Tải bản đầy đủ (.doc) (7 trang)

Gia đình của Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (172.89 KB, 7 trang )

Gia đình Hồ Chí Minh

Hồ Chí Minh, vị chủ tịch đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam), sinh ra trong một gia đình nhà Nho nghèo ở
làng Sen (hay làng Kim Liên), xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.
Thân sinh

Cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc

Bà Hoàng Thị Loan
Nguyễn Sinh Sắc
Bài chi tiết: Nguyễn Sinh Sắc
Nguyễn Sinh Sắc (chữ Hán: 阮阮阮; còn gọi là Nguyễn Sinh Huy 阮阮阮, nhân dân còn
gọi tắt là Cụ Phó bảng; 1862 – 1929) là thân sinh của Hồ Chí Minh. Ông là con của
ông Nguyễn Sinh Nhậm và bà Hà Thị Hy, lớn lên trong một môi trường Nho học dưới
sự nuôi dạy của nhà Nho và cha vợ của mình là cụ Hoàng Xuân Đường, ông đỗ cử
nhân năm 1894 và Phó bảng năm 1901. Năm 1906, ông được triều đình bổ nhiệm
chức Thừa biện bộ Lễ
[1]
; năm 1909, ông nhậm chức Tri huyện Bình Khê tỉnh Bình
Định
[2]
. Làm quan được ít lâu thì bị triều đình thải hồi vì một "tên cường hào" bị ông
bắt giam rồi chết sau khi thả ra hai tháng
[3]
. Sau đó ông đi vào miền Nam và sống một
cuộc đời thanh bạch tại Đồng Tháp Mười cho đến cuối đời.
Hoàng Thị Loan
Xem thêm Khu mộ bà Hoàng Thị Loan
Bà Hoàng Thị Loan (1868-1901) là con gái của cụ Hoàng Xuân Đường, bà được cha
mình gả chồng vào năm 15 tuổi. Bà là một hình mẫu cho hình ảnh người Việt Nam


hiền hậu và hết lòng vì chồng con: sau khi chồng bà là ông Nguyễn Sinh Sắc đi thi ở
Huế, vì túng thiếu tiến bạc nên ngỏ ý mời bà lên kinh giúp ông học tập, bà đã gởi con
gái đầu lòng của mình lại Nghệ An và cùng chồng vào Huế. Ở đây bà đã lao động dệt
vải vất vả một tay nuôi sống cả gia đình. Năm 1900 sau khi sinh người con thứ tư là
Nguyễn Sinh Xin, cộng với sự vất vả khó nhọc trước đó bà Hoàng Thị Loan sinh bệnh
rồi qua đời vào ngày 10 tháng 2 năm 1901. Năm 1922, hài cốt của bà được cô Nguyễn
Thị Thanh đưa về an táng tại vườn nhà mình ở Làng Sen, Kim Liên. Năm 1942, cải
táng tại núi núi Động Tranh thấp, thuộc dãy núi Đại Huệ. 1985, nhân dân và chính
quyền địa phương xây dựng tại đây một khu lăng mộ dành cho bà
[4]
.
Các anh chị em
Nguyễn Thị Thanh
Chân dung bà Nguyễn Thị Thanh
Bà Nguyễn Thị Thanh (Chữ hán: 阮阮阮阮1884 - 1954) là người chị cả, có hiệu khác
là Bạch Liên nữ sĩ, bà hoạt động tích cực chống Pháp dưới ngọn cờ yêu nước của chí
sĩ Phan Bội Châu. Năm 1918 bà Nguyễn Thị Thanh phối hợp với Nguyễn Kiên tổ
chức lấy trộm súng trong doanh trại lính khố xanh đóng tại thành phố Vinh. Bị phát
giác nên Nguyễn Thị Thanh bị bắt và nhốt vào nhà tù tra tấn dã man. Vào năm 1918,
thực dân Pháp chỉ thị cho quan lại địa phương mở phiên tòa số 80 xử phạt bà Nguyễn
Thị Thanh 100 trượng và 9 năm khổ sai. Ngày 2 tháng 12 năm 1918, Nguyễn Thị
Thanh bị đày vào giam tại nhà lao Quảng Ngãi. Án sát tỉnh Quảng Ngãi lúc đó là
Phạm Bá Phổ có người vợ bị bệnh đau ở vú không cho con bú được dù đã được cố
gắng cứu chữa. Thương người phụ nữ bị bệnh hoạn, bà Nguyễn Thị Thanh đã chữa
cho, ít ngày sau bệnh khỏi, dòng sữa con bú được phục hồi. Chính điều này đã làm
Phạm Bá Phổ rất nể bà.
[5]
Theo lời kể của nhà văn Sơn Tùng, bà Thanh nói lý do tại sao bà không lập gia đình
[6]
:

O đã già, không dễ gì ngồi nói lại những chuyện này với một người trẻ tuổi như
cháu. Nhưng biết cháu là một người có thể thấu hiểu thì O mới nói- Cũng như
cậu Khiêm, O cũng bị kẻ thù tra tấn dã man. Cháu có tưởng tượng được không?
Chúng nung đỏ chiếc mâm đồng… Một chiếc mâm đồng nung đỏ mà chúng bắt
O ngồi lên đó… Một nỗi đau đớn đến tận cùng xuyên sâu từ da thịt vào xương
tủy… Nhiều ngày sau đó O không đi lại được… Vết bỏng đã làm biến dạng cả
cơ thể, xoắn vặn cả tâm hồn O. Vậy thì, làm sao O có thể có gia đình được
nữa
Thấy cô Thanh là người vừa xinh đẹp lại vừa thông minh, Phổ muốn đưa về nhà riêng
làm hành dịch và dạy cho con cái học. Dù quy chế của thực dân Pháp và triều đình
Huế cấm việc đó, nhưng người anh kết nghĩa của Phạm Bá Phổ là Xô đứng đầu mật
thám trung kỳ đã cho phép Phổ đưa cô Thanh từ nhà tù về ở trong nhà Phạm Bá Phổ.
[7]
Vào năm 1922, Phạm Bá Phổ được triều đình Huế thăng cho Phổ làm tham tri bộ hình.
Bà Nguyễn Thị Thanh cũng đi theo. Ở đây bà đã đem hài cốt của mẹ mình về cải táng
tại Nghệ An
[8][9]
.
Nguyễn Sinh Khiêm

Hình ông Cả Khiêm trên báo Nhân Dân
Nguyễn Sinh Khiêm (Chữ hán 阮阮阮 1888 – 1950) là con thứ hai của trong gia đình
cụ Phó bảng, sau chị cả Nguyễn Thị Thanh và là anh trai của Nguyễn Sinh Cung(阮阮
阮) và Nguyễn Sinh Nhuận (阮阮阮).
Ông còn được gọi là Cả Khiêm, tên tự là Tất Đạt 阮阮. Thời thanh niên, ông tham gia
các hoạt động yêu nước chống thực dân và phong kiến nên từng bị tù đày nhiều nǎm.
Do hành nghề thầy thuốc và thầy địa lý, ông còn có biệt danh là "Thầy Nghệ". Ông lập
gia đình với bà Nguyễn Thị Giáng

阮阮阮 (1897-1960) và có với nhau ba người con

nhưng đều chết sớm. Người con duy nhất của hai người, con riêng của bà Giáng, là Hà
Hữu Thừa

阮阮阮, Đại tá Quân đội Nhân dân Việt Nam.
Theo lời kể của bà Nguyễn Thị Chanh, em con chú ruột của bà Nguyễn Thị Cúc - vợ
Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, chị dâu của bà vợ cựu Đại sứ Hà Văn Lâu và cũng là
chị dâu của bà Nguyễn Thị Giáng
[10]
, bà Nguyễn Thị Giáng là người làng Phú Lễ
(thuộc xã Quảng Phú, huyện Quảng Điền, Thừa Thiên - Huế) nằm bên bờ bắc sông
Bồ, cách phía đông chợ An Lỗ chừng 2 km, cách phía Bắc trung tâm Huế 20 km. Bà
Giáng đã có một đời chồng người họ Hà làng Phú Ốc. Không may chồng bà mất sớm,
để lại cho bà một người con trai còn đi chập chững. Từ ngày chồng chết, bà Giáng hay
đau ốm, thuốc thang mãi vẫn không khỏi. May được ông Cả Khiêm chữa cho lành
bệnh. Bà gởi tiền thầy nhưng ông Cả không nhận.
Sau ngày bà Giáng mãn tang chồng (1930), ông Cả Khiêm đến ăn ở với bà Giáng. Cậu
bé con trai của bà là Hà Hữu Thừa được ông Cả thương yêu dạy dỗ như con đẻ. Cuối
năm 1933, bà Giáng có với ông một người con gái, đặt tên là Nguyễn Thị Cao. Cao
lên 3 tuổi thì mất vì bệnh.
Năm 1937, bà Giáng sinh tiếp người con gái thứ hai Nguyễn Thị Ba. Đang ở Huế,
được tin có cháu gọi bằng cô, bà Nguyễn Thị Thanh - chị ruột ông Cả, về Phú Lễ thăm
và ở lại một thời gian để chăm sóc cháu. Đến đầu năm 1940, bé Ba mắc bệnh và qua
đời. Ông Cả thương con muốn phát điên vì ông làm thầy thuốc mà không cứu được
con. Tháng 2 năm 1940, ông tạm biệt bà Giáng về lại Nghệ An.
Về quê, ông cho rằng nơi táng thân mẫu ông trong vườn nhà ở Kim Liên không tốt
nên ông cải táng lên núi Đại Huệ. Sau đó ông lên Vinh tổ chức diễn tuồng Trưng Nữ
Vương do cụ Phan Bội Châu soạn, rồi lại mở lớp dạy võ cho thanh niên. Thực dân
Pháp nghi ông tập hợp thanh niên để hoạt động chống Pháp nên đã bắt giam ông mấy
tháng. Theo lời bà Thanh kể lại với nhà văn Sơn Tùng, ông Khiêm đã bị thực dân
Pháp "triệt nòi giống bằng cách tiêm thuốc"

[11]
.
Năm 1941, ông bị buộc phải trở lại Huế để Pháp dễ bề theo dõi ông.
Năm 1943, bà Giáng lại sinh cho ông cậu con trai đặt tên là Nguyễn Tất Thông. Và
cũng chỉ nuôi được 6 tháng rồi cậu bé cũng mất. Đau khổ vì chuyện mất con lần thứ
ba, ông Cả lại bỏ nhà ra đi. Lần này ông ra Phong Điền với thầy Lê Văn Miến.
Sau ngày Nhật đảo chính Pháp (9 tháng 3 năm 1945), lính Nhật rải ra đóng đồn giữ
các cầu trên quốc lộ 1. Lính Nhật gác cầu An Lỗ hay về chợ Phú Lễ mua thực phẩm.
Nhân đó ông Cả Khiêm và ông Ấm Hoàng (bác ruột của bà Nguyễn Thị Chanh) hay
bút đàm với người Nhật để tìm hiểu tình hình chiến tranh giữa Nhật và Đồng Minh,
đặc biệt là với quân đội Liên Xô. Nhờ thế mà các ông sớm biết được cái tin Nhật đầu
hàng quân đội Đồng Minh vào trung tuần tháng 8 năm 1945.
Sau ngày 23 tháng 8 năm 1945, Cách mạng tháng Tám thành công ở Huế, ông mới
biết được Chủ tịch Hồ Chí Minh - người lãnh đạo cách mạng thành công - chính là
Nguyễn Ái Quốc em trai ông.
Đầu năm 1946, ông cùng Hà Hữu Thừa (con trai của vợ ông) và Nguyễn Hữu Tạo
(cháu ông Ấm Hoàng) đi tàu hoả ra Hà Nội thăm người em làm Chủ tịch Nước. Sau
chuyến thăm viếng đó, ông cho hai thanh niên trở lại Huế ăn Tết Bính Tuất và tham
gia công tác cách mạng, còn ông thì ghé về thăm quê. Không ngờ cuối năm 1946, toàn
quốc kháng chiến, ông không còn cơ hội để trở lại Phú Lễ với bà Giáng nữa. Ông qua
đời tại Nghệ An vào cuối năm 1950, hưởng thọ 62 tuổi.
Nguyễn Sinh Nhuận
Nguyễn Sinh Nhuận (1900 - 1901), hay tên khai sinh là Nguyễn Sinh Xin
[12]
, là con
út trong gia đình, sau khi sinh cậu, bà Hoàng Thị Loan bệnh nặng và mất đi. Nguyễn
Sinh Xin được gửi về quê ngoại Hoàng Trù để chăm sóc nhưng vì ốm yếu nên qua đời
mấy tháng sau đó
[13]


Ông bà
Hà Thị Hy
Hà Thị Hy là bà nội của Hồ Chí Minh, mẹ của ông Nguyễn Sinh Sắc
[14]
. Cuộc đời bà
gắn với một giai thoại được truyền tụng trong dân gian , bà cũng là đối tượng của một
số nghiên cứu khoa học về nhân vật lịch sử
[15]
.
Ban đầu, ông Nguyễn Sinh Khiêm đem cả hài cốt bà Hà Thị Hy và bà Hoàng Thị Loan
lên táng gần nhau ở chân núi Động Tranh thấp. Về sau này, ông đã quyết định để mộ
bà Hy dưới chân núi và đem mộ mẹ lên táng ở vị trí hiện nay để du khách đến viếng
mộ bà Hoàng Thị Loan cũng sẽ viếng được mộ bà Hà Thị Hy trước
[14]
.
Gia đình riêng



Bức chân dung của chính mình được Hồ Chí Minh đề tặng cho cô con gái nuôi
Babette với dòng chữ tiếng Pháp được tạm dịch "Gửi một cái hôn lớn cho con gái đỡ
đầu bé nhỏ Babette. Cha đỡ đầu của con. Hồ".
Những người con đỡ đầu của Hồ Chí Minh
Sinh thời, Hồ Chí Minh có ba nguời con đỡ đầu ở Pháp, Đức và Nga. Ngày 27 tháng 7
năm 1946, trong buổi chiêu đãi chúc mừng Hồ Chí Minh sang thăm Pháp do Việt kiều
ở Pháp tổ chức tại vườn hồng Bagatelle trong lâu đài Bá tước Artois bên rừng
Boulogne, ông Raymond Aubrac, cựu ủy viên Cộng hòa thành phố Marseille và là
nghị sĩ Quốc Hội Pháp được giới thiệu với Hồ Chí Minh. Aubrac mời Hồ Chí Minh về
thăm nhà mình và ông đã vui vẻ nhận lời và đến ngày 28 tháng 7 thì chuyển đến ở nhà
ông Aubrac. Ngày 15 tháng 8, bà Lucie Aubrac sinh hạ bé gái Elizabeth Aubrac. Hồ

Chí Minh đã đến bệnh viện phụ sản Bodeloque, đại lộ Port Royal, Quận 5, Paris thăm
bà Lucie Aubrac. Tại đây ông đã xin phép ông bà Aubrac nhận làm cha đỡ đầu của bé
Elizabeth Aubrac và gọi thân mật cháu là Babette.
[16][17]
. Ngày 21 tháng 7 năm 1967,
giáo sư Raymond Aubrac cùng với giáp sư Herbert Marcovic sang Hà Nội gặp gỡ các
nhà lãnh đạo Việt Nam Dân chủ Cộng hòa để chuyển một thông điệp của Tổ chức
chống chiến tranh hạt nhân (Prugwash) nhằm tìm kiếm một giải pháp cho vấn đề Việt
Nam. Trong buổi tiếp hai ông tối 24 tháng 7, Hồ Chí Minh đã hỏi thăm bà Lucie
Aubrac và các cháu, nhất là Elizabeth. Ông Aubac đã chuyển món quà tặng của
Elizabeth là một quả trứng bằng đá quý đến Hồ Chí Minh.
[18]
Ngày 19 tháng 5 năm 1951, gia đình ông bà Walter R. Hartmann sinh sống ở số nhà
13, phố Ernst Thalman, thành phố Posdam, hạt Sachs, Đông Đức sinh hạ bé trai Knuth
Wolfgang Walther Hartmann. Do thấy ngày, tháng sinh của Knuth ngẫu nhiên trùng
với ngày sinh của Hồ Chí Minh, ông bà Walter R. Hartmann đã gửi thư cho Hồ Chí
Minh đề nghị ông nhận Knuth làm con đỡ đầu. Ngày 15 tháng 9 năm 1951, Hồ Chí
Minh đã gửi thư đến gia đình Walter R. Hartmann. Thư có đoạn viết: "Tôi thân ái
mừng bà và ông vừa có cháu trai là Knuth Wolfgang Walther Hartmann. Tôi cảm ơn
bà và ông đã gửi thư và ảnh cho tôi. Và tôi rất vui lòng nhận cháu làm con đỡ đầu. Tôi
gởi biếu cháu một bức ảnh nhỏ và một đồng Việt Nam để làm kỷ niệm".
[19]
Hồ Chí Minh, bé Elizabette Aubrac (trái) và bà Lucie Aubrac (phải). Paris-12/9/1946
Mùa xuân năm 1958, tại thành phố Jukovski (ngoại ô Moskva), bà y sĩ Anna
Vasilievna là vợ của nhà báo hãng APN (Liên Xô) Dimitri Grigorievich Kolosov (bút
danh Denis) sinh con gái là Irina Dimitrievna (tên thân mật là Idrishka). Dù chưa một
lần đuợc gặp Hồ Chí Minh nhưng ông bà Kolosov đã viết thư đề nghị Hồ Chí Minh
nhận làm cha đỡ đầu cho con gái đầu lòng của họ theo phong tục tốt đẹp của nước
Nga. Mùa hè năm 1958, ông bà Kolosov nhận được thư trả lời của Hồ Chí Minh: "Cô
An-na Xta-xi-a Va-xi-lép-na và chú Đi-mi-tơ-ri Gơ-ri-gô-rê-vích thân mến! Tôi đã

nhận được thư của cô chú và chân thành cảm ơn cô chú đã mời tôi làm cha đỡ đầu cho
con gái của cô chú."
[20]
Sau này, những người con đỡ đầu của Hồ Chí Minh đều trưởng thành và có những
thành đạt nhất định trong cuộc sống. Elizabeth Aubrac trở thành giáo viên. Knuth
Wolfgang Walther Hartmann trở thành kỹ thuật viên chăn nuôi bò sữa. Còn Irina
Dimitrievna Kolosov phục vụ trong ngành công an, rồi cùng chồng là Igo Tribisov,
cán bộ ngành hàng không dân dụng đến làm việc trong một doanh nghiệp khai thác
dầu khí ở Tiumen (Tây Siberi).
[21][22]

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×