Gió:
15
Khu danh thắng Hang Gió: Ở phía Tây Bắc bản Sao Thượng, thuộc huyện Chi Lăng, cửa chính vào
hang ở phía Đông của dãy núi Mai Sao. Đây là hang động có qui mô lớn, chiều dài hàng trăm mét, rộng
50 - 70m. Hang có 4 tầng và trong hang có nhiều hình thù kỳ thú, các chuông đá, măng đá, cột đá đa
dạng có thể xem như thiên đình nơi hạ giới.
Di Tích - Thắng Cảnh
Nói đến Lạng Sơn, người ta thường nhắc đến câu thơ:
"Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa Có nàng Tô Thị, có chùa Tam Thanh".
Đồng Đăng cách tỉnh lỵ Lạng Sơn 14 cây số, có nhiều phong cảnh rất đặc biệt:
Phố Kỳ Lừa: Phố này có chợ Kỳ Lừa được lập ra vào khoảng tiền bán thế kỷ 15.
Trước đây, giặc Minh chiếm cứ nơi này cho đến khi vua Lê Thái Tổ đánh đuổi giặc
ra khỏi nước năm 1428, cấm không cho người Trung Hoa qua đó. Nhưng từ năm
1434 đến 1439, chợ Kỳ Lừa mới mở cho người dân Trung Hoa ở biên giới đến
buôn bán với người Thổ, Mán, Kinh và trở nên sầm uất. Đặc sản của Kỳ Lừa có
món nem chua ngon nổi tiếng.
Núi Tô Thị (núi Vọng Phu): Nằm ngay bên động Tam Thanh, giống như hình người
đàn bà ôm con. Theo tục truyền, người đàn bà tên là Tô Thị ôm con chờ chồng đi
chinh chiến miền xa mãi nên hóa thành đá. Truyền thuyết nói lên tấn lòng chung

thủy của người phụ nữ Việt Nam, đợi chồng cứu nước mà không phai lòng.
Chùa Tam Thanh: Thực ra là hang động, nhưng gọi là chùa vì Động Tam Thanh có
ba động nhỏ đều thờ Phật gọi là Nhất Thanh, Nhị Thanh và Tam Thanh, cả ba
động này đều thờ tượng Phật. Động Nhất Thanh nhỏ nhất, bên trong có thờ tượng
Phật và tượng Ngô Thì Sĩ, ông là cha của anh hùng Ngô Thì Nhậm. Ông Ngô Thì Sĩ
là một danh sĩ và sử gia nổi tiếng thời Lê mạt, đỗ Tiến sĩ năm 41 tuổi đời vua Lê
Hiển Tông (1766), làm quan đến chức Đốc Trấn Lạng Sơn. Ông sống giản dị, liêm
khiết, gần gũi giúp đỡ dân chúng. Khi ông mất, dân trong vùng tạc tượng thờ.
Bên cạnh, động Nhị Thanh không rộng lắm nhưng rất sâu, có thể đi sang bên kia
núi; phải có đèn mới xem được những nhũ đá trắng ngần, cấu tạo thành nhiều
hình dạng, và thấy các tượng thờ Phật Thích Ca, Lão Tử, Khổng Tử. Trước động
Nhị Thanh là núi Kỳ Cấp, trên núi có thành cổ, dân chúng cho là thành của nhà
Mạc. Đây cũng là nơi quân giặc Nguyên bị quân Phạm Ngũ Lão đánh chạy về Tàu.
Lên phía Bắc một chút là động Tam Thanh, leo 30 bậc mới đến cửa động. Động
không sâu nhưng cao đến 8 thước, bên ngoài cây cối um tùm, bên trong thờ
nhiều tượng Phật, có khắc thơ của Ngô Thì Sĩ làm vào khoảng năm 1775. Từ phía
trần đến hai bên vách đổ xuống nhiều nhũ đá long lanh, muôn màu muôn vẻ. Một
ngọn suối ngầm thấm vào trong động, chảy từng giọt tạo thành suối nhỏ chảy
16
dưới chân du khách. Động Tam Thanh hợp với phố Kỳ Lừa, núi Vọng Phu và sông
Kỳ Cùng đã tạo một bức tranh sơn thủy tuyệt đẹp. Trong thời tự chủ, Lạng Sơn
nổi danh quân sử vì ở vị trí chiến lược tiếp giáp với Trung Quốc, nhiều phen bị
giày xéo, và cũng nhiều phen chứng kiến những chiến công đánh đuổi ngoại xâm
lẫy lừng trong lịch sử. Sau này, Lạng Sơn sẽ trở thành một trung tâm phát triển
thương mại lớn, đem lại sự phồn thịnh cho cả vùng thượng du cực Bắc nước ta.
Vò Trí ñòa lí
• Có vị trí 20°27'-22°19' vĩ Bắc và 106°06'-107°21' kinh Đông. Phía bắc giáp tỉnh Cao Bằng:
55 km, Phía đông bắc giáp Sùng Tả (Quảng Tây, Trung Quốc): 253 km, Phía nam giáp
tỉnh Bắc Giang: 148 km, Phía đông nam giáp tỉnh Quảng Ninh: 48 km, Phía tây giáp tỉnh
Bắc Kạn: 73 km, Phía tây nam giáp tỉnh Thái Nguyên: 60 km.

• Lạng Sơn có hai cửa khẩu quốc tế: cửa khẩu đường sắt Đồng Đăng và cửa khẩu đường
bộ Hữu Nghị; có hai cửa khẩu quốc gia: Chi Ma (Huyện Lộc Bình), Bình Nghi (Huyện
Tràng Định), Tân Thanh (Huyện Văn Lãng), Cốc Nam (Huyện Cao Lộc) và 7 cặp chợ biên
giới với Trung Quốc.

Địa hình
Đồi núi chiếm hơn 80% diện tích cả tỉnh. Dạng địa hình phổ biến ở Lạng Sơn là núi thấp và
đồi, độ cao trung bình 252 m so với mặt nước biển. Nơi thấp nhất là 20 m ở phía nam huyện
Hữu Lũng và nơi cao nhất là núi Mẫu Sơn 1541 m. Mẫu Sơn cách thành phố Lạng Sơn 30
17
km về phía đông, được bao bọc bởi nhiều ngọn núi lớn nhỏ, thỉnh thoảng có tuyết rơi vào
mùa đông.
Khí hậu, thời tiết
Khí hậu của Lạng Sơn thể hiện rõ nét khí hậu miền Bắc Việt Nam. Khí hậu phân mùa rõ rệt,
ở các mùa khác nhau nhiệt độ phân bố không đồng đều do sự phức tạp của địa hình miền
núi và sự biến tính nhanh chóng của không khí lạnh trong quá trình di chuyển ở vùng nội chí
tuyến đã gây nên những chênh lệch đáng kể trong chế độ nhiệt giữa các vùng.
• Nhiệt độ trung bình năm: 17-22°C
• Lượng mưa trung bình hàng năm: 1200-1600 mm
• Độ ẩm tuơng đối trung bình năm: 80-85%
• Luợng mây trung bình năm khoảng 7,5/10 bầu trời
• Số giờ nắng trung bình khoảng 1600 giờ
Huớng gió và tốc độ gió của Lạng Sơn vừa chịu sự chi phối của yếu tố hoàn lưu, vừa bị biến
dạng bởi địa hình. Mùa lạnh thịnh hành gió Bắc, mùa nóng thịnh hành gió Nam và Đông
Nam. Tốc độ gió nói chung không lớn, trung bình 0,8-2 m/s song phân hoá không đều giữa
các vùng trong tỉnh.
Hệ thống sông ngòi
Mật độ sông suối của Lạng Sơn thuộc loại trung bình đến khá dày, qua địa phận có các sông
chính là:
• Sông Kỳ Cùng Độ dài: 243 km, Diện tích lưu vực: 6660 km², Bắt nguồn từ vùng núi Bắc

Xa cao 1166 m thuộc huyện Đình Lập, sông Kỳ Cùng thuộc lưu vực sông Tây Giang
Trung Quốc. Đây là con sông duy nhất ở miền Bắc Việt Nam chảy theo hướng Đông Nam
- Tây Bắc, do vậy mảnh đất xứ Lạng còn được gọi là "nơi dòng sông chảy ngược".
• Sông Bản Thín, phụ lưu của sông Kỳ Cùng.Độ dài: 52 km, Diện tích lưu vực: 320 km²,
Sông Ba Thín bắt nguồn từ vùng núi cao thuộc Quảng Tây (Trung Quốc) đổ vào bờ phải
sông Kỳ Cùng ở xã Khuất Xá huyện Lộc Bình.
• Sông Bắc Giang, phụ lưu của sông Kỳ Cùng.Độ dài: 114 km, Diện tích lưu vực: 2670 km²,
• Sông Bắc Khê, phụ lưu của sông Kỳ Cùng,Độ dài: 54 km,Diện tích lưu vực: 801 km²
• Sông Thương Là sông lớn thứ hai của Lạng Sơn, bắt nguồn từ dãy núi Na Pa Phước
(huyện Chi Lăng) chảy trong máng trũng Mai Sao - Chi Lăng và chảy vào địa phận tỉnh
Bắc Giang.Độ dài: 157 km,Diện tích lưu vực: 6640 km²
• Sông Hoá Độ dài: 47 km, Diện tích lưu vực: 385 km²
• Sông Trung, Độ dài: 35 km, Diện tích lưu vực: 1270 km²
Các đơn vị hành chính
18
Núi đá vôi trên Quốc lộ 1A ở Lạng Sơn
Lạng Sơn có một thành phố tỉnh lỵ là thành phố Lạng Sơn và 10 huyện:
• Tràng Định
• Văn Lãng
• Văn Quan
• Bình Gia
• Bắc Sơn
• Hữu Lũng
• Chi Lăng
• Cao Lộc
• Lộc Bình
• Đình Lập
Thay đổi hành chính
Lạng Sơn là một trong 13 tỉnh được vua Minh Mạng thành lập đầu tiên ở Bắc Kỳ (năm 1831).
Từ ngày 9/9/1891 đến ngày 20/6/1905, là Tiểu quân khu Lạng Sơn thuộc Đạo Quan binh II

Lạng Sơn. Sau đó tái lập tỉnh.
Ngày 7/6/1949, huyện Lộc Bình của tỉnh Hải Ninh nhập vào tỉnh Lạng Sơn.
Trong kháng chiến chống Pháp, Lạng Sơn thuộc Liên khu Việt Bắc. Năm 1950 tỉnh Lạng Sơn
có 10 huyện: Bằng Mạc, Bắc Sơn, Bình Gia, Cao Lộc, Điềm He, Lộc Bình, Ôn Châu, Thoát
Lãng, Tràng Định, Văn Uyên.
Ngày 1/7/1956, huyện Hữu Lũng của tỉnh Bắc Giang nhập vào tỉnh Lạng Sơn và tỉnh Lạng
Sơn thuộc Khu tự trị Việt Bắc (được thành lập cùng ngày). Khu tự trị Việt Bắc tồn tại đến
27/12/1975.
Ngày 16/12/1964, huyện Điềm He cùng 6 xã của huyện Bằng Mạc hợp nhất thành huyện mới
Văn Quan; huyện Ôn Châu cùng 8 xã còn lại của huyện Bằng Mạc hợp nhất thành huyện
mới Chi Lăng.
Từ 27/12/1975 đến 29/12/1978 nhập với tỉnh Cao Bằng thành tỉnh Cao Lạng, rồi lại tách ra
như cũ.
Ngày 29/12/1978 tái lập tỉnh Lạng Sơn, đồng thời sáp nhập huyện Đình Lập của tỉnh Quảng
Ninh vào tỉnh Lạng Sơn. Như vậy tỉnh Lạng Sơn có 10 huyện với tên gọi như hiện nay.
19
Dân cư
Dân số vào khoảng 733.700 người (năm 2001);có 7 dân tộc anh em, trong đó người dân tộc
Nùng chiếm 42,97%, Tày chiếm 35,92%,Kinh 16,5%,còn lại là các dân tộc Dao,Hoa, Sán
Chay, H'Mông
Văn học
Lạng Sơn có nhiều thắng cảnh nổi tiếng, được nhắc đến nhiều trong thi ca Việt Nam, ví dụ
như bài ca dao truyền khẩu dưới đây
Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa
Có nàng Tô Thị, có chùa Tam Thanh
Ai lên xứ Lạng cùng anh
Bõ công bác mẹ sinh thành ra em
Tay cầm bầu rượu nắm nem
Mải vui quên hết lời em dặn dò.
Tràng Định

Tràng Định là một huyện thuộc tỉnh Lạng Sơn.
Vị trí địa lý
Huyện nằm ở phía bắc tỉnh Lạng Sơn, phía bắc giáp huyện Thạch An (Cao Bằng),
phía tây giáp huyện Na Rì (Bắc Cạn), phía đông giáp Quảng Tây(Trung Quốc), phía
nam là huyện Bình Gia và Văn Lãng
Diện tích, dân số, giao thông
Huyện có diện tích 995km2 và dân số 60.000 người (năm 2004). Huyện lỵ là thị trấn
Thất Khê nằm trên đường quốc lộ 4 cách thành phố Lạng Sơn khoảng 60km về
hướng tây bắc, tỉnh lộ 227 theo hướng tây nam đi huyện Na Rì (Bắc Kạn)
Các đơn vị hành chính
• Huyện ly: thị trấn Thất Khê
• các xã:
1. xã Khánh Long
2. xã Đoàn Kết
3. xã Cao Minh
4. xã Tân Yên
5. xã Vĩnh Tiến
6. xã Tân Tiến
7. xã Bắc Ái
8. xã Kim Đồng
12.xã Hùng Sơn
13.xã Hùng Việt
14.xã Kháng Chiến
15.xã Đại Đồng
16.xã Tri Phương
17.xã Quốc Khánh
18.xã Đội Cấn
19.xã Tân Minh
20
9. xã Chí Minh

10.xã Chi Lăng
11.xã Đề Thám
20.xã Trung Thành
21.xã Quốc Việt
22.xã Đào Viên
Kinh tế, xã hội
Đặc sản
Trạng Định nổi tiếng với đặc sản Lợn quay, Vịt quay và các loại hoa quản như: Mận Thất
Khê, Lê, Quít Kim Đồng
LANGSON
gov.vn
Trang thoâng tin
21
TRANG ẹềA PHệễNG
TặNH LAẽNG SễN
(Tài liệu su tầm, tham khảo - Lu hành nội bộ)
Vũ Văn Tích
Trờng THCS thị trấn Thất Khê
Tràng Định Lạng Sơn
(Email: )

Thaựng 3 naờm 2009
22

×