Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Liên Xô sự hình thành,cực thịnh và tan rã

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (644.58 KB, 26 trang )

Liên Xô
Союз Советских Социалистических Республик
Soyuz Sovetskikh Sotsialisticheskikh Respublik
Khẩu hiệu
Пролетарии всех стран, соединяйтесь!
(tiếng Nga: "Vô sản toàn thế giới, đoàn kết lại!")
Quốc ca
The Internationale - Quốc tế ca (1922–1944)
Gimn Sovetskogo Soyuza(1944–1991)
(Гимн Советского Союза)
Thủ đô
Moskva (Москва)
55°45′B, 37°37′Đ
Thành phố lớn nhất Moskva
Ngôn ngữ chính thức Không có, tiếng Nga de facto
Chính phủ
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Chủ nghĩa cộng sản
-

• Chủ tịch Xô viết Tối cao
• Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng
Anatoly Lukyanov (người cuối)
Ivan Silayev (người cuối)
Độc lập Từ Đế quốc Nga
- Cách mạng tháng Hai tháng 2, 1917
- Cách mạng tháng Mười 7 tháng 11, 1917
- Tuyên bố 30 tháng 12, 1922
- Công nhận 1 tháng 2, 1924
- Giải thể 26 tháng 12, 1991
Diện tích


- Tổng số 22,402,200 km² (hạng 1 )
- Nước (%) ?%
Dân số
- Ước lượng 1991 293.047.571 (hạng 3 )
- Điều tra 1991 293.047.571 (hạng 3 )
- Mật độ 13,08 /km²
Đơn vị tiền tệ
ruble Sô viết (RUR)
Múi giờ (UTC+2 đến +13)
Liên Xô – tiếng Nga: СССР; cũng gọi là Liên bang Xô viết (Советский Союз), tên
đầy đủ là Liên bang Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Xô viết (tiếng Nga: Союз
Советских Социалистических Республик (giúp đỡ·thông tin) , Soyuz Sovetskikh
Sotsialisticheskikh Respublik) – là một cựu quốc gia chiếm phần lớn châu Âu và châu
Á, tồn tại từ 30 tháng 12 năm 1922 cho đến khi chính thức tan rã và sụp đổ vào ngày
25 tháng 12 năm 1991.
Sự thành lập quốc gia này gắn liền với quá trình sụp đổ của Đế chế Nga trong Thế
chiến thứ nhất và cuộc Cách mạng tháng Hai lật đổ chính quyền Nga hoàng và Cách
mạng tháng Mười năm 1917 lật đổ Chính phủ Lâm thời của Aleksandr Fyodorovich
Kerensky tại Nga sau đó. Liên Xô hình thành là chiến thắng của những người cộng
sản Nga (Bolshevik) đứng đầu là Vladimir Ilyich Lenin trong cách mạng và trong cuộc
Nội chiến Nga (1918 – 1922) đẫm máu sau Cách mạng tháng Mười.
Liên Xô là nước đầu tiên trên thế giới xây dựng Chủ nghĩa Cộng sản. Là nước rộng
nhất thế giới, sự xuất hiện của nhà nước Liên Xô xã hội chủ nghĩa đã ảnh hưởng rất
lớn đến tiến trình lịch sử của thế giới. Trong thế kỷ 20, sau khi Liên Xô xuất hiện, mọi
sự kiện lớn của thế giới – nhiều hay ít – đều có dấu ấn và chịu ảnh hưởng của Liên Xô.
Liên Xô chiến thắng trong Thế chiến thứ hai và mạnh lên thành một siêu cường của
thế giới. Nửa sau thế kỷ 20 là cuộc đấu tranh giữa hai phe Tư bản chủ nghĩa do Hoa
Kỳ đứng đầu và phe Xã hội chủ nghĩa do Liên Xô đứng đầu mà cuộc Chiến tranh
Lạnh là đỉnh cao.
Lãnh thổ Liên Xô thay đổi theo thời gian, và gần đây nhất nó giống lãnh thổ Đế quốc

Nga thời cuối, trừ các nước Ba Lan và Phần Lan, ngoài ra còn có phần đất Alaska Đế
quốc Nga đã bán cho Mĩ trước đó vào năm 1867
Thành phần và những thay đổi về lãnh thổ
Thành phần Liên bang Xô viết như sau:
• theo Hiệp ước về thành lập Liên Xô (30 tháng 12, 1922) – Cộng hòa Xã hội
Chủ nghĩa Xô viết Liên bang Nga, Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Xô viết
Ukraina, Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Xô viết Belorussia, Cộng hòa Xã hội
Chủ nghĩa Xô viết Liên bang Ngoại Kavkaz (từ 1936 ở Ngoại Kavkaz đã thành
lập các nước cộng hòa liên bang riêng rẽ), Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Xô viết
Azerbaidjan, Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Xô viết Armenia và Cộng hòa Xã
hội Chủ nghĩa Xô viết Gruzia;
• năm 1925 – Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Xô viết Uzbekistan, Cộng hòa Xã
hội Chủ nghĩa Xô viết Turkmenia;
• năm 1929 – Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Xô viết Tadjikistan;
• năm 1936 – Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Xô viết Kazakhstan, Cộng hòa Xã
hội Chủ nghĩa Xô viết Kirgizia;
• năm 1940 – Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Xô viết Moldavia, Cộng hòa Xã hội
Chủ nghĩa Xô viết Latvia, Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Xô viết Litva và
Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Xô viết Estonia.
Trong thời kỳ 1940 – 1954 tồn tại Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Xô viết Karelo – Phần
Lan, về sau là Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Xô viết Tự trị Karelia trong Cộng hòa Xã
hội Chủ nghĩa Xô viết Liên bang Nga.
Lịch sử
Bài chi tiết: Lịch sử Liên Xô
Cách mạng và sự hình thành
Sự hình thành Liên Xô gắn liền với sự sụp đổ của Đế quốc Nga trong Thế chiến thứ
nhất và hoạt động của Đảng Cộng sản Nga (Bolshevik) do Lenin đứng đầu.
Vào đầu thế kỷ 20 Đế quốc Nga là một cường quốc ở châu Âu có tiềm lực đất đai và
dân số to lớn nhưng trình độ phát triển kinh tế – xã hội còn lạc hậu xa so với các
cường quốc châu Âu khác. Xã hội ẩn chứa nhiều mâu thuẫn gay gắt không được giải

tỏa: xã hội Nga là xã hội chuyên chế độc tài của quý tộc và tư sản lớn, tự do tư tưởng
bị bóp nghẹt không làm hài lòng giới trí thức (интеллигенция – intelligentsia), trung
lưu thành thị và giới tư sản quý tộc nhỏ; giai cấp công nhân bị bóc lột nặng nề nhất
trong số các nước ở châu Âu. Nước Nga lại là nơi có phong trào Marxist cấp tiến
mạnh nhất, do Lenin đứng đầu với đảng Bolshevik chủ trương làm cách mạng xã hội
chủ nghĩa để xây dựng chủ nghĩa cộng sản.
Những mâu thuẫn trên trong Thế chiến thứ nhất không những không được cởi bỏ mà
cùng với những thất bại to lớn trong chiến tranh, xã hội Nga đi vào bất ổn. Quốc khố
cạn kiệt, nợ nước ngoài cao, lạm phát không kiểm soát được, dân chúng cực khổ,
chiến tranh làm phá sản hàng loạt doanh nghiệp gây thất nghiệp đô thị trầm trọng, nạn
đói lan tràn tại nông thôn, các tầng lớp nhân dân, binh lính oán ghét nhà cầm quyền và
chiến tranh, trong quân đội mâu thuẫn giữa binh lính và tầng lớp sỹ quan quý tộc phát
triển thành chống đối. Tháng 2 năm 1917 đã nổ ra Cách mạng tháng Hai: khởi nghĩa
vũ trang tại Petrograd đã lật đổ chính phủ Nga hoàng và thành lập Chính phủ Lâm thời
của giai cấp tư sản do Aleksandr Fyodorovich Kerensky – một đảng viên của Đảng
Cách mạng Xã hội đứng đầu. Chính phủ Lâm thời chủ trương phá bỏ chế độ độc tài
chuyên chế, tự do hóa xã hội Nga theo các tiêu chuẩn như các quốc gia châu Âu
đương thời, nhưng vẫn chủ trương theo đuổi chiến tranh bên phía đồng minh Anh –
Pháp đến thắng lợi cuối cùng. Chính phủ cũng tuyên bố đảm bảo quyền lợi của giai
cấp công nhân, nông dân và các tầng lớp xã hội khác.
Sau Cách mạng tháng Hai, dưới sự lãnh đạo của đảng Bolshevik đồng loạt xuất hiện
các tổ chức "hội đồng" (tiếng Nga: совет) hay Xô viết của công nhân, nông dân và
binh lính để bảo vệ quyền lợi của chính họ. Thời gian giữa hai cuộc cách mạng là khi
hai chính quyền song song tồn tại: chính quyền trung ương là của Chính phủ Lâm thời
nhưng các sắc lệnh muốn được thi hành phải có sự chấp thuận của các Xô viết của
công – nông – binh. Đảng Bolshevik kêu gọi tiến hành làm cách mạng vô sản với khẩu
hiệu "tất cả chính quyền về tay các Xô viết" và kêu gọi binh lính phản chiến làm cách
mạng "Biến chiến tranh đế quốc thành nội chiến cách mạng". Chính phủ Lâm thời
trong thời gian tám tháng tồn tại đã bất lực trong cả nỗ lực chiến tranh và ổn định tình
hình trong nước: quân đội đang tan rã không còn tuân lệnh cấp trên, bắt giết sỹ quan

và tự động rút lui. Các lực lượng bảo hoàng tiến quân về thủ đô để giải tán chính phủ
(cuộc hành quân của tướng Kornilov - Корнилов). Chính phủ Lâm thời phải dựa vào
các Xô viết huy động công nhân, binh sỹ để làm tan rã quân bảo hoàng, do đó thế lực
của các Xô viết mạnh lên rất nhiều và Chính phủ Lâm thời không thể kiềm chế được
các Xô viết nữa. Nước Nga vào đêm trước của Cách mạng tháng Mười hỗn loạn, chính
phủ không còn có thể kiểm soát được tình hình.
Ngày 25 tháng 10 năm 1917 (theo lịch Julius), tức ngày 7 tháng 11 theo lịch Gregory,
Lenin và các đảng viên Bolshevik lãnh đạo các Xô viết làm Cách mạng tháng Mười
lập chính quyền Xô viết của công, nông, binh. Chính quyền lập tức ban hành sắc lệnh
về hòa bình, sắc lệnh về ruộng đất và ra khỏi chiến tranh với các điều kiện rất ngặt
nghèo của phía Đức (Hòa ước Brest-Litovsk).
Ngay sau Cách mạng tháng Mười, nước Nga rơi vào thời kỳ nội chiến cực kỳ đẫm
máu (1918-1922). Phía cách mạng là công nhân, binh sỹ cách mạng và một bộ phận
nông dân, bên kia là các lực lượng phản cách mạng gồm bảo hoàng, thành phần trí
thức, trung lưu thành thị, sỹ quan, một bộ phận nông dân, người Cô Dắc Phe phản
cách mạng còn nhận được sự giúp đỡ của các quốc gia châu Âu. Đặc trưng của cuộc
nội chiến là tính ác liệt không khoan nhượng. Đến cuối năm 1920 về cơ bản các lực
lượng phản cách mạng đã thất bại, chính quyền Xô viết được thành lập trên toàn lãnh
thổ còn lại của Đế quốc Nga.
Ngày 30 tháng 12 năm 1922 những vùng lãnh thổ còn lại của Đế quốc Nga (trừ Ba
Lan, Phần Lan và vùng Baltic giành được độc lập) tuyên bố thành lập một quốc gia
mới là Liên bang Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Xô viết.
Trước Thế chiến thứ hai
Ngay sau nội chiến kết thúc, nền kinh tế Liên Xô đứng trước nguy cơ phá sản: ở nông
thôn, nạn đói hoành hành, cướp bóc thổ phỉ nổi lên khắp nơi, hàng đoàn dân chết đói
chạy vào thành phố ăn xin; còn ở thành phố, công nghiệp đình đốn, thất nghiệp cực
điểm, tiền không còn giá trị, nguyên liệu, tài chính cạn kiệt – và tình hình xã hội lúc
đó cực kỳ căng thẳng. Đứng trước tình hình đó, Lenin cho tiến hành chính sách kinh tế
mới, hay NEP (Новая экономическая политика – НЭП), để thay thế cho chính sách
cộng sản thời chiến đã được áp dụng trong nội chiến. NEP là chính sách dùng cơ chế

kinh tế thị trường để kích thích sản xuất, kêu gọi đầu tư tư bản dưới sự định hướng
kiểm soát của nhà nước. Đối với nông nghiệp, thay vì trưng thu mọi nông sản của
nông dân như trong thời chiến, NEP dùng cơ chế thuế để điều tiết, nông dân sau khi
làm nghĩa vụ thuế có thể mua bán nông sản trên thị trường tự do. Tại thành phố chính
sách mới khuyến khích đầu tư của tư bản trong nước và nước ngoài, nhà nước chỉ
kiểm soát những ngành quan trọng sống còn với quốc gia. NEP của Lenin đã nhanh
chóng cho kết quả rất tốt: nạn đói nhanh chóng bị đẩy lùi, công nghiệp, thương mại
được phục hồi, tình hình nông thôn và thành thị được ổn định, xã hội có tích luỹ và
đời sống người dân tốt lên nhanh chóng.
Tù nhân lao động khổ sai trong các trại tập trung GULAG của Liên Xô
Ngay sau khi Lenin mất (1924), trong ban lãnh đạo đất nước này đã diễn ra cuộc đấu
tranh nội bộ rất khốc liệt để tranh giành quyền lực, chủ yếu là giữa hai nhóm của Iosif
Vissarionovich Stalin và Lev Davidovich Trotsky. Dần dần phe Stalin thắng thế đưa
Stalin vào vị trí độc tôn trong bộ máy lãnh đạo đảng và nhà nước với hình thức tập
quyền cao nhất là sùng bái cá nhân Stalin. Để củng cố vị trí tuyệt đối, Stalin thu tóm
tất cả cơ cấu quyền lực vào tay cá nhân mình, dùng thanh trừng trong nội bộ đảng, nhà
nước và đàn áp ngoài xã hội để xử tử, khủng bố mọi đối thủ và mọi chính kiến bất
đồng ngay từ trước khi bộc lộ. Bộ máy Bộ dân ủy nội vụ (NKVD – Народный
коммисариат внутренних дел – НКВД) được dùng như công cụ đàn áp của cá nhân
lãnh tụ Stalin để tạo tài liệu vu khống và tiêu diệt các đối tượng cần phải thanh toán
theo chỉ đạo của Stalin. Sự vu khống, tố cáo được khuyến khích, đề cao như một phẩm
chất trung thành với đảng và lãnh tụ.
Về mặt kinh tế và xã hội, những năm 1920 – 1930 sau Lenin được đặc trưng bởi sự
chấm dứt chính sách kinh tế mới và thiết lập nền kinh tế nhà nước tập trung cao độ
theo kinh tế kế hoạch hóa toàn diện. Đất nước đặc trưng bởi sự bao trùm của bộ máy
đảng trong mọi chức năng xã hội. Một quá trình to lớn có ảnh hưởng lâu dài của Liên
Xô ở thời gian này là việc tiến hành thành công công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa.
Cho đến nay trong và ngoài nước Nga vẫn còn nhiều tranh luận về sự nghiệp công
nghiệp hóa này của Liên Xô trong các thập kỷ 1920, 1930, kết quả thực tế là Liên Xô
đã trở thành một nước công nghiệp lớn của thế giới trong một thời gian rất ngắn và

điều này là nền tảng kinh tế cho chiến thắng của Liên Xô trong Thế chiến thứ hai. Mặt
khác, công nghiệp hóa với tốc độ và quy mô rất lớn đã đòi hỏi các nỗ lực cực cao của
xã hội và đã gây ra các căng thẳng, mất cân đối cũng như tạo nên nạn đói khủng khiếp
làm chết vài triệu người, nhất là tại Ukraina. Nạn đói tại Liên Xô những năm 1930 là
lý do để ban lãnh đạo Xô viết tiến hành tập thể hóa nông nghiệp cưỡng bức ở nông
thôn. Tập thể hóa nông nghiệp cưỡng bức đã vấp phải sự phản kháng dữ dội của tầng
lớp nông dân khá giả (được gọi là Kulak). Để hỗ trợ cho tập thể hóa, Stalin đã cho tiến
hành chiến dịch tiêu diệt tầng lớp Kulak rất quyết liệt: toàn bộ tài sản của Kulak bị tịch
thu, gia đình họ bị lưu đầy đến những vùng hoang dã Sau công nghiệp hóa và tập thể
hóa kinh tế Liên Xô chỉ còn hai thành phần kinh tế nhà nước và tập thể với đặc điểm
tập trung hóa và kế hoạch hóa cao độ.
Đời sống tâm lý xã hội tại Liên Xô trong những năm 1920 – 1930 là kết hợp của hai
yếu tố:
• Một mặt nỗi lo sợ bị khủng bố bao trùm xã hội: không một ai (trừ Stalin) dù ở
cương vị hay tầng lớp nào mà có thể được loại trừ khỏi khả năng bị NKVD xử
lý và nỗi sợ khủng bố là chính sách chính thống để duy trì kỷ luật xã hội. Quy
mô thanh trừng, đàn áp là rất lớn thậm chí người ta phải lập ra GULAG (Tổng
cục quản lý các trại tập trung – Главное управление лагерей – ГУЛАГ) trực
thuộc bộ dân ủy nội vụ NKVD. Chức năng của GULAG không chỉ là để trấn áp,
tiêu diệt mà còn là cách giải quyết vấn đề nhân lực để khai phá những vùng đất
hoang dã và gian khổ của đất nước.
• Mặt khác những nhân tố giải phóng tích cực của cuộc sống mới xã hội chủ
nghĩa đã tạo động lực lớn, gây nên những làn sóng phấn khởi trong cuộc sống
xã hội, những phong trào lớn được sự hưởng ứng của nhân dân, tâm lý chung
của xã hội là chấp nhận hy sinh cho tương lai tươi sáng của đất nước và Chủ
nghĩa xã hội, với niềm tin tuyệt đối vào lãnh tụ Stalin và Đảng Cộng sản Liên
Xô.
Thế chiến thứ hai
Năm 1939, nguy cơ chiến tranh thế giới đã hiển diện rất rõ ràng tại châu Âu. Liên Xô
trước đó vài năm theo đuổi chính sách an ninh tập thể với các nước Anh, Pháp để cùng

kiềm chế nước Đức phát xít của Adolf Hitler đang quân phiệt hóa rất mạnh. Năm
1939, ban lãnh đạo của Liên bang Xô viết thay đổi đột ngột chính sách đối ngoại của
mình: quay sang thỏa thuận với Hitler. Liên Xô và Đức đã ký hiệp định không xâm
phạm lẫn nhau (Hiệp ước Molotov-Ribentrop) và đi xa hơn nữa hai bên ký biên bản
thỏa thuận bí mật (секретный протокол) chia sẻ lãnh thổ các nước khác giữa Đức và
Liên Xô theo đó Đức sẽ tấn công Ba Lan và phần Tây Ukraina, Tây Belarusia của
nước này sẽ thuộc về Liên Xô, Đức làm ngơ đối với đòi hỏi lãnh thổ của Liên Xô với
3 quốc gia vùng biển Baltic (Estonia, Latvia, Litva) (Xem: Chiến sĩ đồng thiếc), phần
đất Karelia của Phần Lan và Bessarabia (Moldova ngày nay) của Romania. Đổi lại
Liên Xô sẽ trung lập trong chiến tranh giữa Đức và khối Anh – Pháp. Các nhà nghiên
cứu của Tây Âu trước đây và Nga ngày nay đã có lý khi cho rằng: với chính sách này,
Stalin và ban lãnh đạo Liên xô khi đó phải chịu một phần trách nhiệm về sự bùng nổ
của Thế chiến thứ hai.
Con đường chết Raate, xe tăng và binh sĩ Liên Xô bị quân Phần Lan phục kích và tiêu
diệt trong Chiến tranh Liên Xô-Phần Lan (1940)
Theo đúng tinh thần của biên bản bí mật, sau khi Đức tấn công Ba Lan gây chiến tranh
thế giới (1 tháng 9 năm 1939), Quân đội Xô viết kéo vào Ba Lan chiếm Tây Belarusia,
Tây Ukraina, chiếm Bessarabia của Romania lập nên nước Cộng hòa Xã hội Chủ
nghĩa Moldavia (ngày nay là Moldova). Năm 1940, Liên Xô sáp nhập ba quốc gia
vùng biển Baltic: Estonia, Latvia, Litva lập nên ba nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa
vùng Baltic không được Quốc tế công nhận và gây chiến tranh chống Phần Lan chiếm
dải đất Karelia lập nên nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Karelia. Trong Chiến tranh
Liên Xô-Phần Lan (1940) quân đội Xô viết đã bộc lộ hết những yếu kém rất trầm
trọng của mình và đó cũng là một nguyên nhân để Hitler tấn công Liên Xô năm 1941.
Ngày 22 tháng 6 năm 1941 nước Đức Quốc xã tấn công Liên bang Xô viết và bắt đầu
"Chiến tranh vệ quốc vĩ đại" của Liên Xô (1941 – 1945). Liên Xô tham gia vào khối
Liên minh chống phát xít gồm Anh, nước Pháp tự do và sau này là Mỹ, Úc, New
Zealand, Canada, Trung Quốc Quân đội Liên Xô trong giai đoạn đầu 1941 – 1942 đã
thất bại to lớn, bị đánh tan và đẩy lùi với tổn thất hàng triệu sỹ quan, binh lính vì
những nguyên nhân sau:

• Quân đội Xô viết kém rất xa Wehrmacht(lực lượng quân đội Đức Quốc Xă) về
mọi mặt: trang bị vũ khí (quân đội Đức được tái vũ trang từ trước, rất hiện đại,
nhất là sau khi chiếm được nước Pháp với các nguồn công nghiệp chiến tranh
khổng lồ của nước này), trình độ tác chiến, tinh thần chiến đấu và nhất là quân
đội Đức đã đi trước các nước khác khá xa về tư duy quân sự trong nghệ thuật
chiến tranh đã phát kiến ra các chiến thuật chiến tranh cơ động, thực sự là cuộc
cách mạng trong nghệ thuật quân sự với sự sử dụng tập trung các mũi nhọn xe
tăng thiết giáp, không quân và bộ binh cơ giới Trong khi đó quân đội Xô viết
cũng như các quân đội châu Âu khác vẫn còn nặng về tư duy chiến tranh trận
địa của Thế chiến thứ nhất (thảm bại của liên quân Anh – Pháp năm 1940 tại
chiến trường châu Âu cũng cho thấy rất rõ điều này).
• Nền kinh tế của Đức đã được chuẩn bị sẵn sàng cho chiến tranh và nước Đức có
tiềm lực công nghiệp khổng lồ với nguồn nhân công lao động chất lượng cao
của các nước châu Âu bị chiếm đóng cộng với lao động nô lệ của người Do
Thái.
• Sai lầm về chính trị của Stalin: tin rằng có thể tránh được chiến tranh với Đức
và không cho phép quân đội cũng như toàn quốc áp dụng các biện pháp quốc
phòng hữu hiệu vì sợ bị hiểu là khiêu khích Đức. Thậm chí không muốn tin vào
sự thật khi chiến tranh thực sự đã sắp nổ ra.
• Là hậu quả của các cuộc thanh trừng đến tận gốc rễ trong tầng lớp sỹ quan của
Hồng quân Liên Xô từ năm 1935 – 1938: hầu hết các tướng lĩnh đầu bảng nổi
tiếng, có kiến thức và kinh nghiệm quân sự đều đã bị tiêu diệt, và với các tổn
thất về cán bộ quân sự rất to lớn đến tận hàng ngũ sỹ quan trung cấp và sơ cấp.
Trong hai năm 1941 – 1942 quân Đức đã chiếm đóng một phần lớn lãnh thổ phía tây
của phần châu Âu của Liên Xô nơi có 70% dân số và tiềm lực kinh tế của đất nước.
Cuộc chiến tranh này đối với Liên Xô là có tính chất sống còn: không những sự tồn tại
của quốc gia bị đe doạ mà dân tộc đứng trước nguy cơ diệt chủng (đối với Đức chiến
tranh chống Liên Xô không phải là để kết thúc bằng một hiệp ước có lợi như mọi cuộc
chiến tranh khác trước đây, mà là để tiêu diệt số lớn giống người Slav "hạ đẳng", đuổi
số còn lại sang vùng Siberia hoang dã để chiếm đất cho "không gian sinh tồn" của

giống người Đức Aryan "thượng đẳng" (xem kế hoạch Barbarosa và chủ nghĩa phát
xít).
Chính phủ Liên Xô đã có những nỗ lực vô cùng to lớn di chuyển toàn bộ các nhà máy
và nguồn lực kinh tế sang các vùng sâu sau dãy Ural và Siberia và thiết lập dây
chuyền sản xuất tại chỗ mới thậm chí ngay trên đất trống ngoài trời. Chỉ sau một năm
sản xuất đã đạt mức trước chiến tranh và sau đó tăng lên với tốc độ rất cao, người Xô
viết đã lao động tự giác quên mình vì chiến thắng với các nỗ lực rất phi thường. Phần
lớn các dân tộc các nước Cộng hòa của Liên bang Xô viết đã đoàn kết hiệp lực tin
tưởng vào sự lãnh đạo của đảng cộng sản Liên xô và lãnh tụ Stalin để đẩy lùi mối họa
phát xít.
Quân đội Xô Viết tuy thất bại nặng nề bị tiêu diệt và bị bắt làm tù binh hàng triệu
người nhưng đã chống trả rất kiên cường theo khẩu hiệu "tử thủ" (стоять насмерть)
bất kể mức độ hy sinh và cuối năm 1941 đã chặn đứng được quân đội Đức quốc xã tại
cửa ngõ thủ đô Moskva.
Trong các năm 1942 – 1943, các nỗ lực chiến tranh và kinh tế to lớn của Liên bang Xô
viết cộng với sự giúp đỡ kinh tế, vũ khí của đồng minh Anh – Mỹ trong Liên minh
chống Phát xít đã tạo được bước ngoặt cơ bản của chiến tranh bằng các chiến thắng
Stalingrad và Kursk. Đến cuối năm 1944 Liên Xô đã giải phóng được toàn bộ đất đai
của mình và đánh đuổi quân Đức trên lãnh thổ các nước Đông Âu và Trung Âu và đưa
chiến tranh vào chính nước Đức. Tháng 4 năm 1945, quân đội Xô viết công phá
Berlin. Nước Đức Quốc xã sụp đổ và đầu hàng.
Bộ ba lớn. Ngồi ở giữa từ trái qua phải, Churchill, Roosevelt và Stalin
Ngay sau chiến thắng đối với nước Đức, Liên Xô tham chiến chống Nhật Bản và vào
tháng 8 năm 1945, đã dễ dàng đánh tan đạo quân Quan Đông của Nhật tại Mãn Châu
(đông bắc Trung Quốc ngày nay). Ngày 2 tháng 9 năm 1945, Nhật Bản đầu hàng
Đồng Minh và Thế chiến thứ hai chấm dứt.
Thế chiến thứ hai đã làm hơn 20 triệu người Xô viết thiệt mạng hàng nghìn thành phố
làng mạc bị phá huỷ, các cơ sở công nghiệp, nông nghiệp văn hóa của Liên bang Xô
viết bị phá huỷ. Nhiều dân tộc thiểu số do có thiện cảm với Hitler đã bị trục xuất khỏi
quê hương bản quán và bị tái định cư cưỡng bức. Hàng triệu sỹ quan, chiến sỹ quân

đội Xô viết bị Đức bắt làm tù binh sau chiến tranh lại tiếp tục bị đưa về nước giam
cầm trong các trại tập trung chỉ vì tội "hèn nhát rơi vào tay giặc". Chỉ đến sau khi
Stalin chết (1953) những dân tộc bị đầy ải và các tù binh Xô viết này mới được về quê
hương xứ sở và được trả tự do.
Trên vùng đất mới xâm chiếm trong quá trình chiến tranh xuất hiện các nước cộng hòa
xã hội chủ nghĩa mới: Moldavia, Estonia, Latvia, Litva, Karelia.
Mặc dù có những khó khăn to lớn hậu quả của chiến tranh, Liên Xô bước ra khỏi
chiến tranh với tư thế người chiến thắng góp phần quan trọng nhất vào việc đánh thắng
chủ nghĩa phát xít với uy tín quốc tế cực kỳ cao và niềm phấn khởi tự hào lớn lao của
nhân dân đối với cường quốc xã hội chủ nghĩa của mình tạo tiền đề để Liên Xô mạnh
lên thành siêu cường thế giới sau thế chiến.
Sau chiến tranh
Liên Xô phục hồi (1945 – 1955), Chiến tranh Lạnh
Sau khi Thế chiến thứ hai chấm dứt, ngay lập tức các mâu thuẫn tư tưởng, chính trị
giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa cộng sản đã phân các đồng minh cũ ra hai chiến
tuyến của Chiến tranh Lạnh: Hoa Kỳ đứng đầu phe tư bản chủ nghĩa đấu tranh để hạn
chế và triệt tiêu sự phát triển của chủ nghĩa cộng sản, còn Liên bang Xô viết lãnh đạo
phe xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu xây dựng chủ nghĩa cộng sản và truyền bá chủ nghĩa
này ra khắp thế giới.
Tại châu Âu sau chiến tranh, các nước Đông Âu (Ba Lan, Hungary, Cộng hòa Dân chủ
Đức, Bulgaria, Tiệp Khắc, Romania, Albania, Nam Tư) mặc nhiên được Hoa Kỳ và
phương Tây coi là khu vực ảnh hưởng của Liên Xô. Tại đây Liên Xô giúp đỡ tài chính
và quân sự cho các nước này phục hồi nền kinh tế, thành lập các nhà nước xã hội chủ
nghĩa dưới sự kiểm soát của mình. Phần lớn các nước này vào năm 1955 đã tham gia
Khối Warszawa với Liên bang Xô viết làm trụ cột để đối đầu với khối quân sự Hiệp
ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) của phương Tây do Hoa Kỳ lãnh đạo. Sau này các
quốc gia này tham gia Hội đồng tương trợ kinh tế COMECON. Liên Xô thông qua lực
lượng quân sự hùng hậu của mình đóng trên lãnh thổ đông Âu và bằng sức ép kinh tế
trong COMECON khống chế đường hướng chính trị của các đồng minh đông Âu và
sau này không ít lần can thiệp trực tiếp để ngăn chặn các nước này thoát ra khỏi tầm

kiểm soát của mình như tại Hungary (1956), Tiệp Khắc (1968) và Ba Lan (1982).
Ở châu Á sau chiến tranh, Liên Xô giúp những người Cộng sản thành lập nước Cộng
hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên của Kim Nhật Thành tại vùng do Liên Xô chiếm
đóng trên bán đảo Triều Tiên. Đặc biệt ngay sau chiến tranh không lâu (1949), với sự
giúp đỡ to lớn về quân sự của Liên Xô, Đảng Cộng sản Trung Quốc của Mao Trạch
Đông đã chiến thắng trong Nội chiến Quốc-Cộng Trung Quốc và thiết lập nhà nước xã
hội chủ nghĩa tại quốc gia đông dân nhất thế giới, làm cho thế và lực của phong trào
cộng sản trên toàn thế giới tăng lên rất mạnh. Cùng với Chiến tranh Triều Tiên do Bắc
Triều Tiên khởi xướng với sự ủng hộ tích cực của Liên Xô và Trung Quốc tình hình
thế giới trở nên rất căng thẳng: hai phe đã đụng độ quân sự trực tiếp, nguy cơ sử dụng
vũ khí hạt nhân là rất nghiêm trọng.
Thời kỳ 1945 – 1955 là thời kỳ niềm phấn khởi tự hào của dân chúng Liên Xô dâng
cao, nền kinh tế hồi phục và phát triển khá nhanh làm cơ sở để chạy đua vũ trang. Liên
Xô lúc này (và cả sau này) chủ yếu phát triển kinh tế theo chiều rộng: gia tăng sản
xuất bằng việc xây dựng thêm các công trường, nhà máy mới, khai phá thêm các
nguồn tài nguyên thiên nhiên, huy động thêm nguồn nhân lực nhưng chưa đi được
vào phát triển theo chiều sâu (bằng cách tăng năng suất lao động và hiệu quả kinh tế).
Cả đất nước như một công trường lớn với các dự án rất ấn tượng như chinh phục
Angara, chinh phục Bắc Băng Dương, chinh phục Taiga và miền Siberia Năm 1949
Liên Xô thử nghiệm thành công bom nguyên tử và năm 1954 là quốc gia đầu tiên có
nhà máy điện nguyên tử đặt dấu chấm hết của sự độc quyền về vũ khí hạt nhân của
Hoa Kỳ. Sự việc này ngoài những ý nghĩa quân sự, chiến lược, kinh tế còn có ý nghĩa
tinh thần tượng trưng rất lớn nó đánh dấu Liên Xô đang trở thành siêu cường thế giới
với mục tiêu vươn lên đuổi kịp và vượt Hoa Kỳ.
Sau chiến tranh, lãnh thổ Liên Xô được mở rộng từ các quốc gia thất trận: Nam
Sakhalin (Южный Сахалин) và quần đảo Kuril (Курильские острова) từ Nhật Bản,
vùng Petsamo (Петсамо – Печенга) từ Phần Lan, Klaipeda (Kлайпеда), Koenisberg
(Кёнигсберг, tên Nga là Kaliningrad – Калининград) từ Đông Phổ của Đức, Ukraina
Ngoại Karpat (Закарпатская Украина) từ Romania. Tại những vùng đất mới chính
quyền Xô viết tiến hành trấn áp rất mạnh các cuộc bạo loạn vũ trang tại Tây Ukraina,

Tây Belarus, các nước cộng hòa Baltic và trấn áp các thành phần bất mãn đặc biệt là
như các quan chức chính quyền, quân đội, cảnh sát cũ, các lực lượng tư sản, địa chủ và
dân tộc chủ nghĩa, thành phần trí thức thành thị của chính quyền cũ.
Sau Thế chiến thứ hai, tuy không còn quy mô và ở mức độ cực đoan như hồi Đại
thanh trừng (những năm 1930) nhưng vu khống, tố cáo, thanh trừng và khủng bố vẫn
là một thành tố của chính sách nhất quán giữ yên kỷ cương xã hội Liên Xô bằng nỗi sợ
hãi. Sau chiến tranh, và đến trước khi chết (1953), Stalin còn kịp chỉ đạo NKVD tiến
hành vài đợt khủng bố lớn như vụ Leningrad (thanh trừng tỉnh uỷ Leningrad), vụ các
bác sỹ giết người (thanh trừng các giáo sư bác sỹ nổi tiếng nhất của Liên Xô chủ yếu
là người Do Thái, vụ này mang sắc thái bài Do Thái rất rõ), vụ chống chủ nghĩa thế
giới (cosmopolitism) Chỉ sau khi Stalin chết, lãnh tụ mới Khrushchov phát động
chống sùng bái cá nhân Stalin và xử tử Beria (Лаврентий Павлович Берия) cùng vây
cánh trong NKVD thì Liên Xô mới đoạn tuyệt hẳn với chính sách khủng bố thanh
trừng của chủ nghĩa Stalin.
Tan băng (1955 – 1965)
Thời kỳ sau Stalin, nhất là từ đại hội 20 Đảng Cộng sản Liên Xô (1956) đến năm 1965
khi Bí thư thứ nhất Đảng Cộng sản Khrushchyov đã bị bãi chức được gọi là thời kỳ
"tan băng". Trong thời kỳ này lãnh tụ mới Nikita Sergeyevich Khrushchyov phát động
phong trào chống sùng bái cá nhân Stalin: công khai phát động lên án những tội ác và
sai lầm của Stalin, phục hồi danh dự cho các nạn nhân, giải tán các trại tập trung của
GULAG và cho phép các dân tộc bị định cư cưỡng bức trở về quê hương xứ sở, truy
cứu trách nhiệm hình sự các lãnh đạo NKVD và các cơ cấu quyền lực đã gây ra tình
trạng khủng bố, khôi phục pháp chế nhà nước. Việc này có tiếng vang cực lớn và gây
ra hệ quả hai mặt:
• Một mặt phong trào này rất được lòng giới trí thức và những thành phần tự do
tư tưởng và được họ gọi là thời kỳ "tan băng", nó gây nên một trào lưu tự do tư
tưởng, văn hóa văn nghệ tự do và các xu hướng mới trong giới trí thức, văn hóa,
khoa học. Hầu hết các tác phẩm văn hóa nổi tiếng, các trường phái mới gây
tiếng vang của Liên Xô là kết quả của thời kỳ tan băng này. Các tầng lớp nhân
dân cũng phấn khởi cảm thấy tự do được giải phóng khỏi những nỗi sợ hãi

thường trực đối với NKVD.
• Mặt khác phong trào này cũng gây ra các hệ lụy tiêu cực cho Liên Xô. Nó động
chạm đến Mao Trạch Đông và gây ra chia rẽ với Trung Quốc và là nguồn gốc
của sự phân ly trong phong trào Cộng sản thế giới: từ nay phe xã hội chủ nghĩa
phân thành hai phía coi nhau như "kẻ thù số một". Nó đồng thời động chạm đến
một bộ phận lớn các cán bộ của thời Stalin và tạo cho nhà lãnh đạo mới những
kẻ thù, những người này phản tuyên truyền ngấm ngầm sau này đã lật đổ được
Khrushchyov.
Liên Xô vào thời kỳ Khrushchyov đã có sự tiếp cận mới về đối ngoại tìm cách hòa
hoãn với Hoa Kỳ, thi hành chính sách cùng tồn tại hòa bình, ngoại giao nhân dân được
phát triển, xóa bỏ tâm lý coi đế quốc như quỷ dữ, tránh gây căng thẳng có thể làm
phương hại đến hòa bình thế giới. Tuy nhiên trong thời kỳ này trên thế giới đã xảy ra
vài sự kiện làm căng thẳng tình hình thế giới đó là việc trấn áp phong trào dân chủ tại
Hungary (1956) và Khủng hoảng tại Cuba về vũ khí hạt nhân (1962).
Phi hành gia Yuri Alekseievich Gagarin và lãnh tụ Nikita Sergeyevich Khrushchyov
ngày 14-4-1961.jpg
Thời kỳ của Khrushchyov ngoài sự giải phóng tương đối về chính trị, tư tưởng còn có
sự chuyển dịch lớn về kinh tế xã hội: Các nguồn lực thay vì trước đây chỉ dồn cho các
mặt hàng công nghiệp nặng cho nhiệm vụ phát triển lực lượng sản xuất (công nghiệp
nhóm A) nay nhà nước Liên Xô tập trung hơn đến các ngành công nghiệp nhẹ (nhóm
B) và xây dựng, nông nghiệp để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của người dân Xô viết.
Trong nông nghiệp đã cho phép kinh doanh vườn tược nhỏ của các hộ. Ở thời kỳ này
người dân Liên Xô đã cho phép mình có được nhà ở căn hộ tiện nghi và các tiện nghi
sinh hoạt cao cấp, phát triển tâm lý hưởng thụ: có xe ô tô riêng và nhà nghỉ ngoại ô
(tuy chưa nhiều). Đời sống của dân chúng sung túc lên rất nhiều. Đây là thời kỳ Liên
Xô phóng thành công vệ tinh nhân tạo đầu tiên và đưa người đầu tiên vào vũ trụ biểu
tượng của sự vượt lên của Liên Xô đối với đối thủ tư bản chủ nghĩa Hoa Kỳ. Những
thay đổi to lớn này đã tạo ra sự phấn chấn trong các tầng lớp người Xô viết.
Về cơ bản chính sách của thời kỳ này vẫn là cố gắng cải cách xã hội trong khuôn khổ
một xã hội tập quyền do Đảng lãnh đạo. Tuy đã đạt được một số thành quả quan trọng

nhưng cố gắng cải cách của Khrushchyov đã gây ra một số bất mãn và gặp phải các
địch thủ trong nội bộ đảng và cuối cùng các lực lượng này đã thành công trong việc hạ
bệ Khrushchyov.
Xem thêm: Về sùng bái cá nhân và những hậu quả của nó
Trì trệ (1965 – 1985)
Năm 1964, Hội nghị bất thường của Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô đã bãi
nhiệm Bí thư thứ nhất Khrushchov và đưa Leonid Ilyich Brezhnev (Леонид Ильич
Брежнев) vào cương vị Bí thư thứ nhất (từ ngày 8 tháng 4 năm 1966 gọi là Tổng Bí
thư). Thời gian từ năm 1965 đến 1985 chủ yếu dưới quyền Brezhnev thường được gọi
đơn giản là thời kỳ "trì trệ" mặc dù thật ra "trì trệ" chỉ thực sự trầm trọng vào 10 năm
cuối của Brezhnev và khái niệm này có tính tương đối.
Máy bay hành khách phản lực siêu âm Туполев ТУ-144
Thời kỳ này là thời kỳ mà những mâu thuẫn của xã hội Liên Xô đã chín muồi và phát
tác gây những hệ quả xấu cho nền kinh tế và đời sống tâm lý, chính trị, xã hội của
nhân dân. Trong kinh tế, nền sản xuất duy trì theo phương thức kế hoạch hóa và bao
cấp không tạo được kích thích quyền lợi của người sản xuất nên kỷ luật lao động suy
giảm, năng suất tăng kém. Việc trả lương theo mức chỉ tiêu kế hoạch và kế hoạch hóa
theo sản lượng thậm chí kéo lùi việc áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật: sản phẩm chế
tạo ra càng đắt, càng nhiều nguyên liệu thì càng nhanh hoàn thành và vượt chỉ tiêu kế
hoạch sản lượng và càng có lợi cho người sản xuất, nên hàng hóa của Liên xô nhanh
chóng thụt lùi về chất lượng, mẫu mã và tính cạnh tranh so với các nước phương Tây
và nền kinh tế không được khuyến khích chuyển sang phát triển theo chiều sâu. Kinh
tế dựa nhiều vào khai thác ồ ạt các nguồn tài nguyên thiên nhiên dẫn đến tài nguyên
cạn kiệt và ô nhiễm môi trường gia tăng. Kết quả là hàng hóa trong thị trường nội địa
luôn thừa thãi nhưng toàn là các sản phẩm khó tiêu thụ và đồng thời luôn khan hiếm
hàng hóa có giá trị, làm nảy nở đầu cơ, tích trữ và các loại kinh tế ngầm bất hợp pháp.
Thời kỳ này Liên Xô tiếp tục lao vào lập kế hoạch và triển khai các dự án lớn rất tốn
kém, được tuyên truyền rầm rộ mang tính phô trương nhưng sau này thực tế cho thấy
hiệu quả kinh tế kém, nặng về ý nghĩa tuyên truyền hình thức Cũng chính vì không
có động lực kinh tế nên dù là đất đai rộng lớn, phì nhiêu mà sản xuất nông nghiệp sa

sút không đáp ứng được nhu cầu xã hội, càng ngày vấn đề nông nghiệp càng trầm
trọng, đến cuối thời Brezhnev thì đã thật sự nóng bỏng.
Tâm lý dân chúng chán nản trở nên thờ ơ đối với các chính sách của Đảng và chính
phủ. Hơn nữa hệ thống cán bộ của Đảng và nhà nước – bộ máy theo chỉ định
(Номенклатура) đang trở thành tầng lớp bất bình đẳng mới ít chịu sự giám sát của
nhân dân mà như sau này Mikhail Sergeyevich Gorbachov đã từng gọi là các vị
"cường hào mới" gây bất bình lớn trong xã hội tạo tham nhũng lạm dụng chức vị và
làm suy thoái đạo đức xã hội.
Đây là thời kỳ Liên Xô chạy đua vũ trang và chạy đua vũ trụ với cường độ cao và coi
ưu thế quân sự và vũ trụ so với Hoa Kỳ như một minh chứng của tính ưu việt của chủ
nghĩa xã hội và đã có lúc Phương Tây cho rằng Liên Xô đã phá vỡ thế cân bằng chiến
lược. Thời kỳ này đối đầu giữa hai phe khá căng thẳng nhưng cả hai bên đều có ý thức
kiềm chế trong phạm vi an toàn. Trong thời gian này Liên Xô giúp đỡ Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa chống lại Quân đội Hoa Kỳ trong Chiến tranh Việt Nam [1] . Cuộc chạy
đua vũ trang và vũ trụ càng làm trầm trọng thêm những điểm yếu của nền kinh tế Xô
viết và sau này nhiều người Nga cho đó là nguyên nhân để Liên Xô sụp đổ.
Trong nội bộ Liên Xô các mâu thuẫn dân tộc càng ngày càng sâu sắc tuy được chính
quyền dấu kín nhưng ở nhiều nước Cộng hòa (đặc biệt là ở ba nước cộng hòa Baltic –
điểm đầu của sự phân rã Liên Xô sau này) dân địa phương không che dấu thái độ căm
ghét người Nga, và xuất hiện rất nhiều căng thẳng giữa các dân tộc giữa các nước
Cộng hòa và trong nội bộ từng nước. Và trong nội bộ các nước cộng sản Đông Âu tình
cảm chống Liên Xô cũng được bộc lộ công khai. Năm 1968 Quân đội Xô viết đã phải
can thiệp để ngăn cản Tiệp Khắc thoát khỏi tầm ảnh hưởng của chủ nghĩa xã hội và
điều này càng làm gia tăng tinh thần bài Nga, bài Xô Viết trong dân chúng các nước
Đông Âu, họ coi Liên Xô là lực lượng chiếm đóng kìm hãm sự phát triển của dân tộc
mình. Việc Liên Xô đem quân chiếm đóng Afghanistan (1979) và sa lầy tại đây lại
càng làm nước này mất uy tín quốc tế. Xem Chiến tranh Xô viết tại Afghanistan.
Chính quyền Xô Viết đã có cố gắng cải cách mà điển hình nhất là cố gắng cải cách
kinh tế của thủ tướng Aleksei Nikolayevich Kosygin (Алексей Николаевич Косыгин)
nhưng vì nhiều lý do của hệ thống mà đã không thu được kết quả. Các mâu thuẫn càng

ngày càng tích tụ và đến giữa những năm 1980 thì xã hội Xô viết đã ở tình trạng cần
có một cải cách cơ bản sâu rộng.
Cải tổ và tan rã
Sau những thất bại và hao tốn tiền của, Quân đội Xô viết buộc phải rút lui khỏi
Afghanistan năm 1988
Năm 1985 Tổng bí thư mới được bầu, Mikhail Sergeyevich Gorbachov, và những
người cùng chí hướng như Aleksandr Nikolayevich Yakovlev bắt đầu tiến hành chính
sách cải tổ (perestroika – Перестройка) và công khai hóa (glasnost – Гласность) để
giải phóng các tiềm năng chưa được khai thác của xã hội. Cải tổ tìm cách nới lỏng sự
kiểm soát tập trung của Đảng và nhà nước trong một số lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã
hội, tự do hóa ngôn luận, bầu cử cạnh tranh và tiến đến loại bỏ sự can thiệp của các cơ
cấu đảng vào kinh tế và một số mặt của đời sống chính trị xã hội. Nhưng những nỗ lực
cải cách đã không thu được kết quả như mong đợi. Khi sự tích cực của dân chúng
dâng cao thì khủng hoảng xuất hiện và trở nên sâu sắc: các tổ chức và trào lưu dân tộc
chủ nghĩa xuất hiện ngày càng nhiều và càng có xu hướng chống Xô viết đòi độc lập.
Tốc độ và quy mô của các sự kiện làm những người chủ xướng cải cách không còn
kiểm soát được tình hình và bị cuốn theo các sự kiện. Các thành quả kinh tế thì còn rất
nhỏ bé mà khủng hoảng chính trị ngày càng trầm trọng: các lực lượng đòi ly khai dần
dần nắm các vị trí lãnh đạo của các Nước Cộng hòa và ra các tuyên bố về chủ quyền
của Nước Cộng hòa. Xung đột sắc tộc trở nên phức tạp có đổ máu thậm chí có nơi
chính quyền các Nước Cộng hòa lãnh đạo cuộc xung đột với các Nước Cộng hòa lân
cận. Mâu thuẫn dân tộc cực kỳ lớn trong lòng Liên Xô trước đây vẫn bị dấu kín nay đã
bộc lộ và tiến triển không thể kiểm soát được. Một khi tình hình hỗn loạn thì các mối
liên hệ kinh tế giữa các vùng miền và các nước cộng hòa cũng bị gián đoạn làm tình
hình kinh tế trở nên nguy ngập, tình hình xã hội trở nên hỗn loạn. Các đảng viên cộng
sản phân ly và mất hoàn toàn sự kiểm soát và kỷ luật của Đảng và trở thành các lực
lượng quốc gia dân tộc chủ nghĩa. Ngay Xô viết Tối cao Nga, nước cộng hòa trụ cột
của Liên Xô, cũng ra nghị quyết đặt luật pháp nước cộng hòa cao hơn hiến pháp Liên
Xô, quyền lực của nhà nước Liên Xô dần trở thành hình thức.
Lính Liên Xô đứng gác bức tường Berlin năm 1989

Ngày 19 tháng 8 năm 1991 một số nhà lãnh đạo theo đường lối cứng rắn (Chủ tịch
Quốc hội Lukyanov, Chủ nhiệm KGB Kryuchkov, Phó Tổng thống Yanaev, Thủ
tướng Pavlov) với lý do khôi phục sự thống nhất của Liên bang Xô viết tiến hành đảo
chính, lập Uỷ ban nhà nước về tình trạng khẩn cấp, tước bỏ quyền lực của Tổng thống
Liên Xô Gorbachov và đưa quân đội vào thủ đô. Nhưng lực lượng đảo chính không
đạt được sự ủng hộ của dân chúng và quân đội, đảo chính càng làm tăng thêm mâu
thuẫn giữa các nước cộng hòa và các thế lực chính trị lãnh đạo các khu vực. Chỉ qua 2
ngày (21 tháng 8) Bộ trưởng Quốc phòng, Nguyên soái Yazov ra lệnh rút quân khỏi
Moskva, đảo chính thất bại. Trong việc đánh bại đảo chính có vai trò nổi bật của Tổng
thống Liên bang Nga Boris Yeltsin, người đã hiệu triệu dân chúng bảo vệ Nhà Trắng,
trụ sở chính phủ Nga. Thực ra chính CIA đã thông báo trước cho Boris Yeltsin biết
trước về những kế hoạch quan trọng của phe đối lập, giúp ông ta giành thắng lợi trong
cuộc đối đầu với Uỷ ban nhà nước về tình trạng khẩn cấp do CIA đã đãt máy nghe
trộm ngay dưới chân điện Kremli. Đích thân tổng thống Mỹ George Bush (cha) và thủ
tướng Anh là John Major đã gọi điện báo trước về âm mưu đảo chính và thúc giục
Yeltsin phải có hành động nhằm tranh thủ sự đồng tình và nắm chắc quân đội
[1]
Sau đảo chính, tình hình biến chuyển nhanh chóng. Ngày 8 tháng 12 tại Minsk, thủ đô
của Belarus, các nhà lãnh đạo ba nước cộng hòa Nga, Belarus và Ukraina ra tuyên bố
ký thỏa thuận thành lập Cộng đồng các quốc gia độc lập (SNG – Содружество
Независимых Государств), chấm dứt sự tồn tại của Liên bang Cộng hòa Xã hội Chủ
nghĩa Xô viết. Ngày 21 tháng 12 tại Alma Alta, thủ đô của Kazakhstan, tất cả các
nước cộng hòa trừ ba nước vùng biển Baltic ký tuyên ngôn tôn trọng các tôn chỉ và
mục đích của thỏa thuận thành lập Cộng đồng các quốc gia độc lập. Ngày 25 tháng 12
năm 1991, Liên Xô chính thức chấm dứt tồn tại.
Hệ thống chính trị
Liên Xô là nước cộng sản đầu tiên, mô hình chính trị của nhà nước Liên Xô là mẫu
hình chung cho các quốc gia xã hội chủ nghĩa khác. Đặc điểm bao trùm của thể chế
chính trị của nhà nước Liên Xô là chế độ một đảng lãnh đạo.
Khác với đa số các nhà nước hiện đại trên thế giới theo nguyên tắc tam quyền phân

lập, hệ thống chính trị Xô viết theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Đảng Cộng sản lãnh
đạo tối cao và toàn diện mọi mặt: chính trị, xã hội, kinh tế, văn hóa (điều 6 Hiến pháp
Liên Xô). "Cơ quan quyền lực cao nhất" của Liên Xô là Xô viết Tối cao Liên Xô
(Верховный Совет), có cả 3 quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, và trực tiếp đảm
nhiệm chức năng lập pháp. Cơ quan thường trực của Xô viết Tối cao là Đoàn chủ tịch
Xô Viết tối cao Liên Xô. Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Xô viết Tối cao là nguyên thủ quốc
gia trên danh nghĩa, nhưng Tổng Bí thư Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản mới là
nhân vật số một. (Từ năm 1988 "cơ quan quyền lực cao nhất" là Đại hội đại biểu nhân
dân, cơ quan thường trực của nó là Xô viết Tối cao). Ở các cấp địa phương "cơ quan
quyền lực cao nhất" là Xô viết địa phương do dân bầu.
Xô viết Tối cao bầu ra Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (Thủ tướng) và phê chuẩn thành
phần Hội đồng Bộ trưởng (Chính phủ) là cơ quan chấp hành của nó, đảm nhiệm chức
năng hành pháp ở trung ương. Tương tự, Xô viết địa phương bầu ra Uỷ ban hành
chính (Испольнительный коммитет, viết tắt là Исполком - Ispolkom) để đảm
nhiệm chức năng hành pháp ở địa phương.
Xô viết Tối cao cũng bầu Chánh án Tòa án Tối cao đứng đầu cơ quan tư pháp trung
ương là Toà án Tối cao. Xô viết địa phương bầu chánh án toà án các cấp địa phương.
Hiến pháp Liên Xô cũng quy định về các quyền cơ bản của công dân như quyền tự do
ngôn luận, quyền tự do hội họp, tự do tín ngưỡng như các nhà nước hiện đại khác
trên thế giới.
Nhưng về thực chất đặc điểm nổi bật của hệ thống chính trị của Liên Xô là sự bao
trùm của Đảng Cộng sản lên hệ thống chính trị. Đảng Cộng sản Liên Xô
(Коммунистическая партия Советского Союза - КПСС) là cơ quan lãnh đạo theo
hiến pháp quy định, không do dân bầu. Để bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, Liên Xô áp
dụng hệ thống nhân sự theo "Nomenclatura" nghĩa là hệ thống cơ cấu cán bộ theo sự
chỉ định của Đảng: ở mỗi cấp chính quyền hành chính, Xô viết hoặc tư pháp thì luôn
song hành với đảng ủy (Parkom - Партийный коммитет viết tắt là Парком). Các
đảng viên lãnh đạo đảng ủy (hay Parkom) luôn nắm các vị trí chi phối của các Xô viết
theo một tỷ lệ đảm bảo sự lãnh đạo: ứng cử viên vào các Xô viết đều phải được sự đề
cử của các Parkom và các liên danh ứng cử của đảng viên và người ngoài đảng bao

giờ cũng có một tỷ lệ áp đảo của đảng viên. Đối với cơ quan hành pháp cũng vậy các
chức vụ lãnh đạo của các Ispolkom là từ các Parkom, thường thì các phó bí thư đảng
ủy là chủ tịch các uỷ ban hành chính (Ispolkom). Các Xô viết và các Uỷ ban hành
chính các cấp phải chấp hành các chỉ thị của cấp trên theo ngành dọc của mình và các
chỉ thị, nghị quyết của Uỷ ban đảng đồng cấp của địa phương mình và thường các chỉ
đạo này là nhất quán với nhau. Ở cấp các nước Cộng hòa và cấp Liên bang cũng vậy:
Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, Chủ tịch Xô viết tối cao, Chánh án Toà án tối cao
thường là các Uỷ viên Bộ chính trị của Đảng, đôi khi Tổng bí thư kiêm luôn Chủ tịch
Đoàn Chủ tịch Xô viết tối cao (như Brezhnev) hoặc Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng
(như Khrushchov). Các Bộ trưởng Liên bang thường là Uỷ viên Bộ chính trị hoặc
Trung ương Đảng. Khi họp Chính phủ hoặc Đoàn Chủ tịch Xô viết tối cao thì thực tế
là họp Bộ Chính trị mở rộng. Nhân sự các nhiệm kỳ của các cơ quan chính trị, nhà
nước trùng với nhân sự của đại hội Đảng, khi một cá nhân thôi chức tại Parkom thì họ
cũng thôi nhiệm vụ tại Xô viết hoặc Ispolkom Tại Liên Xô chỉ đạo của Đảng là trực
tiếp: Đảng ủy có thể đưa ra các chỉ đạo thẳng đến các Xô viết và các Uỷ ban hành
chính chứ không cần thiết phải biến các nghị quyết đảng đó thành các nghị định của
các ngành này nữa.
Hệ thống chính trị như vậy của nhà nước Liên Xô làm xã hội Xô viết mang đặc tính
tập trung quyền lực rất lớn của Đảng. Có lúc nào đó đặc tính này có thể mang lại tác
dụng tốt nhưng đồng thời nó là nguyên nhân rất dễ dẫn đến các hiện tượng lạm dụng
quyền lực của các cấp đảng vì các cấp ủy đảng thực tế gần như không bị nhân dân
kiểm soát vì Đảng vừa làm ra pháp luật và vừa thi hành pháp luật, mà hệ quả là hiện
tượng vi phạm các quyền tự do của công dân được hiến pháp quy định, cũng như các
tiêu cực khác ví dụ tình trạng không quy được trách nhiệm cá nhân Trong giai đoạn
cuối của Liên Xô hệ thống này đã mất tính uyển chuyển năng động gây ra thời kỳ
được gọi là "thời kỳ trì trệ" của Brezhnev.
Để hạn chế các khiếm khuyết của hệ thống chính trị một đảng lãnh đạo tập quyền tập
trung như vậy, năm 1985 Tổng bí thư Gorbachov đã tiến hành cải cách chính trị. Cuộc
cải cách chính trị của Gorbachov nhằm giảm bớt sự lãnh đạo của Đảng đối với các cơ
cấu nhà nước và xã hội đã gây ra khủng hoảng chính trị và gây ra sự tan rã của Liên

Xô.
Hệ thống Kinh tế
Hội đồng tương trợ kinh tế, một hợp tác kinh tế giữa nhiều nước xã hội chủ nghĩa mà
Liên Xô chủ trì
Mô hình hệ thống kinh tế Liên Xô cơ bản là kinh tế nhà nước, là nền kinh tế phi cạnh
tranh, không định hướng theo thị trường, chịu sự lãnh đạo của Đảng và tập trung hóa,
kế hoạch hóa cao độ cả ở cấp vi mô và vĩ mô. Đây cũng là mô hình kinh tế chung của
các Quốc gia xã hội chủ nghĩa.
• Nền kinh tế nhà nước tập trung: Tuy trong nền kinh tế Xô viết còn có thành
phần kinh tế tập thể trong nông nghiệp là các nông trang tập thể (Kolkhoz –
Коллективное хозяйство, viết tắt là Колхоз), nhưng tỷ trọng áp đảo trong kinh
tế là thành phần nhà nước với các nhà máy xí nghiệp trong công nghiệp và nông
trường quốc doanh Sovkhoz (Советское хозяйство, viết tắt là Совхоз) trong
nông nghiệp, đây là nền kinh tế nhà nước, tập trung điển hình nhất.
• Đảng lãnh đạo toàn bộ nền kinh tế: Các định hướng dài hạn của nền kinh tế đất
nước và địa phương được thông qua tại Đại hội Đảng các cấp và các cấp ủy
Đảng chỉ đạo trực tiếp việc thi hành chính sách kinh tế và giải quyết các khúc
mắc trong quá trình kinh tế.
• Kế hoạch hóa cao độ: Đại hội Đảng xác định các nhiệm vụ ưu tiên của nền kinh
tế và phác thảo ra các chỉ tiêu kinh tế quan trọng của một thời kỳ dài thường là 5
năm và định hướng dài 10 năm, đó là cơ sở để kế hoạch hóa. Sau đó Gosplan
Liên Xô (Cơ quan kế hoạch nhà nước – Госплан) sẽ lập ra kế hoạch cho các kế
hoạch năm năm, đôi khi có kế hoạch bảy năm với các chỉ số kinh tế cụ thể cho
thời hạn 5 năm và từng năm cụ thể. Các kế hoạch của Gosplan sẽ được chuyển
giao cho các Bộ kinh tế. Bộ sẽ lập kế hoạch chi tiết cho ngành mình và giao các
chỉ tiêu kinh tế cho các doanh nghiệp dưới sự chủ quản của bộ. Các doanh
nghiệp trên cơ sở kế hoạch được giao sẽ tính toán các nguồn lực và có thể đệ
trình kế hoạch sản xuất lên các cơ quan chủ quản để đề nghị hiệu chỉnh. Một khi
kế hoạch được thông qua đó sẽ là pháp lệnh nhà nước. Để đảm bảo tài chính
cho các kế hoạch sản xuất các doanh nghiệp sẽ nhận được tiền theo kế hoạch từ

Gosbank (Ngân hàng nhà nước – Госбанк) và nhận nhiên, nguyên vật liệu, và
các sản phẩm trung gian theo kế hoạch từ Gossnab (Cung ứng nhà nước –
Госснабжение). Việc lập kế hoạch được thực hiện rất chi tiết: thậm chí
Gosplan quy định đến cả giá bán buôn và bán lẻ của các loại sản phẩm, như vậy
sẽ rất phức tạp, Gosplan của Liên Xô thực sự là một cơ quan ngang bộ với chức
năng đặc biệt của chính phủ Liên Xô thường do một Uỷ viên Bộ chính trị - Phó
chủ tịch hội đồng bộ trưởng phụ trách kinh tế chỉ đạo với đội ngũ đông đảo các
chuyên gia kinh tế, các nhà quản lý kế hoạch, nhưng việc lập kế hoạch chi tiết
như vậy không thể nào sát được với thực tế cuộc sống kinh tế của đất nước,
không thể tính được các yếu tố thị trường. Vì những lý do trên nền kinh tế của
Liên Xô là nền kinh tế phi cạnh tranh và không định hướng đến thị trường.
Những đặc điểm tập trung hóa, kế hoạch hóa cao độ dưới sự lãnh đạo của Đảng như
vậy có tác dụng dễ dàng tập trung được nguồn lực quốc gia cho các mục tiêu trọng
điểm, những ưu tiên của đất nước ví dụ điển hình như quá trình Công nghiệp hóa
những năm 1930 đã thành công bất kể các căng thẳng của nền kinh tế, cũng như các
dự án chạy đua vũ trang và các dự án lớn khác của Liên Xô sau này. Nhưng đồng thời
nó thường không gắn liền với hiệu quả kinh tế nên thường gây lãng phí rất lớn: Kinh
tế phát triển nhanh nhờ khai thác rất lớn các nguồn tài nguyên thiên nhiên, và năng
suất lao động tăng không tương xứng. Các chỉ tiêu phát triển được duy trì cao nhưng
mức sống của nhân dân ngày càng kém so với các đối thủ tư bản ở nước ngoài.
Kinh tế có kế hoạch và tách xa thị trường nên kinh tế Liên Xô tránh được lạm phát,
tránh được các khủng hoảng và các rủi ro của thị trường như trong các nền kinh tế tư
bản chủ nghĩa, giá cả có khi được duy trì cố định trong vài chục năm. Nhưng nền kinh
tế như vậy là sẽ rất nặng nề không linh hoạt: một doanh nghiệp không hoàn thành kế
hoạch sẽ ảnh hưởng lây lan, do đó kế hoạch được coi như pháp lệnh nhà nước và có
tính bắt buộc rất cao. Vì kế hoạch hóa mang nhiều tính mệnh lệnh quan liêu và không
sát thị trường là một nguyên nhân chính làm hàng hóa Liên Xô có chất lượng và tính
cạnh tranh ngày càng kém so với nước ngoài. Giá cả cố định trong một thời gian khá
dài cộng với thu nhập tăng đều theo kế hoạch điều này là có lợi cho tầng lớp dân cư
lớp dưới kém năng động thích được sống bao cấp, sức mua của người dân tăng cao,

nhưng ngược lại sức mua tăng mà hàng hóa kém chất lượng không theo kịp yêu cầu
của xã hội nên gây nên nạn khan hiếm hàng hóa có giá trị tạo "văn hóa xếp hàng" ở
mọi nơi, gây bất bình trong dân chúng nhất là dân thành thị.
Lợi ích doanh nghiệp và người lao động phụ thuộc vào việc hoàn thành và vượt chỉ
tiêu kế hoạch được giao mà không có đối tượng cạnh tranh (ở Liên Xô cạnh tranh chỉ
dưới hình thức thi đua Xã hội chủ nghĩa). Từ những năm 1960 khi thị hiếu của người
dân nâng cao việc vượt và vượt hơn nữa chỉ tiêu tạo nên số lượng hàng hóa dư thừa
cực kỳ lớn trong xã hội nhưng toàn là hàng khó tiêu thụ đây là sự lãng phí rất lớn cho
xã hội. Trong khi đó xã hội vẫn khan hiếm trầm trọng những hàng hóa có giá trị sử
dụng.
Việc không có cạnh tranh và sản xuất theo kế hoạch làm cho người lao động mất động
lực quyền lợi kinh tế dẫn đến sự sa sút kỷ luật và lòng hăng hái, yêu lao động và nảy
sinh bàng quan, vô trách nhiệm: Vào những năm Stalin và trong chiến tranh người lao
động còn làm việc dưới ảnh hưởng của tinh thần yêu nước và kỷ luật sắt nên sự sa sút
chưa được thể hiện rõ, nhưng về sau vì kém động lực kinh tế nên chiều hướng này là
phổ biến trong tâm lý người lao động. Đồng thời cách trả lương lao động mang tính
bình quân chủ nghĩa không khuyến khích tính năng động và làm bất mãn những người
muốn làm giàu. Để khuyến khích người lao động từ những năm cuối thập kỷ 1970
Liên Xô cho áp dụng khoán sản phẩm trong các xí nghiệp công nghiệp ở phạm vi tổ
đội lao động (Бригадный подряд) nhưng kết quả chỉ thành công hạn chế và không
gây được động lực lớn.
Tất cả những điểm yếu của nền kinh tế Xô viết dội trực tiếp vào nông nghiệp Xô viết
làm nền nông nghiệp Liên Xô ngày càng yếu kém, nông nghiệp và nông thôn không
được tái đầu tư, khoảng cách thành thị – nông thôn là quá lớn thanh niên nông thôn
dồn hết vào thành phố, nông thôn suy thoái, sản xuất nông nghiệp sa sút nghiêm trọng.
Đất nước rộng nhất thế giới, đất đai phì nhiêu mà không đảm bảo nhu cầu nông sản
cho xã hội. Đến giữa những năm 1980 nông nghiệp và nông thôn đã là một vấn đề rất
trầm trọng của xã hội Xô viết. Đảng và chính phủ Liên Xô đã có những cố gắng đầu tư
cho nông nghiệp trong những năm 1970 – 1980 bằng các dự án thành lập các tổ hợp
Nông – công nghiệp nhưng vì chưa đánh giá hết những nguyên nhân gốc rễ và cách

tiếp cận cũng mang tính quan liêu mệnh lệnh nên chương trình nhiều tham vọng này
cũng không thành công.
Đến giữa những năm 1980 nền kinh tế Xô viết đã bộc lộ những điểm yếu rất to lớn
đang làm Liên Xô lạc hậu hơn nữa với các địch thủ tư bản chủ nghĩa, trong nền kinh tế
tích tụ rất nhiều mâu thuẫn ảnh hưởng lớn lên xã hội và đó là nguyên nhân để Tổng bí
thư Gorbachov tiến hành cải cách cải tổ (perestroika), cải cách đã thất bại và Liên Xô
sụp đổ.
Phân chia lãnh thổ
Giai đoạn 1954-1991 Liên Xô bao gồm 15 nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết:
1. Armenia
2. Azerbaidjan
3. Belorussia
4. Estonia
5. Gruzia
6. Kazakhstan
7. Kirghizia
8. Latvia
9. Litva
10. Moldavia
11. Nga
12. Tadjikistan
13. Turkmenia
14. Ukraina
15. Uzbekistan
Và phần lớn các nước này lại được phân chia thành các tỉnh (ngoại trừ 5 nước Latvia,
Litva, Estonia, Moldavia và Armenia).
Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Xô viết Liên bang Nga (RSFSR) được phân chia thành 16
nước cộng hòa tự trị (avtonomnaya respublika-автономная республика), 6 khu (krai-
край) và 49 tỉnh (oblast-область). Dưới cấp khu có thể có tỉnh tự trị, dưới cấp tỉnh và
khu còn có thể có các vùng dân tộc (thiểu số) (nationalny okrug-национальный

округ), đến năm 1977 được đổi tên thành vùng tự trị (avtonomny okrug-автономный
округ). Có tất cả 5 tỉnh tự trị, 10 vùng tự trị.
Trong một số nước cộng hòa (Nga, Gruzia, Azerbaidjan, Uzbekistan, Tadjikistan) còn
có các nước cộng hòa tự trị và tỉnh tự trị.
Tất cả các đơn vị hành chính-lãnh thổ nói trên được phân chia thành các huyện (rayon-
район) và thành phố trực thuộc tỉnh, vùng và nước cộng hòa.
Danh nhân thời Xô viết
Những nhà lãnh đạo quan trọng
• Vladimir Ilyich Lenin (Ulyanov) (Владимир Ильич Ленин, Ульянов) – Lãnh
tụ đầu tiên, người sáng lập nhà nước Liên bang Xô viết.
• Lev Davydovich Trotsky (Лев Давыдович Троцкий) – Nhà lãnh đạo cách
mạng nổi tiếng, người sáng lập Hồng quân công nông, người lãnh đạo thắng lợi
của Hồng quân Bolshevik trong nội chiến (1918 – 1922).
• Iosif Vissarionovich Stalin (Dzhugashvili) (Иосиф Виссарионович Сталин,
Джугашвили) – Lãnh tụ Liên Xô (Tổng bí thư Đảng Cộng sản) sau Lenin.
• Nikita Sergeyevich Khrushchov (Никита Сергеевич Хрущёв) – Bí thư thứ
nhất Đảng cộng sản sau Stalin.
• Leonid Ilyich Brezhnev (Леонид Ильич Брежнев) – Tổng bí thư đảng Cộng
sản sau Khrushov.
• Mikhail Sergeyevich Gorbachov (Михаил Сергеевич Горбачёв) – Tổng bí thư
cuối cùng, người khởi xướng cải tổ, Tổng thống Liên Xô vào thời điểm Liên Xô
tan rã.
Một số chính khách khác
• Feliks Edmundovich Dzerzhinsky (Феликс Эдмундович Дзержинский) –
Lãnh đạo cơ quan Ủy ban đặc biệt trấn áp phản cách mạng thời cách mạng và
nội chiến.
• Maksim Maksimovich Litvinov (Максим Максимович Литвинов) – Nhà
ngoại giao nổi tiếng, tác giả chính sách đối ngoại "An ninh tập thể".
• Vyacheslav Mikhailovich Molotov (Вячеслав Михайлович Молотов) – Chủ
tịch hội đồng bộ trưởng kiêm Bộ trưởng ngoại giao thời Stalin, người ký hiệp

ước Ribbentrop – Molotov.
• Lavrenty Pavlovich Beria (Лаврентий Павлович Берия) – Lãnh đạo Bộ dân ủy
nội vụ NKVD và phụ trách an ninh, công an, mật vụ, trong thời Stalin.
• Andrey Andreyevich Gromyko (Андрей Андреевич Громыко) – Bộ trưởng
ngoại giao Liên Xô những năm 1960 – 1980.
• Dmitri Fyodorovich Ustinov (Дмитрий Фёдорович Устинов) – Nguyên soái,
Bộ trưởng Quốc phòng, nổi tiếng là nhà tổ chức các tổ hợp công nghiệp quốc
phòng Xô viết.
Nhà quân sự
• Georgi Konstantinovich Zhukov (Георгий Константинович Жуков) – Nguyên
soái, chỉ huy công phá Berlin, tiếp nhận sự đầu hàng của Đức trong Thế chiến
thứ hai.
Các nhà khoa học và kỹ thuật
• Andrei Dmitriyevich Sakharov (Андрей Дмитриевич Сахаров) – Viện sỹ Viện
Hàn lâm khoa học Liên Xô, đóng góp quan trọng chế tạo bom khinh khí của
Liên Xô, người đối lập đấu tranh vì nhân quyền tại Liên Xô.
• Igor Vasilyevich Kurchatov (Игорь Васильевич Курчатов) – Viện sỹ Viện
Hàn lâm khoa học Liên Xô, cha đẻ bom nguyên tử của Liên Xô.
• Sergei Pavlovich Korolyov (Сергей Павлович Королёв) – Viện sỹ viện Hàn
lâm khoa học Liên Xô, Tổng công trình sư tên lửa vũ trụ Liên Xô thời vệ tinh
nhân tạo đầu tiên, thời Gagarin bay vào vũ trụ.
• Pyotr Leonidovich Kapitsa (Пётр Леонидович Капица) – Viện sỹ Viện Hàn
lâm khoa học Liên Xô, giải thưởng Nobel, chủ tịch viện các vấn đề Vật lý của
Liên Xô.
• Mikhail Timofeevich Kalashnikov (Михаил Тимофеевич Калашников) –
Tổng công trình sư hệ vũ khí bộ binh dòng súng AK.
• Yuri Alekseyevich Gagarin (Юрий Алексеевич Гагарин) – Nhà du hành vũ trụ
đầu tiên của nhân loại.
Văn nghệ sĩ
• Boris Leonidovich Pasternak (Борис Леонидович Пастернак) – Nhà văn nổi

tiếng tác giả tiểu thuyết "Bác sỹ Zhivago", giải thưởng Nobel.
• Mikhail Aleksandrovich Sholokhov (Михаил Александрович Шолохов) –
Nhà văn nổi tiếng tác giả "Sông Đông êm đềm" giải thưởng Nobel.
• Aleksandr Isayevich Solzhenitsyn (Александр Исаевич Солженицын) – Nhà
văn nổi tiếng lên án chế độ khủng bố Stalin, tác giả "GULAG quần đảo địa
ngục", giải thưởng Nobel.

×