Tải bản đầy đủ (.doc) (49 trang)

de cuong on tap lich su 9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (354.88 KB, 49 trang )

Câu 1: Cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai của thực dân pháp ở Đông Dương
( 1919-1929). Nguyên nhân, nội dung, kết quả và tác động của nó?
a. Bối cảnh lịch sử:
Sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất ( 1914-1918), đế quốc pháp tuy là
nước thắng trận, nhưng nền kinh tế bị tàn phá nặng nề ( các ngành sản xuất
công, nông, thương, giao thông vận tải bị giảm sút nghiêm trọng; số nợ nước
ngoài tăng lên; các khoản đầu tư ở Nga bị mất trắng; đồng phơrăng mất giá).
Cuộc khủng hoảng thiếu trong các nước tư bản càng gây nên khó khăn cho kinh
tế Pháp.
Để hàn gắn những vết thương chiến tranh, bù đắp những thiệt hại to lớn
trong chiến tranh, trên cơ sở khôi phục và củng cố lại địa vị kinh tế của mình
trong hệ thống tư bản chủ nghĩa, đế quốc Pháp vừa bóc lột nhân dân lao động
trong nước, vừa ráo riết đẩy mạnh khai thác các thuộc địa.
b. Sự thực hiện chương trình khai thác ở Đông dương
Thực hiện chương trình khai thác lần thứ hai ở Đông Dương sau chiến
tranh, tư bản tài chính Pháp đã tăng cưòng đầu tư vào đông dương: Việt Nam -
Miên( CamPuchia) – Lào với quy mô và tốc độ nhanh gấp nhiều lần so với thời
kì trước chiến tranh. Riêng đối với Việt Nam, từ 1924 đến 1929 tổng số vốn đầu
tư vào Việt Nam đã gấp hơn 6 lần vốn đầu tư vào trong 20 năm trước chiến
tranh
Hai ngành được đầu tư nhiều nhất là nông nghiệp và công nghiệp
Về nông nghiệp, thực dân Pháp đẩy mạnh cướp đoạt ruộng đất của nông
dân để mở thêm đồn điền ( chủ yếu là đồn điền cao su)
Về công nghiệp, đẩy mạnh khai mỏ ( chủ yếu là mỏ than) đồng thời còn mở
thêm một số xí nghiệp chế biến không cạnh tranh với công nghiệp nước
Pháp( sợi, rượu, diêm, đường…)
Về thương nghiệp, độc chiếm thị trường ( dựng hàng rào thuế quan, đánh
thuế nặng vào hàng nhập của các nước khác…). Giao thông vận tải được phát
triển, cả về đường sắt lẫn đường bộ và đường biển. Tất cả các hoạt động trên đều
do ngân hang Đông Dương nắm.
Để phục vụ đắc lực cho chính sách khai thác, bóc lột kinh tế, thực dân


Pháp còn ra sức tăng cường bộ máy cai trị, đàn áp mang tính chất quân sự và thi
hành chính sách văn hoá giáo dục nô dịch.
Tình hình đó làm cho nền kinh tế thuộc địa ở Việt Nam có những chuyển
biến quan trọng. Nhưng chính sách khai thác thuộc địa về cơ bản vẫn không
thay đổi. Thực dân Pháp hết sức hạn chế công nghiệp phát triển, nhất là công
nghiệp nặng, làm cho Việt Nam vẫn là một nước có nền nông nghiệp lạc hậu, què
quặt phụ thuộc vào kinh tế Pháp.
Câu 2. Ảnh hưởng của cuộc khai thác thuộc địa lần hai của thực dân Pháp đối
với sự phân hoá giai cấp trong xã hội Việt Nam?
Chính sách khai thác thuộc địa sau chiến tranh của thực dân Pháp đã đưa
tới hậu quả về mặt xã hội chính trị làm cho sự phân hoá giai cấp ở Việt Nam
thêm nhanh chóng và sâu sắc hơn.
a. Các giai cấp cũ
Đối với giai cấp địa chủ, trước sau thực dân Pháp vẫn áp dụng chính sách
dung dưỡng để làm chỗ dựa cho nền thống trị của chúng. Sau chiến tranh, giai
cấp địa chủ Việt Nam đã tăng thêm về số lượng và thế lực cùng với sự mở rộng
khai thác của Pháp ( được mặc sức cướp đoạt ruộng đất của dân), đồng thời tăng
cường đàn áp về chính trị đối với nông dân. Tuy nhiên cũng có một bộ phận địa
chủ nhỏ và vừa có tinh thần yêu nước, nên có tham gia phong trào yêu nước khi
có điều kiện
Giai cấp công nhân chiếm trên 90% số dân là nạn nhân chủ yếu của cuộc
khai thác thuộc địa, gánh hậu quả nặng nề của chính sách cướp đoạt ruộng đất,
sưu cao thuế nặng. Bị xô đẩy vào một quá trình bần cùng hoá và phá sản hàng
loạt, không lối thoát vì bị tước đoạt ruộng đất mà chỉ một số ít được tiếp nhận
vào các cơ sở kinh tế của Pháp.
b. Các giai cấp mới
Giai cấp tư sản ra đời sau chiến tranh ( kinh doanh trong các ngành dịch
vụ, chế biến nông sản, công nghiệp nhẹ như bông vải sợi, xay xát, xà phòng…).
Vừa ra đời đã bị đế quốc, tư bản nước ngoài chén ép, kìm hãm nên thế lực rất
nhỏ yếu. Phát triển đến một mức nào đó thì phân hoá thành hai bộ phận: tầng

lớp tư sản mại bản có lợi ích kinh tế gắn liền với thực dân Pháp nên câu kết chặt
chẽ với chúng cả về kinh tế và chính trị; tầng lớp tư sản dân tộc có khuynh hướng
kinh doanh độc lập, ít nhiều có tinh thần dân tộc dân chủ chống đế quốc và
phong kiến.
Giai cấp tiểu tư sản, xuất hiện cùng thời với giai cấp tư sản. Sau chiến
tranh, phát triển rất nhanh về số lượng, bao gồm nhiều tầng lớp khác nhau ( giáo
viên, học sinh, sinh viên, viên chức, dân nghèo thành thị, những người buôn bán
nhỏ, thợ thủ công và những người làm nghề tự do). Tuy sinh hoạt và sự hiểu biết
không giống nhau, nhưng đều bị đế quốc, phong kiến áp bức, bóc lột, khinh rẽ.
Giai cấp công nhân đã ra đời ngay trong đợt khai thác đầu tiên của đế
quốc Pháp ở Việt Nam. Đến sau chiến tranh, có sự phát triển nhanh chóng về số
lượng ( từ khoảng 10 vạn người trước chiến tranh, đã lên tới trên 22 vạn người
sau chiến tranh), và về chất lượng( bắt đầu tiếp thu chủ nghĩa Mác- LêNin)
Câu 3. Những mâu thuẩn cơ bản trong xã hội Việt Nam lúc đó
Sau chiến tranh, hai mâu thuẩn cơ bản trong xã hội Việt Nam càng phát
triển sâu sắc hơn.
Đó là mâu thuẩn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với Chủ Nghĩa đế quốc
Pháp và mâu thuẩn giữa nhân dân lao động chủ yếu là nông dân với giai cấp địa
chủ phong kiến, trong đó mâu thuẩn giữa dân tộc Việt Nam với chủ nghĩa đế
quốc xâm lược Pháp và tay sai phản động là mâu thuẩn chủ yếu, đang diễn ra
ngày càng gay gắt.
Để giải quyết các mâu thuẩn đó, cách mạng Việt Nam phải thực hiện hai
nhiệm vụ cơ bản có quan hệ khắng khít với nhau là đánh đuổi chủ nghĩa đế quốc
giành độc lập dân tộc và đánh đổ giai cấp địa chủ phong kiến, giành lại ruộng
đất cho nông dân. Song trước hết phải đánh đuổi chủ nghĩa đế quốc và tay sai
phản động để giành độc lập tự do coi đó là nhiệm vụ chủ yếu hàng đầu của cách
mạng.
Lực lượng của cách mạng bao gồm công nhân, nông dân, tiểu tư sản, tư
sản dân tộc và các cá nhân yêu nước khác, trong đó giai cấp công nhân là giai
cấp có sứ mạng lịch sử nắm ngọn cờ lãnh đạo cách mạng.

Câu 4. Phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản ở Việt Nam từ
sau chiến tranh thế giới thứ nhất đến 1930.
Từ sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất ( 1914-1918), phong trào dân tộc
dân chủ ở nước ta phát triển mạnh mẽ, lôi cuốn mọi tầng lớp nhân dân tham gia
ngày càng đông với nhiều hình thức đấu tranh sôi nổi và phong phú, trong đo
giai cấp tư sản dân tộc và tiểu tư sản thành thị cũng có những hành động chống
thực dân Pháp theo khuynh hướng dân chủ tư sản.
Nhằm mục đích chống lại sự chèn ép, kìm hãm của tư bản Pháp, tư sản
Việt Nam đã tổ chức những phong trào chấn hưng nội hoá ( hàng hoá sản xuất
trong nước), bài trừ ngoại hoá ( hàng hoá nước ngoài mang vào, chủ yếu của
Pháp); đấu tranh chống độc quyền hải sảng Sài Gòn, chống độc quyền xuất cảng
lúa gạo Nam Kì.
Sau chiến tranh phong trào báo chí của tư sản cũng phát triển. Đảng lập
hiến ra đời ở Nam kì tập hợp lực lượng của tư sản và địa chủ đã đưa ra một số
khẩu hiệu đòi tự do dân chủ để tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của quần chúng,
nhưng khi thực dân Pháp nhượng bộ cho một số quyền lợi thì họ sẳn sang thoả
hiệp với Pháp.
Các hoạt động trên của giai cấp tư sản chỉ mang tính chất cải lương, giới
hạn trong khuôn khổ của chế độ thực dân phục vụ quyền lợi của các tầng lớp
trên, nên nhanh chóng bị phong trào quần chúng vượt qua.
Tầng lớp tiểu tư sản trí thức được tập hợp trong các tổ chức chính trị như
Việt Nam nghĩa đoàn, Phục Việt, Hưng Nam, Thanh niên cao vọng… đã có nhiều
hoạt động sôi nổi ( mít tinh, biểu tình, bãi khoá, lập các nhà xuất bản tiến bộ đề
ra sách báo cổ động tinh thần yêu nước, đòi các quyền tự do dân chủ)
Có một số sự kiện có tiếng vang lớn là cuộc đấu tranh đòi nhà cầm quyền
Pháp phải thả nhà yêu nước Phan Bội Châu (11/1925), lễ đưa tang và truy điệu
nhà yêu nước Phan Chu Trinh ( 3/1926), cuộc đấu tranh đòi nhà cầm quyền
pháp phải thả Nguyễn An Ninh ( 3/1926)
Song song và kế tiếp phong trào đấu tranh chính trị là một phong trào văn
hoá tiến bộ tuyên truyền tư tưởng dân tộc dân chủ .

Trong cao trào yêu nước dân chủ công khai của những năm 1925-1928 đã
ra đời Việt Nam quốc dân đảng (25/12/1927). Đây là một đảng cách mạng theo
khuynh hướng dân chủ tư sản, đại diện cho quyền lợi của tư sản dân tộc và tiểu
tư sản lớp trên…
Việt Nam quốc dân đảng sớm bị thực dân Pháp khủng bố … Cuộc khởi nghĩa
Yên Bái nổ ra ( 9/2/1930) và nhanh chóng bị dập tắt. Nó đã kéo theo sự tan rã của
Việt Nam quốc dân đảng. Cuộc khởi nghĩa đó tuy thất bại song nó đã góp phần cổ
vũ lòng yêu nước của nhân dân ta, đồng thời nó cũng biểu lộ tính chất non yếu và
không vững chắc của phong trào dân tộc dân chủ của tư sản dân tộc Việt Nam.
Câu 5. Nguyên nhân thất bại và ý nghĩa lịch sử của phong trào yêu nước và dân
chủ ở Việt Nam.
Các phong trào dân tộc dân chủ theo khuynh hướng dân chủ tư sản ở Việt
Nam, tiêu biểu nhất là hoạt động của Việt Nam quốc dân đảng, đã phát triển
mạnh từ sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất đều lần lượt đi đến thất bại vì giai
cấp tư sản dân tộc Việt Nam rất non kém về kinh tế, què quặt về chính trị.
Khuynh hướng chính trị theo con đường dân chủ của tư sản dân tộc Việt Nam
không thể đáp ứng được yêu cầu khách quan của sự nghiệp giải phóng dân tộc
của nhân dân ta, tổ chức kém, không đủ sức chống đỡ trước mọi thủ đoạn khủng
bố của kẻ thù để tồn tại và phát triển. Sự thất bại của phong trào dân tộc theo
khuynh hướng dân chủ tư sản bắt nguồn sâu xa từ cơ sở kinh tế và giai cấp xã
hội của Việt Nam sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất.
Câu 6.Tình hình giai cấp tư sản Việt Nam từ sau chiến tranh thế giới lần thứ
nhất đến đầu năm 1930.
Sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất ( 1914-1918), đế quốc Pháp ra sức
bóc lột nhân dân lao động trong nước, đồng thời đẩy mạnh khai thác các thuộc
địa, để hàn gắn những vết thương chiến tranh và khôi phục địa vị kinh tế của
chúng trong thế giới tư bản chủ nghĩa
Chính sách khai thác thuộc địa của tư bản Pháp thi hành ở Đông Dương
( trong đó có Việt Nam) sau chiến tranh đã làm cho xã hội Việt Nam ngày càng
phân hoá thêm sâu sắc. Giai cấp nông dân càng đi sâu hơn vào con đường bần

cùng hoá và phá sản trầm trọng, không lối thoát. Giai cấp địa chủ phong kiến
được đại diện bởi bộ máy vua quan bù nhìn và cường hào địa chủ ở nông thôn là
chổ dựa trực tiếp của thực dân Pháp, làm tay sai đắc lực cho chúng và cùng
chúng thống trị nhân dân ta. Giai cấp công nhân đã ra đời từ trước chiến tranh,
nay đang lớn mạnh nhanh chóng về số lượng và chất lượng để tiến tới trở thành
một lực lượng chính trị độc lập.
Nói riêng về giai cấp tư sản, trong đợt khai thác thuộc địa lần thứ nhất
trước chiến tranh chỉ mới là một tầng lớp xã hội nhỏ bé, thì sau chiến tranh cũng
có điều kiện phát triển về số lượng và tăng cường thế lực kinh tế. Họ vốn là
những người đứng trung gian làm thầu khoán cung cấp nguyên vật liệu, hay đại
lí tiêu thụ hang hoá cho tư bản Pháp. Dần dà với số vốn kiếm được tương đối, họ
đã đứng ra kinh doanh riêng và trở thành những nhà tư sản Việt Nam ( như
Bạch Thái Bưởi, Nguyễn Hữu Thu…). Họ cũng có thể vốn là một số sĩ phu nho
học chịu ảnh hưởng tư sản, nên hăng hái đứng ra mở hiệu buôn, lập xưởng thợ
kinh doanh theo lối mới. Sau chiến tranh họ càng đẩy mạnh thêm hoạt động
kinh tế. Họ có những xưởng chế xà phòng; nhà máy gạch, nhà máy rượu, xưởng
chế sơn, nhà máy in… những hiệu buôn lớn ( tơ lụa, gạo muối, đồ sơn, đồ
thêu…) có cả tàu thuỷ chạy trên sông biển, máy phát điện, đồn điền cao su, khai
mỏ… Một số địa chủ - tư sản Nam kì còn bỏ vốn lập Ngân hàng Việt Nam. Trên
đà đó, giai cấp tư sản Việt Nam đã ra đời vào khoảng trước năm 1924
Nhìn chung, giai cấp tư sản Việt Nam sau chiến tranh vẫn là một giai cấp
nhỏ yếu về kinh tế, vốn liếng chỉ bằng 50% vốn của tư bản nước ngoài; lại bị
chúng chèn ép, cạnh tranh ác liệt, nhiều khi bị phá sản. Vì vậy phát triển đến một
mức nào đó thì phân hoá thành hai bộ phận: tầng lớp tư sản mại bản có quyền lợi
dính liền với tư bản thực dân Pháp, do đó về chính trị câu kết chặt chẽ với chủ
nghĩa đế quốc; tầng lớp tư sản dân tộc có khuynh hướng kinh doanh độc lập, nên
ít nhiều có tinh thần dân tộc dân chủ chống đế quốc và phong kiến
Ngay sau khi ra đời, trong cao trào dân tộc dân chủ phát triển mạnh mẽ
sau chiến tranh, giai cấp tư sản dân tộc đã có những hành động chống lại dự
chèn ép, kìm hãm của tư bản pháp ( tổ chức các phong trào chấn hưng nội hoá,

bài trừ ngoại hoá, đấu tranh chống độc quyền hải cảng Sài Gòn, chống độc
quyền xuất cảng gạo Nam kì,… Một số tư sản và địa chủ Nam kì tổ chức Đảng lập
hiến để tập hợp lực lượng và đưa ra một số khẩu hiệu đòi tự do dân chủ để tranh
thủ sự đồng tình ủng hộ của quần chúng. Nhưng khi được thực dân Pháp
nhượng bộ cho một ít quyền lợi thì họ đi vào con đường thoả hiệp với Pháp và bị
phong trào quần chúng vượt qua. Những hoạt động vụ vặt của họ chỉ mang tính
chất cải lương.
Câu 7. Sự hình thành giai cấp công nhân Việt Nam và cuộc đấu tranh của công
nhân Việt nam từ tự phát lên tự giác
a. Sự hình thành giai cấp công nhân Việt Nam
- Công cuộc khai thác thuộc địa ở Đông dương của thực dân Pháp
Sau khi đặt được ách thống trị của chúng ở Đông Dương, thực dân Pháp
bắt tay thực hiện cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất ở Đông Dương. Thực dân
Pháp đã thi hành một số chính sách mới để biến Đông Dương thành một nơi khai
thác tài nguyên, bóc lột nhân công rẻ mạt và là nơi tiêu thụ hàng hoá
Sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất, thực dân Pháp thực hiện chương
trình khai thác thuộc địa lần thứ hai, tăng cường đầu tư vốn vào việc trồng lúa,
cao su, khai thác mỏ, kinh doanh ngành công nghiệp tiêu dùng…
Việt Nam thực sự trở thành một thuộc địa khai thác, bóc lột lợi nhuận siêu
ngạch của tư bản độc quyền Pháp; xã hội Việt Nam đã biến đổi sâu sắc.
Cơ cấu giai cấp ở nước ta đã có biển đổi mới: một số giai cấp mới ra đời,
đang chú ý là giai cấp công nhân.
Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời và phát triển trong quá trình khai
thác thuộc địa của thực dân Pháp và trưởng thành nhanh chóng trong những
năm 20 của thế kỉ XX.
Trước chiến tranh thế giới lần thứ nhất, giai cấp công nhân Việt Nam đã
hình thành, có khoảng 10 vạn người.
Sau chiến tranh, do thực dân Pháp đẩy mạnh chính sách khai thác thuộc
địa, giai cấp công nhân Việt Nam phát triển nhanh chóng. Năm 1929, số lượng
công nhân lên hơn 22 vạn, sống khá tập trung ở Hà Nội, Hòn Gai, Hải Phòng,

Nam Định, Vinh, Sài Gòn-Chợ Lớn.
Giai cấp công nhân Việt Nam là một giai cấp đại diện cho một lực lượng
sản xuất tiên tiến, sống tập trung nằm trong các ngành kinh tế chủ yếu của tư
bản Pháp ở Việt Nam. Họ bị đế quốc, phong kiến, tư sản bản xứ bóc lột nặng nề;
phần lớn từ nông dân vừa mới ra, nên có mối liên hệ tự nhiên với nông dân; có
truyền thống yêu nước bất khuất; ra đời và lớn lên giữa lúc Cách mạng tháng
Mười Nga đã thành công, nên sớm chịu ảnh hưởng của Chủ nghĩa Mac-Lênin.
Do điều kiện kinh tế, chính trị và lịch sử cụ thể của Việt Nam, giai cấp
công nhân là giai cấp duy nhất đại diện cho sự tiến hoá của xã hội Việt Nam,
người duy nhất có khả năng nắm gọn ngọn cờ giải phóng dân tộc, giải phóng lao
động ở nước ta.
b.Cuộc đấu tranh từ tự phát lên tự giác:
- Từ khi ra đời đén năm 1925. Thời kỳ này công nhân Việt Nam đã tham
gia vào nhiều cuộc đấu tranh của các phong trào yêu nước khác (đầu độc lính
Pháp ở Hà Nội, khởi nghĩa Thái Nguyên, Khởi nghiã Duy Tân v.v…). Ngoaì ra
công nhân còn có nhiều cuộc đấu tranh riêng biệt của mình. Đây cũng là thời kì
công nhân Việt Nam bước đầu đi vào con đường tổ chức như tham gia tổ chức
công đoàn của các thuỷ thủ Pháp và Trung Quốc, đặc biệt là sự ra đời của tổ
chức công hội do đồng chí Tôn Đức Thắng sáng lập. Tuy nhiên, các cuộc đấu
tranh của công nhân thời kì này còn ở mức độ thấp và còn phụ thuộc vào phong
trào yêu nước nói chung. Nhìn chung phong trào công nhân thời kì này tuy đã
phát triển, nhưng còn trong thời kì mang tính “tự phát” chưa tỏ rõ được là một
lực lượng chính trị độc lập, chưa có ý thức rõ rệt về sứ mệnh lịch sử của giai cấp
mình. Đến cuộc bãi công của công nhân xưởng đóng tàu Ba Son tháng 8-1925 đã
thể hiện một bước trưởng thành quan trọng của công nhân Việt Nam, đã tỏ rõ ý
thức về sức mạnh giai cấp của mình và tinh thần quốc tế vô sản của nó, giai cấp
công nhân nước ta từ đây bước đầu đi vào đấu tranh tự giác.
Từ 1925 đến 1929 Thời kỳ này có nhiều sự kiện tác động mạnh mẽ tới
phong trào công nhân Việt Nam: Sự ra đời của Việt Nam thanh niên cách mạng
đồng chí hội do Nguyễn Ái Quốc sáng lập và hoạt động sôi nổi của nó trong

phong trào công nhân, chủ nghĩa Mac- Lênin được truyền bá rộng rãi vào Việt
Nam, ảnh hưởng của phong trào cách mạng thế giới…Số lượng và quy mô các
cuộc đấu tranh của công nhân ngày cáng lớn, ý thức giác ngộ giai cấp của công
nhân ngày càng cao. Giai cấp công nhân dần dần trở thành một lực lượng chính
trị độc lập, có tác động lôi cuốn, quy tụ và dẫn đầu phong trào yêu nước nói
chung.
Trước tình hình phong trào công nhân và phong trào yêu nước phát triển,
yêu cầu thành lập một chính đảng của giai cấp công nhân đặt ra gay gắt. Đó là lí
do đưa đến sự ra đời của chi bộ cộng sản đầu tiên ở Bắc kì ( 3/1929) và sau đó là
sự tan rã của tổ chức Việt nam thanh niên cách mạng đồng chí hội và của Tân
Việt để đưa đến sự ra đời của ba tổ chức cộng sản đầu tiên: Đông dương cộng
sản đảng( 6/1929),An nam cộng sản đảng( 7/1929) và đông dương cộng sản liên
đoàn( 9/1929). Sự ra đời của ba tổ chức cộng sản này có ý nghĩa to lớn, nó thúc
đẩy phong trào công nhân phát triển mạnh mẽ.
Tuy nhiên sự hoạt động riêng rẽ của ba tổ chức nói trên gây ra những trở
ngại cho sự phát triển của phong trào. Yêu cầu của phong trào cách mạng và
công nhân nước ta đòi hỏi phải có một đảng cộng sản thống nhất. Nguyễn Ái
Quốc đã thực hiện vai trò lịch sử thống nhất của tổ chức đảng cộng sản tại hội
nghị Hương cảng. Đảng cộng sản Việt Nam ra đời ngày 3/2/1930. Sự kiện trọng
đại này đánh dấu giai cấp công nhân Việt Nam đã hoàn toàn trở thành giai cấp
tự giác, đủ sức đảm nhận sứ mệnh lịch sử vẻ vang: lãnh đạo cách mạng Việt
Nam.
Câu 8. Vị trí, vai trò của phong trào công nhân đối với sự thành lập Đảng cộng
sản Việt Nam
Phong trào công nhân phát triển mạnh, có ý thức chính trị rõ rệt( cùng với
phong trào yêu nước) đòi hỏi phải có sự lãnh đạo của tổ chức đảng cách mạng
tiên phong. Các tổ chức cộng sản lần lượt ra đời và thống nhất thành Đảng cộng
sản Việt Nam( 2/1930)
Đảng cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mac-
Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước của nhân dân Việt

Nam. Phong trào công nhân là một nhân tố để hình thành Đảng cộng sản Việt
Nam.
Câu 9. Sự thành lập Việt Nam quốc dân đảng và cuộc khởi nghĩa Yên Bái
Sau khi Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội và Tân việt cách
mạng đảng ra đời không bao lâu, thì Việt Nam quốc dân đảng cũng được thành
lập ( 25/12/1927). Nền tảng tư tưởng chính trị của chính đảng đó là chủ nghĩa
Tam dân của Tôn Trung Sơn, một trào lưu tư tưởng dân chủ tư sản thịnh hành
ở Trung quốc. Cương lĩnh chính trị đề ra một cách chung chung là làm cách
mạng dân tộc, xây dựng nền dân chủ, giúp đỡ các dân tộc bị áp bức … nhưng lại
không chủ trương đấu tranh giai cấp. Lãnh tụ Nguyễn Thái Học, Phạm Tuấn
Tài, Nguyễn Khắc Nhu và Phó Đức Chính. Đảng viên gồm sinh viên, học
sinh¸công chức, tư sản lớp dưới, người làm nghề tự do, và cả một số nông dân
khác, thân hào, địa chủ ở nông thôn và binh lính người Việt trong quân đội
Pháp.
Là một đảng bí mật mà tổ chức không khoa học, huấn luyện sơ sài, lại kết
nạp bừa bãi để cho bọn cơ hội và cả bọn mật thám của Pháp cũng chui vào tổ
chức được. Kẻ thù vì vậy đã theo dõi được hoạt động của Đảng, chờ cho bộc lộ
hết lực lượng sẽ ra tay trấn áp.
Ngày 9/2/1929 tại Hà Nội xảy ra vụ giết chết tên trùm mộ phu đồn điền cao
su người Pháp là Badanh ( Bazin). Bọn thực dân Pháp liền đẩy mạnh khủng bố,
tổ chức nhiều cuộc vay ráp lớn, cùng lúc bắt bớ những người của các tổ chức
chính trị bí mật. Việt nam quốc dân đảng bị tổn thất nặng nề hơn cả, cơ sở của
Đảng bị phá vỡ tan hoang, do sự chỉ điểm của bọn phản động và bọn mật thám.
Đứng trước tình hình nguy khốn đó, các lãnh tụ của đảng còn chưa sa lưới lại
chủ trương dốc hết lực lượng còn lại cho một cuộc bạo động, dù có “ không
thành công thì cũng thành nhân”
Kế hoạch định mở một cuộc tổng công kích tại nhiều nơi cùng một lúc,
nhưng vì hành động trong thế đối phó bị động, mệnh lệnh không thống nhất, việc
chuẩn bị vội vã, nên các nơi nổi lên không đều. Tuy vậy, quân khởi nghĩa đã nổi
dậy ở một số nơi: Yên bái ( 9/2/1930) và sau đó là Phú Thọ, Hải dương, Thái

bình… có nơi như Yên Bái, quân khởi nghĩa đã chiếm được trại lính, giết và làm
bị thương một số sĩ quan và hạ sĩ quan Pháp, song không làm chủ được tỉnh lị,
nên hôm sau thì bị quân Pháp phản công lại và tiêu diệt. Ở những nơi khác
nghĩa quân chỉ tạm thời chiếm được mấy huyện lị nhỏ.
Khởi nghĩa Yên Bãi bị thất bại nhanh chóng. Hơn 1000 đảng viên bị bắt,
lãnh tụ Nguyễn Thái Học và 12 đồng chí của ông lên đoạn đầu đài ở Yên Bái,
trước khi chết các chiến sĩ cách mạng đã hô to” Việt Nam vạn tuế!”
Câu 10. Nguyên nhân thất bại và ý nghĩa của cuộc khởi nghĩa Yên Bái
Khởi nghĩa Yên Bái đã thất bại nhanh chóng vì nhiều nguyên nhân. Về
khách quan, lúc đó đế quốc Pháp còn mạnh, đủ sức đàn áp một cuộc đấu tranh
vũ trang vừa cô độc, vừa non kém như khởi nghĩa Yên Bái. Về chủ quan, Việt
Nam quốc dân đảng vốn đã non yếu, lại không vững chắc về tổ chức và lãnh đạo.
Cơ sở đã chưa vững mà còn bị tan rã ở nhiều nơi trước khi nổ ra cuộc bạo động,
nội bộ thiếu thống nhất, nhất là trong chủ trương khởi nghĩa; tổ chức không
nghiêm mật, hàng ngũ phức tạp, để cho bọ phản cách mạng lọt vào phá hoại
Thất bại của cuộc khời nghĩa Yên Bái kéo theo luôn sự tan ra của chính
đảng đã phát động cuộc khởi nghĩa đó, đánh dấu sự phá sản hoàn toàn của
đường lối chính trị tư sản. Sau cuộc bạo động Yên Bái, ngọn cờ phản đế, phản
phong, ngọn cờ giải phóng dân tộc đã chuyển hẳn qua tay giai cấp vô sản ( Lê
Duẩn).
Câu 11. Sự ra đời của các tổ chức cộng sản Việt Nam( 1929)
Dưới tác động của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên phong trào cách
mạng ở trong nước đặc biệt là phong trào công nhân phát triển mạnh mẽ, nhu
cầu thành lập một tổ chức cộng sản để thay thế cho Hội Việt Nam cách mạng
thanh niên đặt ra cấp thiết.
Tháng 3/1929 chi bộ cộng sản đầu tiên ở Bắc Kỳ được thành lập
Tháng 6/1929 những hội viên tiến bộ nhất của Hội Việt Nam cách mạng
thanh niên đã quyết định thành lập ra Đông dương cộng sản đảng
Tháng 7/1929 những kế hội viên còn lại của Hội Việt Nam cách mạng
thanh niên ở Nam kỳ đã quyết định thành lập ra 1 tổ chức Đảng mới là An nam

cộng sản đảng
Tháng 9/1929 những kế thành viên tích cực của Tân việt cách mạng đảng
chịu ảnh hưởng tư tưởng cơ bản đã quyết định thành lập ra đông dương cộng
sản liên đoàn
Như vậy từ tháng 6-9/1929 ở Việt Nam đã xuất hiện 3 tổ chức cộng sản,
điều đó chứng tỏ sự phát triển của phong trào công nhân nói riêng và phong trào
yêu nước nói chung. Tuy nhiên trong quá trình hoạt động để lôi kéo quần chúng,
3 tổ chức cộng sản này đã tìm cách nói xấu lẫn nhau gây ra tình trạng chia rẽ
trong phong trào cách mạng, sự chia rẽ đó rất ngang nhiên
Quốc tế cộng sản nhận thấy tình trạng chia rẽ trong phong trào cách mạng
ở Việt Nam và chỉ thị cho những người cộng sản ở Việt Nam phải thống nhất với
nhau để thành lập ra Đảng cộng sản Đông Dương.
Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc là người thực hiện xứ mệnh lịch sử, tổ chức hội
nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản tại Hương cảng thành lập ra Đảng cộng sản
Việt Nam tháng 2/1930
Câu 12. Quá trình vận động thành lập ĐCSVN của Nguyễn Aí Quốc:
Quá trình vận động thành lập đảng ta là một quá trình đấu tranh và chuẩn
bị lâu dài của Nguyễn Ái Quốc và những người Cách mạng Việt Nam. Quá trình
đó được bắt đầu từ năm 1920 khi Nguyễn Ái Quốc tiếp thu chủ nghĩa Mac-
Lênin, trở thành người cộng sản đầu tiên và kết thúc ngày 3-2-1930 khi Đảng ta
ra đời.
a. Chuẩn bị tích cực về tư tưởng, chính trị và tổ chức cho việc thành lập
Đảng.
Sau một thời gian dài gian khổ ra đi tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc
đã đi đến với chủ nghĩa Mac-Lênin. Tại đại hội Đảng Xã hội Pháp ở Tua (12-
1920). Người ta bỏ phiếu tán thành gia nhập quốc tế thứ ba tham gia lập Đảng
Cộng sản Pháp. Người đã tích cực hoạt động để truyền bá chủ nghĩa Mac-Lênin
vào trong nước, chuẩn bị về tư tưởng và tổ chức cho việc thành lập Đảng ta.
Ở Pháp: Người thành lập “Hội liên hiệp các dân tộc thuộc địa” nhằm tuyên
truyền cách mạng trong nhân dân thuộc địa. Người viết nhiều sách báo, đặc biệt

là báo Người cùng khổ và quan trọng nhất là cuốn Bản án chế độ thực dân Pháp.
Các sách báo này lên án mạnh mẽ chế độ thực dân, thức tỉnh lòng yêu nước của
nhân dân và tuyên truyền chủ nghĩa Mac-Lênin. Các sách báo đó được bí mật
đưa về nước gây ảnh hưởng rất to lớn.
Ở Liên Xô (từ giữa năm1923): Người hoạt động trong Quốc tế cộng sản,
tham gia nhiều hội nghị quốc tế quan trọng. Người tìm hiểu chế độ Xô viết,
nghiên cứu kinh nghiệm tổ chức đảng kiểu mới của Lênin, tiếp tục tuyên truyền
các quan điểm của Lênin về các vấn đề dân tộc và thuộc địa. đặc biệt bản báo
cáo của Người tại Đại hội Quốc tế cộng sản lần thứ V đã phác hoạ ra những nét
cơ bản của phương hướng chiến lược trong cách mạng giải phóng dân tộc.
Ở Trung Quốc (từ cuối năm 1924): Người sáng lập ra Việt Nam thanh niên
cách mạng đồng chí hội có hạt nhân là Cộng sản đoàn. Đó là tổ chức tiền than
của Đảng ta sau này.
Người sáng lập báo Thanh niên tiếp tục viết nhiều tài liệu, bài giảng để
huấn luyện cán bộ. Các tài liệu này đã dược tập hợp lại in thành cuốn sách
Đường cách mệnh, có ý nghĩa làm kim chỉ nam cho những người cách mạng Việt
Nam lúc đó.
Thông qua hoạt động của Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội,
chủ nghĩa Mac –Lênin đã được tiếp tục truyền bá vào trong nước, phong trào
cách mạng nước ta phát triển sôi nổi, một đội ngũ những người cách mạng kiểu
mới do Nguyễn Ái Quốc đào tạo, đã trưởng thành. Hoạt động của Việt Nam
thanh niên cách mạng đồng chí hội gây tiến vang to lớn, ảnh hưởng tới các tổ
chức yêu nước khác (tổ chức Tân Việt đã chuyển dần hoạt động của mình theo
khuynh hướng cộng sản chủ nghĩa). Những điều kiện để thành lập chính đảng
mác xít ở Đông Dương đã dần dần hình thành.
b. Cuộc đấu tranh trực tiếp để đưa đến thành lập chính đảng mác xít ở Việt
Nam:
Hoạt động tích cực của Nguyễn Ái Quốc và những người cách mạng Việt
Nam đã đưa tới sự chín muồi của những điều kiện để thành lập chính đảng mác
xít ở Đông Dương. Tổ chức thanh niên cách mạng đồng chí hội không còn phù

hợp nữa. Cuộc đấu tranh để thành lập chính đảng mác xít đã bắt đầu diễn ra gay
gắt trong nội bộ những người cách mạng Việt Nam. Đó là lý do để dẫn tới sự ra
đời của chi bộ cộng sản đầu tiên ở Bắc kì (3-1929), của Đông Dương cộng sản
đảng (6-1929), An nam cộng sản đảng (7-1929) và Đông Dương cộng sản liên
đoàn (9-1929)
Sự ra đời của các tổ chức cộng sản nói trên đánh dấu bước phát triển vượt
bậc của phong trào công nhân nước ta trên con đường tiến tới tự giác. Tuy nhiên
sự hoạt động riêng rẽ của các tổ chức này gây nên những tác động tiêu cực. Được
uỷ nhiệm của quốc tế cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã triệu tập hội nghị hợp nhất ở
Hương Cảng để lập ra Đảng cộng sản Việt Nam ngày 3/2/1930.
Câu 13. Hoàn cảnh lịch sử và nội dung của hội nghị thành lập đảng
a. Hoàn cảnh lịch sử:
Năm 1929 phong trào công nhân Việt Nam phát triển mạnh, ý thức giai
cấp, ý thức chính trị ngày càng rõ rệt; cùng với các phong trào đấu tranh yêu
nước khác kết thành một làn sóng cách mạng dân tộc dân chủ mạnh mẽ, trong
đó giai cấp công nhân đã thực sự trở thành lực lượng tiên phong. Thực tiễn đòi
hỏi cấp thiết sự lãnh đạo thống nhất, chặt chẽ của một chính đảng duy nhất của
giai cấp công nhân
Trong khi đó, ở Việt Nam đã xuất hiện ba tổ chức cộng sản, hoạt động
riêng rẽ, công kích lẫn nhau, tranh giành quần chúng, ảnh hưởng không tốt đến
phong trào.
Trước tình hình ấy, được sự uỷ nhiệm của quốc tế cộng sản, Nguyễn Ái
Quốc đã triệu tập hội nghị đại biểu các tổ chức cộng sản họp ở Hương Cảng từ
ngày 3 đến 7/2/1930 để hợp nhất thành một đảng cộng sản duy nhất.
b. Nội dung Hội nghị thành lập Đảng
Nguyễn Ái Quốc phân tích tình hình trong và ngoài nước, phê bình những
hành động thiếu thống nhất giữa các tổ chức cộng sản, đề nghị các tổ chức cộng
sản đoàn kết, thống nhất lại thành một đảng duy nhất. Các đại biểu dự hội nghị
đã nhất trí bỏ mọi thành kiến, xung đột cũ, thành thật hợp tác để thống nhất các
tổ chức cộng sản ở Đông Dương thành một đảng cộng sản duy nhất là Đảng cộng

sản Việt Nam.
Thông qua chính cương vắn tắt, sách lược vắn tắt và điều lệ vắn tắt của
Đảng do Nguyễn Ái Quốc khởi thảo
Vạch kế hoạch về nước tiến hành hợp nhất các tổ chức cộng sản và cử Ban
chấp hành trung ương lâm thời.
Câu 14. Tại sao nói sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam là bước ngoặt lịch
sử của cách mạng Việt Nam?
Đảng ra đời, chấm dứt thời kì khủng hoảng sâu sắc về giai cấp lãnh đạo và
đường lối cứu nước ở nước ta trong mấy chục năm đầu thế kỷ XX. Sự kiện đó
chứng tỏ rằng ” giai cấp vô sản nước ta đã trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách
mạng” ( Hồ Chí Minh)
Đảng ra đời với cương lĩnh cách mạng đúng đắn là sự chuẩn bị tất yếu đầu
tiên cho mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đảng là nhân tố quyết định
phương hướng phát triển thắng lợi của cách mạng nước ta
Đảng ra đời, cách mạng Việt Nam thất sự trở thành một bộ phận khăng
khít của cách mạng thế giới. Kể từ đây, cách mạng Việt Nam nhận được sự ủng
hộ của cách mạng thế giới, đồng thời, cách mạng Việt Nam cũng góp phần mình
cho cách mạng thế giới.
Câu 15. Nguyên nhân bùng nổ của cao trào cách mạng 1930-1931
- Cuộc khủng hoảng trong thế giới tư bản 1929-1933 tác động mạnh mẽ tới
Việt Nam. Thực dân Pháp đã thi hành chính sách bóc lột và vơ vét rất phản
động, đã trút hậu quả khủng hoảng kinh tế lên đầu nhân dân ta, làm cho nhân
dân ta hết sức khổ cực. Mâu thuẩn xã hội gây gắt. Đó là nguyên nhân sâu xa và
trực tiếp đưa đến cao trào cách mạng 1930-1931
- Đảng ta ra đời ngày 3/2/1930, với đường lối chính trị đúng đắn, có sức tập
hợp lực lượng rất to lớn.
- Ảnh hưởng của phong trào cách mạng quốc tế đối với Việt Nam ( Liên
Xô đang xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, Quảng Châu công xã…)
Trong ba nguyên nhân trên, thì nguyên nhân thứ hai là chủ yếu và quyết
định nhất. Bởi vì nếu không có sự lãnh đạo đúng đắn, thì mâu thuẩn xã hội lúc

đó nhiều nhất cũng chỉ dẫn đến những cuộc đấu tranh lẻ tẻ, tự phát chứ không
thể trở thành một cao trào tự giác, vĩ đại như vậy được.
Câu 16. Phân tích và chứng minh cao trào cách mạng 1930-1931
Đây là một cao trào cách mạng rất triệt để; cao trào cách mạng này hoàn
toàn không có ảo tưởng với kẻ thù dân tộc và giai cấp, nó nhằm trúng hai kẻ thù
cơ bản của cách mạng nước ta là đế quốc và phong kiến ; đánh đổ đế quốc pháp
và phong kiến Nam Triều, thành lập chính quyền công nông binh. Cao trào đã
thanh toán hoàn toàn và dứt khoát với chủ nghĩa cải lương tư sản ( có thể so
sánh thêm với các phong trào yêu nước trước đó)
Đây là một cao trào cách mạng có quy mô rộng lớn; cao trào này thu hút
hàng triệu người tham gia, khắp trong phạm vi cả nước, kéo dài gần hai năm
trời, lực lượng chủ yếu là công nhân và nông dân, có nhiều cuộc đấu tranh rất
lớn, rất tiêu biểu ( biểu tình của gần 5.000 công nhân và nông dân Vinh - Bến
thủy ngày 1/5/1930 đòi tăng lương, giảm giờ làm, chống khủng bố). Đây là lần
đầu tiên công nhân và nông dân sát cánh nhau trong một cuộc đấu tranh. Thực
dân Pháp đàn áp dã man, giết hại và bắt bớ hơn 100 người. Trong tháng 9/1930
nông dân huyện Thanh Chương bao vây đốt trụ sở huyện, nông dân huyện Can
Lộc biểu tình đòi giảm thuế than, giảm tô… Thực dân Pháp đàn áp rất dã man.
Trong hai năm 1930-1931 đã diễn ra hàng nghìn cuộc đấu tranh lớn nhỏ của
quần chúng khắp nơi, nhưng điển hình và quyết liệt nhất là ở hai tỉnh Nghệ an
và Hà Tỉnh.
Đây là một cao trào cách mạng có hình thức đấu tranh rất quyết liệt. Có
nhiều hình thức đấu tranh sôi sục như mít tinh, biểu tình thị uy, bãi công, có
những cuộc đấu tranh quy mô rất lớn, tiến công địch quyết liệt như đập phá
huyện đường, phá nhà lao, buộc bọn thống trị phải thừa nhận yêu sách, nhiều
nơi chúng phải chạy trốn. Đặc biệt là quần chúng đã dùng bạo lực cách mạng để
đập tan chính quyền địch ở nhiều thôn xã ở hai tỉnh Nghệ an và Hà tỉnh, thành
lập được chính quyền xô viết và đấu tranh duy trì chính quyền đó hàng mấy
tháng trời. Từ trong phong trào quần chúng, các đội tự vệ đỏ ra đời, góp phần
tích cực chống địch khủng bố và bảo vệ quần chúng

Tóm lại, cao trào cách mạng 1930-1931 mà đỉnh cao là Xô viết Nghệ tỉnh là
một cao trào cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân xuất hiện ở nước ta. Đó là cao
trào cách mạng đầu tiên do Đảng ta lãnh đạo.
Câu 17. Ý nghĩa lịch sử và bài học kinh nghiệm của cao trào cách mạng 1930-
1931
Mặc dầu cao trào này bị đế quốc dìm trong biển máu, nhưng đây là bước
thắng lợi đầu tiên, có ý nghĩa quyết định đối với toàn bộ tiến trình phát triển về
sau của cách mạng nước ta. Qua cao trào đã khẳng định được những nhân tố cơ
bản đầu tiên bảo đảm cho mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đó là: vai trò
lãnh đạo cách mạng của Đảng đã được khẳng định trong thực tiễn. Qua cao trào
chứng tỏ đường lối chính trị của Đảng là đúng đắn, chứng tỏ năng lực tổ chức và
lãnh đạo của Đảng; uy tín của Đảng lên rất cao trong quần chúng
Chính quyền xô viết ra đời ở nhiều nơi trong hai tỉnh Nghệ an và Hà tỉnh.
Tuy chỉ tồn tại trong thời gian ngắn, nhưng đã có sức cổ vũ mạnh mẽ nhân dân
ta tiến lên.
Đảng ta đã trưởng thành nhanh chóng, được quốc tế cộng sản công nhận
là một chi bộ độc lập, sánh vai cùng các đảng anh em khác. Cao trào đã để lại
cho Đảng ta nhiều bài học quý báu để chỉ đạo cách mạng về sau.
Vì vậy, Đảng ta coi cao trào này là cuộc tập dượt vĩ đại đầu tiên của cách
mạng Việt Nam, một bước chuẩn bị để đưa cách mạng tháng tám 1945 đến thắng
lợi.
Câu 18. Hoàn cảnh lịch sử và chủ trương của Đảng ta trong cao trào vận động
dân chủ 1936-1939
a. Hoàn cảnh lịch sử:
Tình hình quốc tế: Chủ nghĩa phát xít ra đời và đã lên cầm quyền ở một số
nước ( Đức – Ý - Nhật), đang đe doạ trực tiếp loài người; Đaị hội quốc tế cộng
sản lần thứ 7 ( 7/1935) đã có sự chuyển hướng chỉ đạo nhằm tập hợp lực lượng
quần chúng chỉa mũi nhọn đấu tranh vào chủ nghĩa phát xít, bảo vệ hoà bình.
Phong trào chống phát xít của nhân dân thế giới phát triển mạnh mẽ, đặc biệt là
ở Pháp. Mặt trận nhân dân Pháp đã lên cầm quyền và hứa thi hành một số

quyền tự do dân chủ, có ảnh hưởng tới Đông Dương. Chúng ta có thể lợi dụng
tình hình đó để phát động một phong trào đấu tranh rộng rãi của quần chúng.
Tình hình trong nước: Khủng hoảng kinh tế 1929-1933 tiếp theo là khủng
bố trắng kéo dài, đời sống nhân dân Đông Dương hết sức ngột ngạt, yêu cầu cải
thiện đời sống và các quyền tự do dân chủ đặt ra rất bức thiết; Đảng ta và phong
trào cách mạng nước ta đã được hồi phục sau thời kỳ cách mạng tạm thời lắng
xuống
b. Chủ trương của Đảng
Căn cứ vào tình hình trên, vận dụng sự chỉ đạo của Quốc tế cộng sản vào
hoàn cảnh cụ thể, Hội nghị trung ương Đảng lần thứ nhất ( mùa hè 1936) đã
quyết định sự chuyển hướng chỉ đạo cách mạng. Các Hội nghị trung ương tiếp
theo đã hoàn thành sự chuyển hướng đó. Nội dung sự chuyển hướng này là:
Mục tiêu trước mắt của cách mạng là tạm gác khẩu hiệu” Đánh đổ đế quốc
pháp, Đông Dương hoàn toàn độc lập”, “ tịch thu ruộng đất của địa chủ chia cho
dân cày” vấn đề dân tộc dân chủ đặt ra ở mức độ thấp. Cụ thể là kẻ thù của
nhân dân Đông Dương lúc này không phải là thực dân Pháp nói chung mà bọn
phản động thuộc địa và tay sai. Đấu tranh đòi tự do cơm áo hoà bình, chống phát
xít, chống chiến tranh.
Để thực hiện nhiệm vụ đó. Đảng quyết định thành lập Mặt trận dân chủ
Đông Dương ( lúc đầu gọi là Mặt trận nhân dân phản đế đông dương) nhằm tập
hợp tất cả các giai cấp, tầng lớp, đảng phái và cá nhân, thậm chí cả một bộ phận
tầng lớp trên và những người Pháp ở Đông dương có xu hướng dân chủ tham
gia. Các tổ chức quần chúng của mặt trận đều thay đổi cho phù hợp; công hội,
nông hội được thay bằng các hội cứu tế, ái hữu; đoàn thanh niên cộng sản được
thay bằng đoàn thanh niên dân chủ…
Phương pháp cách mạng là tận dụng mọi hình thức tổ chức và đấu tranh
công khai và nửa công khai hợp pháp và nửa hợp pháp để vận động quần chúng.
Bên cạnh hoạt động bí mật, lần đầu tiên Đảng đưa một bộ phận ra hoạt động
công khai.
Câu 19. Chứng minh cao trào vận động dân chủ 1936-1939 là một cao trào đấu tranh

rộng lớn, thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia với nhiều hình thức đấu
tranh phong phú?
a. Cao trào đấu tranh rộng lớn thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia.
Có nhiều cuộc đấu tranh tiêu biểu, thu hút rất đông đảo quần chúng đủ
mọi giai cấp, tầng lớp, ngành nghề, cá nhân có xu hướng dân chủ tham gia, như
phong trào Đông Dương đại hội, các cuộc” đón rước” Gôđa và toàn quyền
Bơriviê; mít tinh ngày 1/5/1938 tại Hà Nội…
Phong trào đấu tranh của công nhân: hàng năm có hàng trăm cuộc đấu
tranh của công nhân, bao gồm từ những công nhân ở các đồn điền, xí nghiệp đến
các người lao động bình thường, đòi các quyền tự do dân chủ như tăng lương,
giảm giờ làm, đòi lập nghiệp đoàn… Từ những cuộc đấu tranh lẻ tẻ đến những
cuộc đấu tranh quy mô lớn, ảnh hưởng vang dội như: đấu tranh của công nhân
mỏ than Hòn Gai - Cẩm Phả ( 11/1936), của công nhân xe lửa Trường Thi, công
nhân đướng sắt toàn Đông Dương( 7/1937)…
Phong trào nông dân: hàng năm cũng có hàng trăm cuộc, đặc biệt đấu
tranh của nông dân Nam Kì đòi các quyền tự do dân chủ, chống đói…
Các tầng lớp lao động khác: Tiểu thương, viên chức, học sinh, sinh viên
cũng tham gia rất đông đảo, thậm chí cả bộ phận tầng lớp trên và một số người
Pháp dân chủ tham gia( như cuộc mít tinh 1/5/1938 ở Hà Nội, vận động bầu cử
viện dân biểu ở Bắc kì, Trung kì…)
b. Nhiều hình thức đấu tranh phong phú
Các đoàn thể quần chúng, các tổ chức ái hữu, các hội quần chúng ( thể
thao, đọc sách, cứu tế…) mọc lên khắp nơi.
Biểu tình, mít tinh, hội thảo, “ đón rước”, bãi công, hoạt động bí mật, công
khai hợp pháp, đấu tranh kinh tế, chính trị
Các hình thức đấu tranh nghị trường và tư tưởng văn hoá cũng được Đảng
ta sử dụng triệt để. Trong các cuộc bầu cử vào “Nghị viện” và một số tổ chức
khác, người của mặt trận đều giành được thắng lợi lớn. Sách báo tiến bộ bằng
tiếng việt và tiếng pháp được phổ biến rộng rãi như báo Tin Tức, Dân chúng,
Lao động…cuốn ” Vấn đề dân cày” ( của Trường Chinh và Võ Nguyên Giáp)…

Các sách báo này đã vạch trần tội ác của giặc, bênh vực, cổ vũ và tuyên truyền
giác ngộ quần chúng, có tác dụng rất to lớn.
Câu 20. Ý nghĩa lịch sử của cao trào vận động dân chủ 1936-1939
Giáo dục chủ nghĩa Mac- LêNin, giáo dục đường lối chính sách của Đảng
cho hàng triệu quần chúng. Uy tín và ảnh hưởng của đảng ăn sâu hơn nữa trong
quần chúng.
Đảng đã xây dựng được một ” đội quân chính trị” đông đảo không chỉ có
nông dân, công nhân mà còn có cả các tầng lớp khác gồm hàng triệu người khắp
thành thị và nông thôn. Đảng đã đào tạo được một đội ngũ cán bộ đông đảo.
Để lại cho Đảng nhiều bài học thực tiễn quý báu để chỉ đạo cách mạng về
sau
Vì vậy Đảng ta coi đây là cuộc tổng diễn tập lần thứ hai của cách mạng
Việt Nam để đưa đến cách mạng tháng tám 1945 thắng lợi
Câu 21. Trong thời kỳ 1939-1945 vì sao Đảng ta phải đưa nhiệm vụ giải phóng
dân tộc lên hàng đầu?
Vấn đề giải phóng dân tộc đến thời kỳ 1939-1945 có điều kiện đặt ra một
cách cấp bách, trở thành vấn đề nổi lên hàng đầu trong chủ trương chỉ đạo chiến
lược mới của Đảng ( đề ra từ trong Hội nghị trung ương lần thứ 6 ( 11/1939) và
đến Hội nghị trung ương lần thứ 8 ( 5/1941) thì hoàn chỉnh
Những điều kiện đó là:
Chiến tranh thế giới lần thứ hai ( 1939-1945) bùng nổ. Nước pháp tham
chiến. Bọn phát xít Đức tấn công xâm lược nhiều nước ở châu âu, tấn công Liên
xô tháng 6/1941
Nhân dân Liên xô, bắt đầu từ cuối tháng 6/1941 tiến hành cuộc kháng
chiến chống phát xít, bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa, liên tiếp giành được thắng
lợi, đã tạo điều kiện thuận lợi cho các dân tộc đấu tranh giải phóng khỏi ách đế
quốc, giải phóng dân tộc
Nước pháp tham gia chiến tranh chống phát xít, nhưng chẳng bao lâu bọn
phản động lên cầm quyền ở Pháp đã đầu hàng. Thực dân Pháp ở Đông Dương
thừa dịp đó tấn công cách mạng, nhưng khi Nhật vào Đông Dương thì đầu hàng

Nhật. Tất cả những sự kiện trên đã bộc lộ bản chất của thực dân Pháp vừa phản
động, vừa hèn nhát trước nhân dân Đông Dương.
Pháp- Nhật ở Đông dương trong tình cảnh “ một cổ phải chịu hai tròng”.
Mâu thuẩn giữa dân tộc Việt Nam với đế quốc phát xít Pháp Nhật trở nên gay
gắt hơn bao giờ hết. Trong lúc này khẩu hiệu của Đảng ta là trước hết phải làm
sao giải phóng cho dân tộc Đông dương ra khỏi ách của phát xít Nhật Pháp. Vì
vậy, đảng đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu, tạm gác khẩu hiệu cách
mạng ruộng đất, chỉ đề ra khẩu hiệu giảm tô, giảm tức, tịch thu ruộng đất của đế
quốc và bọn phản bội quyền lợi dân tộc đem chia cho nông dân nghèo
Câu 22. Thời kỳ 1939-1945, nhân dân ta đã chuẩn bị lực lượng và tập dượt đấu
tranh để tiến lên khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền như thế nào?
Công việc chuẩn bị cho một cuộc khởi nghĩa vũ trang là nhiệm vụ trung
tâm của toàn Đảng, toàn dân và đến khi nhật đảo chính Pháp thì công việc chuẩn
bị càng khẩn trương mạnh mẽ
a. Chuẩn bị lực lượng
Tổ chức lực lượng chính trị:
Thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất để đoàn kết rộng rãi mọi tầng lớp
nhân dân, đấu tranh chống đế quốc, giải phóng dân tộc; đầu tiên là Mặt trận dân
tộc thống nhất phản đế đông dương( Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 6
năm 1939) với những đoàn thể quần chúng trong mặt trận là những “ Hội phản
đế”, tiếp đó là Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh ( Việt Minh)( Nghị quyết
Hội nghị trung ương lần thứ 8 năm 1941)với những đoàn thể quần chúng trong
mặt trận là những “ hội cứu quốc”
Đảng cũng rất chú ý đoàn kết trong mặt trận các tầng lớp tiểu tư sản trí
thức, học sinh, sinh viên, tư sản dân tộc, đã đề ra bản đề cương văn hoá ( 1943),
vận động thành lập hội văn hoá cứu quốc Việt Nam, thành lập đảng dân chủ Việt
Nam, chú ý vận động binh lính Việt Nam trong quân đội Pháp, tranh thủ cả
những người ngoại kiều ở đông dương chống phát xít
Xây dựng lực lượng vũ trang:
Đầu tiên là đội du kích Bắc Sơn ( ra đời trong khởi nghĩa Bắc Sơn), sau

thống nhất lại thành cứu quốc nhân, đến tháng 12/1944 thành lập thêm Đội Việt
Nam tuyên truyền giải phóng quân theo chỉ thị của Hồ Chí Minh, cuối cùng đến
tháng 5/1945 Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân và cứu quốc quân hợp
nhất thành Việt Nam giải phóng quân.
Ngày 16/4/1945, Hội nghị quân sự cách mạng Bắc kì họp đã quyết định:
thống nhất các lực lượng vũ trang thành Việt Nam giải phóng quân; mở trường
đào tạo cấp tốc cán bộ quân sự, chính trị, phát triển lực lượng vũ trang; phát
triển chiến tranh du kích; xây dựng căn cứ kháng Nhật, chuẩn bị Tổng khởi
nghĩa cho kịp thời cơ ; thành lập uỷ ban quân sự cách mạng Bắc Kì để chỉ huy
các chiến khu miền Bắc và giúp đỡ toàn quốc về mặt quân sự
Thành lập căn cứ địa:
Thành lập căn cứ địa Bắc Sơn- Vũ nhai sau khởi nghĩa Bắc Sơn, thành lập
căn cứ địa Cao Bằng khi Hồ Chí Minh về nước( đầu năm 1941). Hai căn cứ địa
này phát triển rộng ra, đến 1943 thì liên lạc được với nhau, hoạt động phối hợp
nhau
Tháng 6-1945, khu giải phóng Việt Bắc gồm 6 tỉnh ( Cao bằng, bắc cạn, lạng sơn,
hà giang, tuyên quang, thái nguyên) được thành lập; uỷ ban lâm thời khu giải
phóng do Hồ chí Minh đứng đầu, thi hành 10 chính sách của Việt Minh. Khu
Việt Bắc là hình ảnh thu nhỏ của nước Việt Nam độc lập sau này. Nhiều chiến
khu khác lần lượt ra đời
b. Tập dượt đấu tranh
- Cuộc khởi Bắc Sơn, Nam Kì, binh biến đô lương cuối 1940 đầu 1941
- Bắc Sơn – Vũ nhai tiến hành chiến tranh du kích trong 8 tháng ( 7/1941
đến 2/1942)
- Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân vừa thành lập đã chiến thắng
liền 2 trận ở Phay Khắt và Nà Ngần ( Cao Bằng) ngày 25 và 26/12/1944 và các
trận chiến đấu khác
- Ở Thái nguyên, đội cứu quốc quân đã hạ đồn Chợ chu, tiến đánh Chiêm
Hoá, Tam Đảo, Vĩnh Yên
- Những cuộc đấu tranh chính trị vũ trang, những cuộc nổi dậy phá kho

thóc địch, giải quyết nạn đói… sôi nổi mở đầu thời kì tiền khởi nghĩa, nhiều cuộc
khởi nghĩa từng phần nổ ra trong các tỉnh vùng Việt Bắc, nổi dậy ở Nghĩa Lộ
( Yên Bái), khởi nghĩa Ba Tơ ( Quảng Ngãi) (3/1945)
Những cuộc khởi nghĩa và đấu tranh đó là bước đầu tập dượt quần chúng
đứng dậy giành chính quyền, tiến lên Tổng khởi nghĩa khi thời cơ đã đến, đó là
lúc Nhật đầu hàng Đồng Minh ( giữa tháng 8/1945)
Câu 23. Hoàn cảnh lịch sử và nội dung Hội nghị lần thứ 8 của BCH Trung
ương Đảng ( 5/1941)
a. Hoàn cảnh lịch sử:
Thế giới: Chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ và nhanh chóng lan rộng
ra nhiều nước. Phát xít Đức ráo riết chuẩn bị xâm lược Liên Xô. Nhật mở
rộng xâm lược Trung Quốc và tiến công xuống phía Nam.
Trong nước: tháng 9-1940 Nhật nhảy vào Đông Dương. Pháp đầu hàng và câu
kết với Nhật, áp bức bóc lột nhân dân. Nhân dân các dân tộc ở Đông Dương
phải chịu hai tầng áp bức của Pháp- Nhật. Mâu thuẩn giữa các dân tộc ở
Đông Dương với Pháp-Nhật trở nên sâu sắc hơn bao giờ hết. Vận mệnh dân
tộc nguy vong không lúc nào bằng.
Nhân dân các dân tộc ở Đông Dương ngày càng cách mạng hoá. Nhiều
cuộc đấu tranh đã nổ ra. Tiêu biểu là các cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn, khởi
nghĩa Nam Kì và cuộc binh biến Đô Lương.
Tháng 2-1941, Nguyễn Ái Quốc về nước, trực tiếp lãnh đạo phong trào
cách mạng Cao Bằng, thí điểm xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc để cứu
nước, mở nhiều lớp huấn luyện cán bộ.
Phong trào cách mạng ở căn cứ Bắc Sơn – Vũ Nhai được duy trì và phát
triển.
Tháng 5-1941 Hội nghị lần thứ 8 của Ban chấp hành trung ương đảng họp tại
Pác Bó (Cao Bằng) do Nguyễn Ái Quốc chủ trì.
b. Nội dung Hội nghị
- Vạch rõ mâu thuẩn chủ yếu đòi hỏi phải được giải quyết cấp bách là mâu
thuẩn giữa các dân tộc Đông Dương với bọn đế quốc phát xít xâm lược

Pháp-Nhật.
- Xác định nhiệm vụ bức thiết nhất của cách mạng là giải phóng dân tộc, vì
“quyền lợi của tất cả các giai cấp bị cướp giật, vận mạng dân tộc nguy
vong không lúc nào bằng”. Hội nghị chỉ rõ: “Trong lúc này, quyền lợi của
bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia dân
tộc. Trong lúc này, nếu không đòi được độc lập tự do cho toàn thể dân tộc
thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu,
mà quyền lợi của bộ phận, của giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại
được.
- Chủ trương tiếp tục tạm gác khẩu hiệu “tịch thu ruộng đất của giai cấp địa
chủ chia cho dân nghèo” thay bằng khẩu hiệu “tịch thu ruộng đất của bọn đế
quốc và Việt gian chia cho dân cày nghèo, giảm tô, giảm tức, chia lại ruộng
đất công”, tiến tới thực hiện “người cày có ruộng”.
Như vậy, vấn đè ruộng đất chỉ được đề ra ở một mức độ nhất định, nhằm
phân hoá giai cấp địa chủ, tập trung mũi nhọn đấu tranh vào bọn phát xít
Pháp-Nhật.
- Căn cứ tình hình cụ thể của cách mạng mỗi nước ở Đông Dương, Hội nghị
chủ trương giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ mỗi nước ở Đông
Dương. Song các dân tộc ở Đông Dương phải đoàn kết cùng nhau chống kẻ
thù chung là Pháp-Nhật, đồng thời liên hệ mật thiết với Liên Xô và các lực
lượng dân chủ chống phát xít.
Quyết định thành lập ở Việt Nam một mặt trận lấy tên là “Việt Nam độc
lập đồng minh”( Việt Minh) bao gồm các tổ chức quần chúng mang tên “cứu
quốc”, nhằm tập hợp, đoàn kết mọi lực lượng quần chúng nhân dân chống kẻ
thù chính là phát xít Pháp - Nhật và tay sai
Sau khởi nghĩa thắng lợi sẽ lập ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, lấy cờ
đỏ ngôi sao vàng năm cánh làm lá cờ toàn quốc
Hội nghị còn đề ra chủ trương khởi nghĩa vũ trang. Coi việc chuẩn bị khởi
nghĩa vũ trang là nhiệm vụ trung tâm của toàn Đảng, toàn dân; vạch rõ khởi
nghĩa vũ trang muốn thắng lợi phải nổ ra đúng thời cơ, phải có đủ điều kiện

chủ quan và khách quan; chủ trương đi từ khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng
khởi nghĩa.
Câu 24. Ý nghĩa và tác dụng của sự chuyển hướngchỉ đạo chiến lược của hội
nghị trung ương 8 đối với công cuộc xây dựng lực lượng chuẩn bị khởi nghĩa vũ
trang giành chính quyền của nhân dân ta?
Hội nghị lần thứ 8 đã hoàn chỉnh sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách
mạng của Đảng được đề ra từ Hội nghị lần thứ 6( 11/1939): Kiên quyết
giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa
hai nhiệm vụ chiến lược chống đế quốc và chống phong kiến; đồng thời đề ra
phương pháp cách mạng cụ thể.
Chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng của Hội nghị có
tác dụng quyết định trong việc động viên toàn đảng toàn dân ta tích cực
chuẩn bị tiến tới cách mạng tháng tám
Theo chủ trương của Hội nghị, Mặt trận Việt Minh ra đời và phát triển
nhanh chóng, xây dựng khối đoàn kết toàn dân vững chắc. Từ lực lượng cách
mạng đã được nuôi dưỡng từ trước, lực lượng chính trị quần chúng lớn
mạnh, thêm nữa lực lượng vũ trang lần lượt ra đời, các căn cứ địa cách mạng
được thành lập. Phong trào đấu tranh phát triển mạnh, rộng khắp nông thôn
và đô thị.
Thức tỉnh ý thức dân tộc, tinh thần đấu tranh tự giải phóng, phát huy sức
mạnh của mỗi dân tộc ở Đông Dương
Hội nghị lần thứ 8 của Trung ương đảng có tác dụng quyết định đối với
thắng lợi của Cách mạng tháng tám.
Câu 25. Diễn biến của cao trào “kháng nhật cứu nước” và ý nghĩa của nó đối
với thắng lợi của tổng khởi nghĩa tháng 8/1945
a. Diễn biến của cao trào “ Kháng nhật, cứu nước”
Sau Hội nghị Thường vụ trung ương( 3/1945), Hội nghị quân sự Bắc Kì
họp ( 4/1945) nhằm chuẩn bị thêm một bước nữa của Tổng khởi nghĩa( thống
nhất Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân và cứu quốc quân thành Việt Nam
giải phóng quân, phát triển lực lượng tự vệ và tự vệ chiến đấu, lập uỷ ban quân

sự cách mạng…) Hồ Chí Minh từ cao bằng về Tân Trào( Tuyên quang) để chỉ
đạo cách mạng. Cả nước dấy lên cao trào kháng NHật cứu nước sôi nổi, mạnh
mẽ. Cao trào này có quy mô rất rộng lớn thu hút hang triệu quần chúng tham
gia với những hình thức đấu tranh phong phú, quyết liệt, thích ứng với thời kỳ
quá độ tiến lên tổng khởi nghĩa.
Phong trào khởi nghĩa từng phần, chiến tranh du kích cục bộ, thành lập
chính quyền cách mạng ở nhiều nơi ( Ba Tơ, Đông Triều…, nhất là vùng căn cứ
địa Cao- Bắc - Lạng, Bắc Sơn- Vũ Nhai). Nhiều chiến khu xuất hiện. Tháng
6/1945, khu giải phóng bao gồm 6 tỉnh Việt Bắc ra đời. Các uỷ ban nhân dân và
Uỷ ban giải phóng xuất hiện ở nhiều nơi. Phong trào đấu tranh ở các thành thị
cũng diễn ra rất sối nổi( diệt tể trừ gian, võ trang tuyên truyền…)
Phong trào phá kho thóc của giặc Nhật, giải quyết nạn đói đã đáp ứng yêu
cầu rất bức thiết của quần chúng, vì vậy đã lôi cuốn được hàng triệu người tham
gia, gây ảnh hưởng chính trị vang dội.
Công tác tuyên truyền, báo chí của Đảng phát triển mạnh mẽ; hầu hết các
báo cách mạng đều ra công khai gây tác động to lớn tới phong trào quần chúng.
b. Ý nghĩa của cao trào đối với tổng khởi nghĩa
Là một bước phát triển vượt bậc của cách mạng nước ta lúc này, làm tiền
đề để đưa nhân dân ta tiến tới tổng khởi nghĩa thắng lợi
Đã lôi cuốn hàng triệu quần chúng vào trận tuyến đấu tranh với kẻ thù,
rèn luyện họ qua các hình thức đấu tranh phong phú, quyết liệt. Đây là một cuộc
tập dượt vĩ đại để đưa quần chúng trực tiếp tiến tới tổng khởi nghĩa khi thời cơ
tới.
Qua cao trào, lực lượng cách mạng( cả chính trị, vũ trang, nông thôn và
thành thị) đều phát triển vượt bực, còn lực lượng kẻ thù thì suy yếu nhanh
chóng, đưa thời cơ tổng khởi nghĩa chóng chín muồi
Chính nhờ quá trình chuẩn bị lực lượng lâu dài, bền bỉ, nhất là sự phát
triển của cách mạng qua cao trào “ Kháng nhật, cứu nước”, đã làm cho nhân
dân ta chớp được thời cơ “ ngàn năm có một” đưa Tổng khởi nghĩa tháng tám
đến thắng lợi nhanh chóng.

Câu 26. Phân tích thời cơ của cuộc Tổng khời nghĩa tháng 8 năm 1945 và nêu
rõ vì sao nói đây là thời cơ ngàn năm có một?
a. Thời cơ của cuộc tổng khởi nghĩa tháng tám chin muồi khi:
Được tập hợp và rèn luyện qua quá trình chuẩn bị lực lượng, đặc biệt là
qua cao trào “ Kháng Nhật, cứu nước”, quần chúng cách mạng trong cả nước đã
sẳn sàng để vùng dậy
Đảng cộng sản Đông Dương đã chuẩn bị đầy đủ, có quyết tâm phát động
và lãnh đạo quần chúng giành chính quyền
Tháng 8/1945, Nhật đầu hàng Liên Xô và các nước Đồng minh vô điều
kiện, quân Nhật ở Đông Dương vô cùng hoảng hốt, chính quyền bù nhìnảnần
Trọng Kim tê liệt, mất hết chổ dựa. Kẻ thù đang hoang mang tan rã đến cao độ.
b. Nói đây là thời cơ “ ngàn năm có một” là vì: giữa lúc phát xít Nhật và tay
sai đang hoang mang tan rã như vậy thì cả một tập đoàn đế quốc ( Anh, Pháp)
và quân Tưởng Giới Thạch đang ráo riết kéo vào Đông Dương. Vì vậy phải
giành chính quyền từ tay Nhật, lật đổ bọn bù nhìn tay sai, đứng ở địa vị người
chủ nước nhà mà đón tiếp quân Đồng minh vào giải giáp quân Nhật. Nếu hành
động chậm trễ khi quân Đồng minh vào đông dương là thời cơ không còn nữa.
Câu 27. Diễn biến chính của tổng khởi nghĩa tháng 8 năm 1945
a. Diễn biến cuộc Tổng khởi nghĩa
Ngay sau khi có tin Nhật đầu hàng Đồng minh, Hội nghị toàn quốc của
Đảng đã họp và quyết định phát động cuộc tổng khởi nghĩa trong cả nước, lập uỷ
ban khởi nghĩa toàn quốc, định ra các chủ trương biện pháp bảo đảm cho tổng
khởi nghĩa thắng lợi. Sau đó Quốc dân Đại hội đã họp tán thành chủ trương tổng
khởi nghĩa của Đảng và thông qua 10 chính sách lớn của Việt Minh, định ra
quốc kì, quốc ca, lập uỷ ban dân tộc giải phóng toàn quốc…Uỷ ban khởi nghĩa ra
quân lệnh số 1, hạ lệnh khởi nghĩa
Chớp lấy thời cơ, nhân dân cả nước đã nhất tề vùng dậy giành chính
quyền cả ở nông thôn và thành thị trong vòng 15 ngày. Khởi nghĩa thắng lợi ở
Hà Nội(19/8), Huế(23/8) và Sài Gòn(25/8) đóng vai trò quyết định thắng lợi của
cách mạng tháng tám. 30/8 Bảo Đại thoái vị, chấm dứt chế độ quân chủ tồn tại hàng

nghìn năm ở Việt Nam.
Toàn dân đã xuống đường tuần hành thị uy, có vũ trang thô sơ tiến hành
khởi nghĩa, đập tan chính quyền địch. Một số cuộc tấn công quân sự đã diễn ra ở
một số nơi ( Hà Đông, Thái Nguyên, Tuyên Quang…) Trước sức mạnh của cách
mạng, chính quyền địch bị tan rã nhanh chóng
Ngày 2/9/1945 tại Quảng Trường Ba đình lịch sử, Hồ Chí Minh đã đọc bản
Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, đánh dấu Cách
mạng tháng tám hoàn toàn thắng lợi
b. Tính chất toàn dân của cuộc vùng dậy vĩ đại đó của nhân dân ta thể hiện
ở chổ: tất cả các lực lượng của quần chúng nhân dân, trước hết là công nhân và
nông dân, bao gồm lực lượng chính trị và vũ trang, ở cả nông thôn và thành thị,
bao gồm mọi hình thức đấu tranh, trong đó lực lượng chính trị có vũ trang thô
sơ, giữ vai trò chủ yếu, lực lượng vũ trang đóng vai trò xung kích để đập tan
chính quyền địch.
Câu 28. Nguyên nhân thắng lợi, ý nghĩa và bài học kinh nghiệm của cách mạng
tháng 8/1945
a. Ý nghĩa thắng lợi của Cách mạng tháng tám
Đập tan ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc tồn tại trên đất nước ta gần
một thế kỷ, lật đổ chế độ phong kiến tồn tại ở nước ta hàng nghìn năm, lập nên
nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á.
Đây là bước ngoặt vĩ đại của Cách mạng Việt Nam
Thắng lợi đó đã đưa nhân dân ta từ địa vị nô lệ thành người làm chủ, Đảng
ta từ hoạt động bí mật trở thành Đảng cầm quyền, bắt đầu mở ra một kỷ nguyên
mới trong lịch sử dân tộc: kỷ nguyên độc lập tự do; nhân dân ta đã có chính
quyền cách mạng trọng tay làm vũ khí sắc bén đưa cách mạng tiến lên đến thắng
lợi cuối cùng
Đây là thắng lợi vĩ đại của một dân tộc vốn là thuộc địa củ chủ nghĩa đế
quốc, cổ vũ mạnh mẽ phong trào cách mạng thế giới, đặc biệt là phong trào giải
phóng dân tộc ở châu Á, châu Phi và Mỹ la tinh
Là thắng lợi của tư tưởng độc lập tự do của Hồ Chí Minh, của đường lối

cách mạng giải phóng dân tộc của Đảng… nó đã để lại nhiều bài học kinh
nghiệm cách mạng làm phong phú kho tang lí luận cách mạng của chủ nghĩa
Mác- LêNin
b. Nguyên nhân thắng lợi của cách mạng tháng 8
- Về khách quan: Hồng quân liên Xô và các lực lượng đồng minh chiến
thắng chủ nghĩa phát xít, trực tiếp là phát xít Nhật đã góp phần tạo nên thời cơ
vô cùng thuận lợi để nhân dân ta vùng dậy giành chính quyền.
-Về chủ quan: Trước hết là do sự lãnh đạo ủa Đảng ta, đứng đầu là Hồ chí
Minh. Đảng ta chuyển hướng chỉ đạo cách mạng kịp thời, chỉa mũi nhọn vào chủ
nghĩa đế quốc, lấy nhiệm vụ khởi nghĩa vũ trang làm trọng tâm, ra sức chuẩn bị
lực lượng, chớp đúng thời cơ, kiên quyết lãnh đạo nhân dân vùng dậy Tổng khởi
nghĩa . Nếu không có Đảng, không có cách mạng tháng tám, thì không có nước
Việt Nam dân chủ cộng hoà
Đồng thời, đó còn do toàn dân đoàn kết và đấu tranh rất anh dũng dưới sự
lãnh đạo của Đảng. Tinh thần đó thể hiện qua ba cuộc tập dượt vĩ đại ( cao trao
1930-1931, 1936-1939 và trực tiếp là cao trào giải phóng dân tộc 1939-1945)
Các nguyên nhân trên đây nguyên nhân chủ quan là quyết định nhất.
Câu 29. Nội dung cơ bản của bản “tuyên ngôn độc lập” ngày 2/9/1945 của
nước Việt Nam dân chủ cộng hoà
Ngày 2/9/1945, tại Hà Nội, Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập,
công bố trước quốc dân và Thế giới, nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đã được
thành lập. Nội dung cơ bản của bản Tuyên ngôn gồm mấy điểm sau:
Nêu lên quyền dân tộc cơ bản của các dân tộc trên thế giới, khẳng định
quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm của nhân dân ta là quyền tự do, độc lập
mà họ đã anh dũng đấu tranh, đã giành lấy từ tay nhật. “ Tất cả các dân tộc trên
thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung
sướng và quyền tự do”, “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do độc lập và sự
thật đã thành một nước tự do và độc lập”
Khẳng định quyết tâm của nhân dân Việt Nam để bảo vệ quyền dân tộc
của mình: “ Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng,

tính mạng và của cải để giữ vững tự do, độc lập ấy”.
Bản Tuyên ngôn độc lập là một văn kiện lịch sử có giá trị tư tưởng và có ý
nghĩa thực tiễn sâu sắc. Đó là một thiên anh hung ca chiến đấu và chiến thắng
trong sự nghiệp đấu tranh vì độc lập tự do và toàn vẹn lãnh thổ của nhân dân
Việt Nam.
Câu 30. Từ tháng 9/1945 đến tháng 12/1946 nước Việt nam dân chủ cộng hoà
có những thuận lợi và khó khăn như thế nào?
1. Thuận lợi
Nước ta thoát khỏi sự lệ thuộc bên ngoài, giành được độc lập nhân dân ta
đã tháo gỡ mọi xiềng xích nô lệ giành được tự do, Đảng ta đã nắm được chính
quyền trong cả nước, giành quyền lãnh đạo hợp pháp.
Nhân dân ta vốn có truyền thống yêu nước, truyền thống chống ngoại xâm,
đã theo Đảng làm nên sự nghiệp cách mạng tháng tám, từng đổ máu giành lại
độc lập tự do, bước đầu được hưởng và thấy giá trị những quyền đó, nên càng
quyết tâm bảo vệ nó
Đảng được tôi luyện qua các cao trào cách mạng và thử thách trước đó,
nhất là qua thử thách trong cách mạng tháng tám, càng trưởng thành trong lãnh
đạo. Lãnh tụ Hồ chí minh đứng đầu Nhà nước, vững tay lái đưa con thuyền cách
mạng Việt Nam vượt qua sóng gió, thác ghềnh
2. Khó khăn
Khó khăn rất lớn, trực tiếp đe doạ sự tồn vong của chính quyền cách mạng
Khó khăn do chế độ thuộc địa - phong kiến để lại, do hậu quả của chiến
tranh đế quốc. Sản xuất đình trệ, nông dân mất ruộng đất, công nhân viên chức
mất việc làm, đồng bạc mất giá. Nghèo nàn, lạc hậu, đói kém, dốt nát, các tệ nạn
xã hội tràn lan
Khó khăn do sự non yếu của chính quyền cách mạng đang trong thời kì
còn trứng nước, sự thiếu kinh nghiệm của nhân dân và của Đảng cầm quyền.
Ngân quỹ nhà nước trống rỗng. Chính quyền cách mạng không nắm được ngân
hàng và độc quyền phát hành giấy bạc…
Khó khăn do kẻ thù của chính quyền cách mạng gây ra, sau thắng lợi của

cách mạng, một lực lượng đế quốc đông và mạnh đua nhau vào nước ta dưới
những danh nghĩa khác nhau. Dưới danh nghĩa Đồng minh, vào tước khí giới
quân Nhật, 20 vạn quân Tưởng vào phía Bắc vĩ tuyến 16, hơn 1 vạn quân Anh
vào phía nam. Núp dưới bóng quân đội Anh là quân Pháp với số lượng ngày
càng tăng và với một kế hoạch xâm chiếm trở lại nước ta. Tất cả bọn chúng đều
có hậu thuận ủng hộ của Mĩ. Bám theo chân chúng là những đảng phái tổ chức
phản động, tay sai như Việt quốc, Việt cách…
Giữa bọn chúng có mâu thuẩn nhau về quyền lợi ở Việt Nam và Đông
Dương, nhưng do bản chất phản động, đế quốc chủ nghĩa, tất cả bọn chúng đều
thù địch cách mạng, thù địch với nền độc lập tự do của ta. Chúng có âm mưu
chung là thủ tiêu thành quả cách mạng tháng tám, thủ tiêu Đảng cộng sản, thủ
tiêu chính quyền cách mạng, phá khối đoàn kết dân tộc của nhân dân ta…
Chúng gây cho cách mạng nước ta không ít khó khăn trở ngại: đưa ra nhiều yêu
sách về kinh tế, gây sức ép về chính trị, đe doạ về quân sự, gây rối loạn trật tự xã
hội
Tất cả những khó khăn đó là rất to lớn, đã đặt cách mạng nước ta trong
tình thế hiểm nghèo; chính quyền cách mạng như “ ngàn cân treo sợi tóc”
Câu 31. đảng và Nhà nước ta đã có chủ trương và biện pháp gì để xây dựng và
bảo vệ chính quyền, giữ gìn độc lập dân tộc, kết quả và ý nghĩa.
Để xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng, giữ gìn độc lập dân tộc vừa
giành được - mục tiêu của cách mạng nước ta sau thắng lợi của cách mạng tháng
tám, Đảng và Nhà nước ta đề ra nhiều chủ trương và biện pháp:
a. Phát huy thắng lợi, khắc phục khó khăn trước mắt:
- Giải quyết nạn đói kém, những tệ nạn xã hội mà nổi lên là nạn mù chữ.
Đó là 2 trong 3 loại giặc của nước ta lúc này: đói, dốt, giặc ngoại xâm; lại còn
nạn tài chính quẫn bách
Các biện pháp giải quyết: tăng gia sản xuất. Đó là biện pháp cơ bản và lâu
dài của cách mạng; tiết kiệm trong việc dùng lương thực hợp lý, thực hiện “hủ
gạo tiết kiệm”, tổ chức “ ngày đồng tâm” nhường cơm sẻ áo, phát động “ tuần lễ
vàng”…; lập Nha bình dân học vụ (8/9/1945), kêu gọi toàn dân tham gia phong

trào xoá nạn mù chữ
Xây dựng chính quyền vừa giành được thật vững mạnh, thật sự là của dân,
do dân bầu ra, được dân tin yêu ủng hộ. Các biện pháp giải quyết: tổ chức sớm
cuộc tổng tuyển cử bầu Quốc hội (6/1/1946); có hơn 90% cử tri đi bầu; Quốc hội
họp phiên đầu tiên 2/3/1946 thông qua danh sách Chính Phủ chính thức do Hồ
Chí Minh đứng đầu, lập ra Ban dự thảo Hiến pháp và đến cuối năm, Hiến pháp
đầu tiên của nước ta được Quốc hội thông qua; tiếp đó ở khắp các địa phương
tiến hành bầu cử hội đồng nhân dân các cấp theo phổ thông đầu phiếu. Củng cố
lực lượng quần chúng và xây dựng lực lượng vũ trang…
b.Đấu tranh chống thù trong giặc ngoài
Kẻ thù là đế quốc và tay sai. Chúng chia làm hai khối, phía Bắc có Tưởng,
Mĩ và tay sai, phía Nam có Anh Pháp và tay sai. Giữa hai khối có mâu thuẩn
nhau về quyền lợi, nhưng thống nhất nhau trong âm mưu chống phá cách mạng.
Lực lượng kẻ thù đông và mạnh, trong đó Pháp là kẻ thù chủ yếu. Do đó trên cơ
sở nắm vững nguyên tắc chiến lược. Đảng đã mềm dẻo trong sách lược, biết phân
hoá kẻ thù để đánh đổ chúng.
Đấu tranh qua hai thời kì:
Trước 6/3/1946: hoà hoãn với Tưởng ở miền Bắc để tập trung lực lượng đánh
Pháp ở Miền nam
Đối với Tưởng ở Miền Bắc: chủ trương tránh xung đột vũ trang với chúng,
mà nhân nhượng chúng về các yêu sách kinh tế và một số yêu sách về chính trị,
ta để cho tay sai của Tưởng một số ghế trong Chính Phủ ( Phó chủ tịch nước
Nguyễn Hải Thần, bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Tường Tam…) hoặc dành cho
chúng 70 ghế không bầu trong Quốc hội. Mọi sự nhân nhượng đều phải bảo đảm
nguyên tắc cách mạng, chính quyền phải được giữ vững, Đảng phải lãnh đạo
chính quyền, Hồ chí minh phải đứng đầu chính phủ, độc lập, chủ quyền của đất
nước phải được tôn trọng.
Đối với Pháp ở miền nam: chủ trương kháng chiến chống lại sự xâm lược
của chúng ( bắt đầu từ ngày 23/9/1945). Miền Nam “ thành đồng tổ quốc” đứng
lên đánh Pháp trước tiên, có hậu thuẩn miền Bắc

Từ 6/3/1946: hoà hoãn với Pháp để đuổi Tưởng ra khỏi nước ta
6/3/1946 ta kí với Pháp hiệp định sơ bộ, trong đó Pháp công nhận Việt
Nam là nước tự do, ta đồng ý để Pháp ra miền Bắc thay Tưởng trong thời hạn 5
năm
Việc ta bắt tay hoà hoãn với Pháp và kí với chúng hiệp ước hoà bình, trong
đó tuy ta chưa buộc được Pháp phải công nhận các quyền độc lập cơ bản đã
giành được, song đã ngăn được Pháp trong âm mưu bắt tay với Tưởng chống lại
ta. Vả lại, với Hiệp định sơ bộ, ta tránh được một cuộc chiến đấu bất lợi cùng
một lúc chống lại nhiều kẻ thù ( gạt được quân Tưởng cùng bọn tay sai của
chúng ra khỏi nước ta), có thêm thời gian hoà bình để chuẩn bị tiếp cho cuộc
chiến đấu lâu dài chống thực dân Pháp về sau; tỏ rõ thiện chí hoà bình để tranh
thủ sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân Pháp và nhân dân thế giới
Tiếp đó ta lại kí với Pháp tạm ước 14/9/1946 tiếp tục nhượng bộ cho Pháp
một số quyền lợi kinh tế, văn hoá ở Việt Nam với mục đích kéo dài thời gian hoà
bình, chuẩn bị cho kháng chiến. Nhưng đó là giới hạn cuối cùng của sự nhân
nhượng
Cuối năm 1946, Pháp phản bội mọi cam kết, quyết cướp nước ta một lần
nữa. Trong tình hình đó, ta không có con đường nào khác là phải cầm súng chiến
đấu bảo vệ chính quyền , giữ gìn độc lập tự do. Và cuộc chiến đấu của ta lúc này
đã có những điều kiện chủ quan, khách quan thuận lợi hơn được tạo ra sau hơn
một năm thực hiện chủ trương khôn khóe: cứng rắn về nguyên tắc nhưng mềm
dẻo về sách lược.
Câu 32. Tại sao chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hoà quyết định kí với
Pháp hiệp định sơ bộ 6/3/1946? Nội dung cơ bản của Hiệp định đó?
Đầu năm 1946, nhân dân Việt Nam đứng trước nhiều khó khăn trong việc
bảo vệ chính quyền mới giành được từ cách mạng tháng tám 1945
Ở phía Bắc, 20 vạn quân Tưởng còn tiếp tục chiếm đóng với danh nghĩa
Đồng minh, gây nhiều khó khăn về chính trị và kinh tế cho chính quyền cách
mạng, tiếp tục làm chổ dựa cho bọn phản cách mạng đội lốt Việt Nam quốc dân
đảng và Việt nam cách mạng đồng minh hội hoạt động chống phá chính quyền.

Ở phía Nam, thực dân Pháp được quân Anh giúp đỡ xâm lược lại Việt Nam. Do
lực lượng Pháp có hạn và Tưởng Giới Thạch cũng đang cần tập trung đối phó
với lực lượng cách mạng của Đảng cộng sản trung quốc, nên Pháp và Tưởng đã
ký hiệp ước Hoa Pháp ngày 28/2/1946 chuyển giao cho Pháp quyền giải giáp
quân Nhật với danh nghĩa đồng minh thay quân Tưởng ở phía bắc với điều kiện
Pháp nhường cho Tưởng một ít quyền lợi ở đất Trung quốc
Hiệp định hoa Pháp buộc nhân dân ta phải lựa chọn hai con đường: hoặc
cầm vũ khí chống Pháp ngay khi Pháp ra Miền Bắc hoặc chủ động đàm phán với
Pháp để đuổi Tưởng
Chính quyền cách mạng Việt Nam mới chỉ được xây dựng bước đầu, còn
non yếu, lực lượng vũ trang chưa xây dựng được bao nhiêu, kinh tế còn nhiều
khó khăn, bọn phản cách mạng còn hoạt động chống phá khối đoàn kết toàn
dân; phải chiến đấu chống một kẻ thù xâm lược đã khó, nếu phải chống nhiều kẻ
thù một lúc thì hết sức nguy hiểm
Trước tình hình đó: Hồ chí Minh thay mặt chính phủ ta đã kí với đại diện
Pháp hiệp định sơ bộ
Nội dung cơ bản của hiệp định sơ bộ 6/3
- Chính phủ Pháp công nhận nước Việt Nam dân chủ cộng hoà là một quốc
gia tự do có chính phủ, nghị viện, quân đội, tài chính riêng nằm trong khối Liên
hiệp Pháp…
- Chính phủ Việt Nam thoả thuận để 15.000 quân Pháp vào miền Bắc thay
quân Tưởng làm nhiệm vụ giải giáp quân đội Nhật và sẽ rút dần từng phần
trong thời hạn 5 năm
- Hai bên thực hiện ngừng bắn ngay ở Nam Bộ, tạo không khí thuận lợi
cho việc mở cuộc đàm phán chính thức tiếp theo tại Pari.
Câu 33. Phân tích ý nghĩa của việc ký hiệp định sơ bộ ngày 6/3/1946 của Đảng
và chính phủ ta
Việc Đảng và chính phủ quyết định ký hiệp định sơ bộ ngày 6/3/1946 có
một tầm quan trọng chiến lược đối với tình hình cách mạng nước ta lúc bấy giờ.
- 20 vạn quân Tưởng không còn lí do để ở lại đã nhanh chóng rút về nước.

Bọn phản cách mạng đội lốt Việt Nam quốc dân đảng và Việt Nam cách mạng
đồng minh hội mất chổ dựa cũng bỏ chạy theo chúng, nhân dân Việt Nam trừ
được một kẻ thù nguy hiểm
- Tránh được một cuộc chiến đấu mà ta biết chắc là bất lợi về phía ta vì
cùng một lúc chống lại nhiều kẻ thù.
- Tranh thủ được thời gian hết sức cần thiết để củng cố chính quyền, xây
dựng lực lượng vũ trang, lực lượng kháng chiến chuẩn bị cho chiến đấu sau này.
- Về mặt pháp lý, chính phủ Pháp phải thừa nhận Việt Nam là một quốc
gia tự do.
Trong tình thế vô cùng khó khăn của những tháng đầu năm 1946 việc ký
hiệp định sơ bộ thể hiện sự sáng suốt của Đảng, đã biết tạm thời hoà hoãn với
một kẻ thù để loại những kẻ thù khác, tranh thủ lấy thời gian hoà bình để chuẩn
bị lực lượng cho cuộc chiến đấu lâu dài về sau, đưa nước ta thoát khỏi tình thế
nguy hiểm “ ngàn cân treo sợi tóc” một cách có lợi nhất.
Câu 34: Vì sao Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, phát động cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp trong cả nước (19/12/1946)? Nội dung cơ bản “Lời

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×