VIỆN GIA ĐÌNH VÀ GIỚI
NUÔI DƯỠNG TRẺ NHỎ Ở MỘT SỐ
ĐỊA PHƯƠNG CỦA VIỆT NAM:
Thực tiễn và vấn đề chính sách
Hà Nội, ngày 22 tháng 01 năm 2013
BẢNG CÁC TỪ VIẾT TẮT
Tổ chức Y tế Thế giới WHO
Viện Dinh dưỡng Quốc gia NIN
Quỹ Nhi đồng Liên hiệp quốc UNICEF
Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên hiệp quốc FAO
Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam TLĐLĐVN
Công nhân, nhân viên CN, NV
Chuyên môn cao CM cao
Tiểu học TH
Trung học cơ sở THCS
Trung học phổ thông THPT
Trung cấp TC
Cao đẳng, Đại học CĐ, ĐH
Hộ gia đình HGĐ
3
LỜI CẢM ƠN
Viện Gia đình và Giới xin trân trọng cảm ơn Hội Nhi khoa Việt Nam đã cộng
tác chặt chẽ và giúp đỡ tích cực, hiệu quả trong quá trình viết báo cáo. Chúng tôi cũng
cảm ơn Công ty Nghiên cứu Thị trường TNS vì đã cung cấp toàn bộ số liệu điều tra.
Chúng tôi chân thành cảm ơn những ý kiến góp ý của Viện Dinh dưỡng Quốc
gia, Ban Gia đình và Xã hội thuộc Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, và nhiều cơ quan,
cá nhân khác. Ý kiến và sự chia sẻ của họ đã góp phần quan trọng giúp nhóm nghiên
cứu hoàn thiện hơn báo cáo.
Xin trân trọng cảm ơn các quý vị.
TM Viện Gia đình và Giới
Viện trưởng
Nguyễn Hữu Minh
4
MỤC LỤC
TÓM TẮT NGHIÊN CỨU 5
I. Bối cảnh ra đời nghiên cứu 5
II. Những phát hiện chính 5
III. Các khuyến nghị chính sách 7
PHẦN MỘT: MỞ ĐẦU 8
1. Giới thiệu 8
2. Mục tiêu nghiên cứu 9
3. Phạm vi nghiên cứu 9
4. Mẫu khảo sát 10
5. Phương pháp phân tích 11
6. Hạn chế của phân tích 12
PHẦN HAI: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 13
I. Thực hành nuôi con bằng sữa mẹ 13
1. Tiêu chuẩn quy định và nội dung phân tích 13
2. Hiểu biết của các bà mẹ về lợi ích của việc cho con bú sữa mẹ 13
3. Cho trẻ bú sớm sau khi sinh 16
4. Cho trẻ bú đúng cách 20
5. Tiếp tục cho bú sữa mẹ khi trẻ được 12 tháng tuổi và 24 tháng tuổi 23
6. Thời gian bú sữa mẹ 29
7. Nhận thức về các biện pháp giúp tăng sinh nguồn sữa mẹ 31
II. Thực hành bổ sung thức ăn cho trẻ 34
1. Tiêu chuẩn cho ăn bổ sung và nội dung phân tích 34
2. Thực hành cho trẻ ăn bổ sung 37
3. Thức ăn bổ sung cho trẻ 7-24 tháng tuổi đủ dinh dưỡng theo khuyến nghị 53
4. Kiến thức, nguồn thông tin về thức ăn bổ sung và lựa chọn của các bà mẹ về
cách cho trẻ ăn 56
PHẦN BA. KẾT LUẬN VÀ MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ 60
1. Về việc cho bé bú sữa mẹ 60
2. Vấn đề cho ăn bổ sung 61
Tài liệu tham khảo 63
5
TÓM TẮT NGHIÊN CỨU
I. Bối cảnh ra đời nghiên cứu
Giảm tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng, hướng tới một thế hệ tương lai khỏe mạnh về
thể chất và trí tuệ đã và đang là một trong những nhiệm vụ trọng tâm và mang tính
chiến lược của Việt Nam. Trong thập kỷ qua Việt Nam đã thành công trong việc cải
thiện tình trạng suy dinh dưỡng ở trẻ em dưới 5 tuổi. Tỷ lệ suy dinh dưỡng thể nhẹ cân
giảm từ 33,8% năm 2000 xuống còn 16,8% năm 2010 và tỷ lệ còi cọc giảm từ 36,5%
năm 2000 xuống còn 27,5% năm 2010 (Viện Dinh dưỡng 2012). Để tiếp tục phát huy
thành tích này, chiến lược quốc gia về dinh dưỡng giai đoạn 2011-2020 và tầm nhìn
2030 đã xác định mục tiêu cụ thể: (i) giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng thể nhẹ cân ở trẻ em
dưới 5 tuổi xuống còn 15% (năm 2015) và dưới 12,5% (năm 2020); và (ii) giảm tỷ lệ
suy dinh dưỡng thể thấp còi xuống còn 26% (năm 2015) và 23% (năm 2020). Để đạt
được mục tiêu này, Nhà nước đã có những chính sách quan trọng nhằm nâng cao hiểu
biết và tăng cường thực hành dinh dưỡng hợp lý, đúng cách cho bà mẹ phù hợp với
từng giai đoạn phát triển của trẻ, theo đúng khuyến nghị của Tổ chức Y tế thế giới
(WHO), Viện Dinh dưỡng quốc gia Việt Nam (NIN) và các tổ chức có liên quan khác.
Tuy nhiên, để có thể đạt được các mục tiêu chính sách đó, các biện pháp thực
hiện phải được xây dựng dựa trên cơ sở thông tin đầy đủ về thực tiễn dinh dưỡng cho
trẻ nhỏ hiện nay ở Việt Nam, đặc biệt là những khó khăn đối với việc thực hành dinh
dưỡng cho trẻ. Với mục đích đó, Nghiên cứu về thực hành nuôi dưỡng trẻ nhỏ ở Việt
Nam đã được thực hiện, dựa trên số liệu khảo sát bằng phương pháp phỏng vấn của
Công ty Nghiên cứu thị trường TNS với sự tư vấn của Hội Nhi Khoa Việt Nam năm
2012, phân tích sâu hơn các tương quan giữa các yếu tố ảnh hưởng và tình trạng nuôi
dưỡng trẻ nhỏ, từ đó nêu ra một số khuyến nghị, giúp cho các nhà hoạch định chính
sách xây dựng các giải pháp có hiệu quả hơn để tối ưu hóa kết quả dinh dưỡng cho trẻ
nhỏ Việt Nam từ 6 đến 24 tháng tuổi và đạt được các mục tiêu của Chiến lược quốc
gia về dinh dưỡng.
II. Những phát hiện chính
Chính sách của Nhà nước và nhận thức của người dân về nuôi con bằng sữa
mẹ rất tích cực
Theo số liệu điều tra, tỷ lệ trẻ đã từng được bú mẹ rất cao (98%) và cao hơn so
với các nước Đông Nam Á theo phương pháp tính toán của WHO (theo Dữ liệu Toàn
cầu của WHO về Dinh dưỡng cho trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ và các nguồn khác). Thời gian
trẻ được bú mẹ cũng trung bình là 15 tháng tuổi. Nhận thức về lợi ích của nuôi con
bằng sữa mẹ ở Việt Nam hiện rất cao. Đại đa số các bà mẹ Việt Nam hiểu đầy đủ về
6
lợi ích của nuôi con bằng sữa mẹ và chỉ có 1,8% phụ nữ trả lời không biết về lợi ích
của việc cho trẻ bú mẹ. Thêm vào đó, phần lớn các bà mẹ biết ngành y tế khuyến cáo
cho con bú mẹ đến 24 tháng, và 3 lý do chính thúc đẩy bà mẹ cho con bú đó là họ tin
rằng: (i) Sữa mẹ là tốt nhất trong việc tăng cường hệ miễn dịch cho con của họ (91%);
(ii) Việc cho bé bú mẹ trong 6 tháng đầu đời là rất quan trọng (78,2%); và (iii) Cho bé
bú mẹ cung cấp dưỡng chất vượt trội cho sự phát triển tối ưu của bé (76%).
Nhà nước cũng đã xây dựng và thực hiện nhiều chính sách quan trọng nhằm
bảo đảm việc nuôi con bằng sữa mẹ. Các chiến lược, kế hoạch hoạt động tuyên truyền,
phổ biến, giáo dục về thực hành nuôi con bằng sữa mẹ, cùng các chính sách nghiêm
ngặt nhằm khuyến khích nuôi con bằng sữa mẹ đã tạo ra được một môi trường pháp lý
- xã hội tốt nhất cho việc nuôi con bằng sữa mẹ. Nghị định 21/2006/NĐ-CP ngày
27/2/2006 của Chính phủ về việc kinh doanh và sử dụng các sản phẩm dinh dưỡng
dùng cho trẻ em được quốc tế đánh giá là một trong những chính sách bảo vệ việc nuôi
con bằng sữa mẹ tích cực nhất, có nhiều điểm vượt xa so với các khuyến nghị của Bộ
Quy tắc Quốc tế về bán ra thị trường các sản phẩm thay thế sữa mẹ của WHO. Tuy
nhiên, nghiên cứu cũng chỉ ra rằng việc thực hành nuôi con bằng sữa mẹ trên thực tế
còn chưa tối ưu do yêu cầu thời gian và hoàn cảnh làm việc của bà mẹ. Ví dụ, nhóm
các bà mẹ không đi làm có tỷ lệ cho con bú đến 2 tuổi cao nhất, trong khi nhóm các bà
mẹ làm công nhân, nhân viên có tỷ lệ cho con bú đến 2 tuổi thấp nhất, do yêu cầu phải
quay trở lại làm việc. Nhà nước đã tiến hành bước đi đầu tiên để khắc phục tình trạng
này bằng việc thông qua Bộ luật Lao động sửa đổi, có hiệu lực thi hành từ tháng
1/5/2013, để bảo đảm về mặt pháp lý cho việc thực hiện khuyến cáo nuôi con hoàn
toàn bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu.
Vấn đề cho ăn bổ sung còn nhiều bất cập
Sữa mẹ là thức ăn đầu tiên và tốt nhất cho trẻ nhỏ, nhưng sau 6 tháng trẻ phát
triển nhanh, nhu cầu dinh dưỡng đòi hỏi cao hơn, vì vậy cần được cho ăn bổ sung (hay
ăn dặm). Theo UNICEF, “kể cả khi trẻ được bú mẹ tối ưu, trẻ có thể bị còi cọc nếu
không được cung cấp đầy đủ thực phẩm bổ sung đảm bảo dinh dưỡng sau 6 tháng
tuổi”. Ăn bổ sung hợp lý là cho trẻ ăn thêm các loại thức ăn khác ngoài sữa mẹ đúng
thời điểm, đúng độ tuổi, hợp lý về số lượng, chất lượng, cân đối giữa các thành phần
dinh dưỡng và được chế biến theo đúng phương pháp. Thực hành cho ăn bổ sung hiện
tại ở Việt Nam chưa tuân đúng theo khuyến nghị về thực hành tốt nhất của WHO và
NIN. Theo WHO, năm 2010, Việt Nam nằm trong số 16 quốc gia có tỷ lệ suy dinh
dưỡng thể thấp còi cao trên phạm vi toàn cầu (dẫn theo Bộ Y tế 2012). Theo NIN, chỉ
có 51,7% được nuôi bổ sung đúng, đủ. Tình trạng thiếu các vi chất cung cấp cho cơ
thể như Vitamin A, Vitamin C và sắt của trẻ em Việt Nam khá cao, chỉ đạt 30-50%
nhu cầu trẻ, trong khi khẩu phần canxi trung bình trên một trẻ em của nước ta chỉ đáp
7
ứng được 49% nhu cầu (Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội 2012). Theo khảo sát,
chỉ có 34,7% các bà mẹ thực hành cho trẻ ăn bổ sung theo đúng thời điểm được
khuyến nghị, tức là kể từ 6 tháng tuổi. Thời điểm cho trẻ ăn bổ sung sớm (trước 5
tháng tuổi) của các bà mẹ ở thành thị cao hơn so với các bà mẹ ở nông thôn (70,7% so
với 63,3%). Thức ăn bổ sung sớm thường là nhóm tinh bột như cơm, cháo, mì (một
điều tra khác của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam cũng cho thấy trên trên 70%
thức ăn bổ sung cho trẻ khi mẹ quay trở lại làm việc là cháo/bột tự nấu). Các bà mẹ là
công nhân, viên chức cho trẻ ăn không đúng cách cao hơn đáng kể so với các nhóm
còn lại (88,2% so với khoảng 60%).
Khẩu phần ăn bổ sung của trẻ từ 7 đến 24 tháng cũng chưa bảo đảm sự đa dạng
các loại thực phẩm và tính cân đối trong khẩu phần thức ăn. Tỷ lệ sản phẩm dinh
dưỡng công thức trong khẩu phần ăn của trẻ nhìn chung còn thấp. Đặc biệt, trẻ em
sống ở nông thôn, trong gia đình có điều kiện kinh tế khó khăn và người mẹ không có
nghề nghiệp ổn định về thu nhập có khẩu phần ăn kém da dạng về dinh dưỡng hơn so
với các trẻ nhỏ khác.
Việc cho trẻ nhỏ ăn bổ sung đúng cách cũng chưa được chú trọng tại Việt Nam,
điều này thể hiện ở việc thực hành cho ăn bổ sung chưa hợp lý của các bà mẹ. Thông
tin về các sản phẩm dinh dưỡng bổ sung được dẫn dắt bởi các quan niệm và thói quen
truyền thống, đặc biệt là ở các vùng nông thôn. Các bà mẹ chủ yếu tìm kiếm thông tin
từ gia đình và bạn bè. Nguồn thông tin về dinh dưỡng bổ sung cho trẻ nhỏ cũng chưa
được phổ biến tới các bà mẹ một cách có hệ thống thông qua các cơ sở y tế và các
kênh xã hội hóa chính thống khác, do vậy, việc hỗ trợ để các bà mẹ có lựa chọn dinh
dưỡng bổ sung tốt nhất cho trẻ nhỏ từ 6 – 24 tháng còn nhiều hạn chế.
III. Các khuyến nghị chính sách
Bên cạnh việc tiếp tục phát huy những thành công đã đạt được về việc nuôi con
bằng sữa mẹ, Chính phủ cần có các giải pháp, cơ chế đồng bộ để bảo đảm việc cho con
bú đối với nhóm các bà mẹ có thu nhập thấp, học vấn thấp, cũng như đối với đối tượng
công nhân và người lao động tự làm việc ở nhà. Ngoài ra, cần chú ý đến nhóm các bà
mẹ có thu nhập cao về việc cho con ăn bổ sung quá sớm. Việc tăng cường tập trung
cho ăn bổ sung an toàn và đảm bảo dinh dưỡng cho trẻ từ 6-24 tháng tuổi chính là yếu
tố then chốt nhằm đạt được các mục tiêu của Chiến lược Dinh dưỡng Quốc gia 2020.
Cần phải có chính sách tiếp tục khuyến khích việc nuôi trẻ hoàn toàn bằng sữa mẹ
trong 6 tháng đầu và tiếp tục cho trẻ bú mẹ đến 24 tháng tuổi, bên cạnh việc bảo đảm
cho các bà mẹ khả năng tiếp cận thuận lợi với các sản phẩm dinh dưỡng bổ sung an
toàn và tốt nhất. Các chính sách cần phải hỗ trợ các bà mẹ để họ có thể đưa ra quyết
định chọn lựa được các dinh dưỡng bổ sung tốt nhất và phù hợp nhất cho con mình.
Cũng cần có những nghiên cứu sâu hơn về vấn đề này.
8
PHẦN MỘT: MỞ ĐẦU
1. Giới thiệu
Sữa mẹ là thức ăn hoàn chỉnh và thích hợp nhất đối với trẻ em khi mới sinh, vì
trong sữa mẹ có đủ năng lượng và chất dinh dưỡng cần thiết. Bú sữa mẹ trong những
năm đầu đời bảo vệ trẻ em khỏi nhiễm bệnh, cung cấp nguồn dinh dưỡng lý tưởng,
đồng thời rất kinh tế và an toàn. Chính vì vậy, chế độ nuôi dưỡng trẻ dưới 6 tháng tuổi
thường được coi là đầy đủ khi trẻ được bú mẹ hoàn toàn trong giai đoạn này.
Tuy nhiên, đối với trẻ trên 6 tháng tuổi, nếu chỉ chú ý đến việc cho trẻ bú mẹ
hoàn toàn là chưa đủ. Theo Báo cáo nghiên cứu Khối lượng và Chất lượng của Sữa mẹ
năm 1985 của Tổ chức Y tế thế giới (“WHO”), “chỉ có một tỷ lệ nhỏ các bà mẹ [có đủ
khối lượng và chất lượng sữa] có thể đáp ứng nhu cầu [dinh dưỡng] của một trẻ cân
nặng khoảng 7kg. Việc thiếu thức ăn bổ sung và mắc một số bệnh khi còn nhỏ, hơn
là sự thiếu chất hay kém chất của sữa mẹ, là lý do của sự chậm phát triển thể lực của
trẻ em ở các nước đang phát triển so với trẻ ở các nước phát triển”.
1
WHO cũng kết luận trong báo cáo này là: “Những luận điểm khuyến khích bú
sữa mẹ là rất hợp lý. Cho con bú sữa mẹ vừa kinh tế, vừa bổ sung các chất đề kháng
cho trẻ. Tuy nhiên, việc kêu gọi kéo dài thời gian bú mẹ đã đánh giá thấp sự thật là dù
sớm hay muộn nguồn cung cấp (về khối lượng và chất lượng) sữa mẹ sẽ không thể đáp
ứng nhu cầu dinh dưỡng của trẻ và việc bổ sung thức ăn khác là không thể tránh khỏi”.
Như vậy, giai đoạn cần cho trẻ ăn bổ sung là khi trẻ được 6 đến 24 tháng tuổi, -
là giai đoạn rất nhạy cảm vì đó là thời gian nhiều trẻ bắt đầu có dấu hiệu suy sinh
dưỡng. Thời điểm thích hợp cho tất cả trẻ sơ sinh được cho ăn bổ sung bên cạnh việc
bú mẹ bắt đầu từ tháng thứ 6 trở đi. Thức ăn bổ sung cần bảo đảm đủ lượng, đủ bữa,
ổn định và đa dạng đảm bảo đủ dinh dưỡng song song với sữa mẹ
2
.
NIN cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của giai đoạn cho ăn bổ sung trong việc
phòng ngừa còi cọc. Đánh giá dinh dưỡng của NIN năm 2009-2010 chỉ ra rằng tỷ lệ
thấp còi tăng cao nhất trong năm thứ hai của cuộc đời - khi thức ăn bổ sung chiếm tỷ lệ
lớn hơn trong tổng lượng dinh dưỡng của trẻ nhỏ (tăng 9,5% so với năm đầu tiên) có
trong các giai đoạn tăng trưởng của trẻ dưới 5 tuổi.
3
Nghiên cứu của Tổ chức Thrives
1
Nguồn: WHO, Báo cáo nghiên cứu Khối lượng và Chất lượng của Sữa mẹ năm 1985, trang 74
2
Nguồn: WHO, htttp://www.who.int/nutrition/topics/complementary_feeding/en/index.html
3
Nguồn: Viện Dinh dưỡng Việt Nam và Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc, Đánh giá Thực trạng dinh dưỡng Việt
Nam, 2009-2010, tháng 4/2011
9
and Alives cho thấy rằng có mối quan hệ giữa các chỉ số về cho ăn bổ sung (đa dạng,
đủ bữa) và tỷ lệ suy dinh dưỡng thể thấp còi.
4
Chính phủ Việt Nam đã khuyến khích áp dụng: (1) cho trẻ bắt đầu ăn bổ sung từ
tháng thứ 7 nghĩa là từ khi trẻ được vừa tròn 180 ngày tuổi trở đi; (2) Trong trường
hợp bà mẹ vì bất kể một lý do nào đó không có sữa hoặc không thể cho con bú được,
phải sử dụng các sản phẩm thay thế sữa mẹ cho trẻ. Sau thời gian này, trẻ cần được
cho ăn bổ sung hợp lý để đáp ứng nhu cầu phát triển của trẻ, đồng thời tiếp tục duy trì
cho trẻ bú sữa mẹ ít nhất cho đến khi trẻ được 24 tháng. Thời điểm trẻ em được
khuyến nghị ăn bổ sung còn gọi là ăn sam, ăn dặm là một thời kỳ rất quan trọng đối
với sự phát triển của trẻ.
Tóm lại, việc cho bé bú sữa mẹ ngay sau khi sinh và bú hoàn toàn trong 6 tháng
đầu cũng như có chế độ bổ sung thức ăn hợp lý cho bé sau 6 tháng tuổi là những yếu
tố quan trọng giúp cải thiện tình trạng phát triển của trẻ em. Dựa trên số liệu điều tra
của Công ty Nghiên cứu Thị trường TNS đã được Hội Nhi khoa Việt Nam phê duyệt,
báo cáo nghiên cứu này tập trung phân tích thực trạng và các yếu tố liên quan đến việc
cho trẻ bú mẹ và việc cho trẻ ăn bổ sung trong giai đoạn 7-24 tháng tuổi.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Thu thập thông tin về thói quen nuôi dưỡng trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ từ 0-4 tuổi ở
Việt Nam (xem Báo cáo số liệu khảo sát trong Phụ lục).
Xác định các yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến hành vi nuôi dưỡng trẻ nhỏ từ 7-
24 tháng ở Việt Nam.
Dựa trên kết quả phân tích số liệu, Báo cáo sẽ nêu ra một số khuyến nghị về chính
sách để giúp cho các cơ quan hoạch định chính sách có thêm bằng chứng phục vụ cho
việc xây dựng văn bản pháp luật.
3. Phạm vi nghiên cứu
Việc cho bé bú sữa mẹ ngay sau khi sinh và bú hoàn toàn trong 6 tháng đầu
cũng như có chế độ bổ sung thức ăn hợp lý cho bé sau 6 tháng tuổi là những yếu tố
quan trọng giúp cải thiện tình trạng phát triển của trẻ em. Tuy nhiên, tình hình dinh
dưỡng cho trẻ từ 7 đến 24 tháng tuổi hiện nay dường như đang có nhiều vấn đề bất cập
nhất. Theo báo cáo của nhiều tổ chức y tế trong và ngoài nước thì tình trạng suy dinh
dưỡng và thấp còi tại Việt Nam tăng vọt trong 2 năm đầu đời (67%) và tăng đáng kể
ngay sau khi thời kỳ nuôi con hoàn toàn bằng sữa mẹ kết thúc và khi việc cho ăn bổ
sung bắt đầu chiếm tỷ trọng lớn hơn trong khẩu phần ăn của trẻ (tức khi trẻ trên 6
4
Nguồn: Alive&Thrive và Viện Nghiên cứu Y-Xã hội học (ISMS) 2012: Báo cáo toàn văn điều tra 11 tỉnh:
Thực hành nuôi dưỡng trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ. 2012, trang 46
10
tháng tuổi). Cụ thể, tỷ lệ thấp còi tăng vọt lên 20-30% với trẻ từ 6-12 tháng và đến 30-
40% với trẻ từ 15-20 tháng (theo Dữ liệu của Viện Dinh Dưỡng Quốc gia). Chính vì
vậy, với mục đích của Nghiên cứu là nhằm đưa ra một số gợi ý, giúp các nhà hoạch
định chính sách có thông tin trong việc xây dựng kế hoạch hành động cụ thể nhằm
giúp Việt Nam đạt được các mục tiêu của Chiến lược Dinh Dưỡng Quốc gia 2011-
2020 nên các phân tích, đánh giá của Nghiên cứu chủ yếu tập trung vào giai đoạn trẻ
từ 7 đến 24 tháng tuổi. Đối với việc cho trẻ dưới 6 tháng tuổi bú sữa mẹ hoàn toàn,
cho tới nay đã có nhiều nghiên cứu với quy mô khảo sát lớn của các cơ quan, tổ chức
có liên quan; Nhà nước cũng đã xây dựng được các chính sách chặt chẽ, rõ ràng, thu
hút được sự quan tâm tuyên truyền, giáo dục của các cấp chính quyền và đông đảo các
tổ chức có liên quan nên Nghiên cứu này chỉ đề cấp tới một số kiến nghị về công tác tổ
chức thực hiện nhằm thực hiện tốt hơn các chính sách đã đạt được.
4. Mẫu khảo sát
Khảo sát được tiến hành bởi Công ty TNS, sử dụng phương pháp định lượng
với 1200 mẫu các bà mẹ được chọn một cách ngẫu nhiên. Khung mẫu bao gồm các bà
mẹ trong độ tuổi 18-40 tuổi, có con trong độ tuổi 0-4, ở các tầng lớp xã hội và nghề
nghiệp khác nhau. Nếu người mẹ có nhiều hơn một con, thì con nhỏ nhất sẽ được chọn
lấy thông tin.
Các mẫu được lấy rộng khắp 3 miền: Bắc, Trung, Nam Việt Nam, bao gồm cả
khu vực thành thị và nông thôn. Có 4 thành phố chính là Hà Nội, thành phố Hồ Chí
Minh, Cần Thơ, Đà Nẵng – đại diện cho khu vực thành thị. Ở khu vực nông thôn có 4
tỉnh tham gia là Thái Bình, Nghệ An, Đồng Nai, Tiền Giang, đại diện cho 4 vùng phía
Bắc, Trung, Đông Nam Bộ và Đồng Bằng Sông Cửu Long. Cỡ mẫu n = 150 ở mỗi tỉnh.
Số lượng mẫu ở các địa phương cụ thể như sau (Bảng 1):
Bảng 1: Phân bố cỡ mẫu khảo sát
Khu vực Thành thị Nông thôn Tổng số
Bắc Bộ Hà Nội n=150 Thái Bình n=150 300
Trung Bộ Đà Nẵng n=150 Nghệ An n=150 300
Đông Nam Bộ Tp. Hồ Chí Minh n=150
Đồng Nai n=150 300
Đồng bằng sông Cửu Long Cần Thơ n=150 Tiền Giang n=150 300
Tổng cộng 600 600 1200
Các phỏng vấn viên trực tiếp sử dụng bảng câu hỏi cấu trúc với thời gian phỏng vấn
trung bình là 60 phút (xem Bảng câu hỏi phỏng vấn ở Phụ lục 2).
11
5. Phương pháp phân tích
Số liệu trước hết được phân tích đơn biến để xác định hiện trạng thực hành nuôi
dưỡng trẻ nhỏ, liên quan đến việc cho trẻ bú sữa mẹ và cho bé ăn thức ăn bổ sung.
Tiếp đó, nhóm nghiên cứu phân tích thực hành nuôi dưỡng trẻ nhỏ theo một số đặc
trưng cơ bản như:
Tuổi của mẹ;
Trình độ học vấn của mẹ;
Nghề nghiệp hiện nay của mẹ (đã được nhóm lại thành 4 nhóm chính là: i) Tự
làm riêng, ii) Làm ăn lương: công nhân, nhân viên, iii) Làm ăn lương: chuyên
môn cao, iv) Không đi làm với tiêu chí phân biệt là khả năng linh hoạt của người
mẹ về mặt thời gian trong công việc);
Nơi cư trú của mẹ (thành thị/nông thôn);
Thứ tự sinh của bé (lần đầu, lần thứ hai trở đi);
Hình thức sinh bé (đã được nhóm lại thành hai hình thức chính: i) sinh thường, ii)
sinh có can thiệp);
Thu nhập hàng tháng của hộ gia đình (đã được phân nhóm lại thành 3 nhóm: i)
<= 4,5 triệu đồng/tháng, ii) Từ 4,6-6,5 triệu đồng/tháng, iii) Trên 6,5 triệu
đồng/tháng).
Do ảnh hưởng của các yếu tố trên đến việc thực hành nuôi dưỡng trẻ nhỏ có thể
xảy ra đồng thời nên thông qua phân tích hai biến khó có thể xác định vai trò của từng
yếu tố. Để làm rõ tác động của từng yếu tố nhóm nghiên cứu đã sử dụng các mô hình
phân tích đa biến với hệ các biến số độc lập đã nêu trên.
Kết quả phân tích được trình bày theo hai nội dung chính sau:
a) Thực hành nuôi con bằng sữa mẹ
b) Thực hành cho trẻ ăn bổ sung
Đối với mỗi nội dung nêu trên các tác giả luôn đối chiếu với những quy chuẩn quốc
gia hoặc quốc tế để đánh giá mức độ thực hành nuôi dưỡng trẻ nhỏ một cách khoa học.
Do vấn đề thực hành nuôi con bằng sữa mẹ và thực hành cho trẻ ăn bổ sung có thể
chịu tác động của các yếu tố khác nhau nên việc so sánh với các nghiên cứu có liên
quan không thực hiện riêng mà gắn vào với mỗi nội dung. Mẫu phân tích cho từng vấn
đề cũng khác nhau và được giải thích rõ ở mỗi phần.
12
6. Hạn chế của phân tích
Vấn đề thực hành nuôi dưỡng trẻ nhỏ có liên quan đến nhiều yếu tố kinh tế-xã
hội khác nhau và đòi hỏi có sự phân tích hết sức chi tiết để lý giải chính xác đặc điểm
của mỗi loại hành vi hay nhận thức. Tuy nhiên, nhóm nghiên cứu sử dụng số liệu có
sẵn vì vậy trong một số trường hợp không có đầy đủ thông tin để phân tích sâu, bao
gồm cả phân tích đa biến.
Mặc dù mẫu nghiên cứu đã trải rộng trên cả ba vùng miền và bao gồm cả các khu
vực thành thị và nông thôn, tuy nhiên vẫn không bảo đảm đây là số liệu có tính đại
diện quốc gia. Vì vậy các kết luận rút ra cần được hiểu trong khuôn khổ của mẫu đã
được chọn. Trong một số trường hợp, mẫu phân tích chỉ là một bộ phận trong tổng thể
mẫu, số lượng hạn chế, vì vậy không thực hiện được các phân tích chi tiết.
13
PHẦN HAI: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
I. Thực hành nuôi con bằng sữa mẹ
1. Tiêu chuẩn quy định và nội dung phân tích
Việc thực hành nuôi con bằng sữa mẹ được xem xét căn cứ vào các chỉ tiêu
theo dõi hoạt động nuôi con bằng sữa mẹ được WHO và Quỹ Nhi đồng Liên hiệp quốc
(UNICEF) khuyến nghị bao gồm:
Cho trẻ bú sữa mẹ ngay sau khi sinh (được hiểu là trong 1 giờ đầu sau khi
sinh)
Cho trẻ bú đúng cách (tập trung vào cách thức cho con bú)
Tiếp tục bú mẹ khi được 12 tháng và 24 tháng tuổi
Thời gian bú sữa mẹ dài
Việc thực hành cho trẻ bú sữa mẹ phụ thuộc rất nhiều vào nhận thức của các bà mẹ về
việc cho con bú. Vì vậy trước hết nhóm nghiên cứu phân tích những hiểu biết của các
bà mẹ về lợi ích của việc cho con bú sữa mẹ.
2. Hiểu biết của các bà mẹ về lợi ích của việc cho con bú sữa mẹ
Kết quả khảo sát cho thấy nhận thức của người dân về lợi ích của việc nuôi con
bằng sữa mẹ rất tích cực. Theo số liệu điều tra, hầu hết phụ nữ (88%) biết rõ về những
lợi ích của việc cho trẻ bú mẹ
5
, bên cạnh đó là 10,2% phụ nữ có biết đôi chút về những
lợi ích này và tỷ lệ phụ nữ trả lời không biết về lợi ích của việc cho trẻ bú mẹ chỉ có
1,8% (Biểu đồ 1.1). Ngoài ra, tìm hiểu sự hiểu biết của các bà mẹ về lợi ích của việc
cho con bú sữa mẹ, trong số 1160 bà mẹ trả lời phỏng vấn, có ba lý do chủ yếu thúc
đẩy họ cho con bú mẹ là vì họ tin rằng: i) Sữa mẹ là tốt nhất trong việc tăng cường hệ
miễn dịch cho con của họ (91%), ii) Việc cho bé bú mẹ trong 6 tháng đầu đời là rất
quan trọng (78,2%), iii) Cho bé bú mẹ cung cấp dưỡng chất vượt trội cho sự phát triển
tối ưu của bé (76%). Đây là tín hiệu khả quan cho những nỗ lực của Nhà nước và các
cơ quan hữu quan trong quá trình thực hiện các chiến lược, các hoạt động tuyên truyền,
giáo dục về thực hành nuôi con bằng sữa mẹ
6
.
5
Hiểu biết của người mẹ về những lợi ích của việc cho bé bú mẹ được xây dựng từ câu hỏi Q16, với việc nhóm
5 phương án trả lời lại thành 3 phương án để phân tích: 1/Không biết và biết rất ít = Không biết, 2/ Biết
mộtchút, 3/ Biết khá rõ và biết rất rõ = Biết rõ.
6
Ví dụ về các chương trình/dự án đã được thực hiện để thúc đẩy nuôi con bằng sữa mẹ
- Hỗ trợ 20.000 lao động nữ nuôi con bằng sữa mẹ đúng cách. Nguồn: Báo điện tử Chính phủ nước
CHXHCNVN, />cach/201211/153293.vgp.
- “Nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu”: Nhận thức của mẹ - sức khoẻ của con. Nguồn: Tổng
Liên đoàn Lao động Việt Nam,
14
Biểu đồ 1.1: Tỷ lệ phụ nữ biết về lợi ích của việc cho trẻ bú mẹ
88
1.8
10.2
0
10
20
30
40
50
60
70
80
90
100
Không biết Biết một chút Biết rõ
Tỷ lệ %
Nhìn chung, sự khác biệt về nhận thức giữa các nhóm người mẹ có đặc điểm
nhân khẩu-xã hội khác nhau là tương đối nhỏ (trên dưới 5 điểm phần trăm) (xem Bảng
1.1). Cụ thể, tỷ lệ phụ nữ thuộc các gia đình có thu nhập trung bình từ 6,5 triệu
đồng/tháng trở lên biết rõ về ích lợi của việc cho bé bú mẹ cao hơn so với nhóm phụ
nữ thuộc các gia đình có mức thu nhập trung bình từ 4,5 triệu đồng/tháng trở xuống
(90,5% so với 86,5%). Tỷ lệ phụ nữ có trình độ học vấn từ cao đẳng/đại học trở lên
biết rõ về lợi ích của nuôi con bằng sữa mẹ (91%) cũng cao hơn tỷ lệ này ở phụ nữ có
học vấn từ lớp 9 trở xuống (85,7%).
Sự khác biệt về nhận thức của các bà mẹ thể hiện rõ hơn một chút khi so sánh
ngành nghề của họ: chỉ có 82,5% bà mẹ có công việc tự làm riêng biết rõ về lợi ích của
việc cho bé bú mẹ, trong khi tỷ lệ này ở nhóm phụ nữ làm công ăn lương có chuyên
môn cao là 94,3%.
- Mười bước Nuôi con bằng sữa mẹ thành công. Nguồn: Sở y tế Thành phố Hà Nội,
- Hưởng ứng Tuần lễ Nuôi con bằng sữa mẹ từ 1/8-7/8. Nguồn: Viện Dinh dưỡng Việt Nam,
15
Bảng 1.1: Hiểu biết của phụ nữ về lợi ích của việc cho bé bú mẹ
- so sánh theo các đặc trưng của người mẹ
Tỷ lệ phụ nữ biết về lợi ích của
việc cho trẻ bú mẹ (%)
Số
lượng
Không biết Biết một chút Biết rõ
Thu nhập hộ gia đình
- <=4,5 triệu đồng/tháng 507
2,1
11,5
86,5
- 4,6-6,5 triệu đồng/tháng 522
1,4
9,4
89,2
- Trên 6,5 triệu đồng/tháng 171
2,2
7,3
90,5
Trình độ học vấn của mẹ
- Từ 0-9 438
2,3
11,9
85,7
- Từ 10-12+Trung cấp 516
1,6
9,9
88,5
- Cao đẳng/đại học trở lên 241
0,5
8,5
91,0
Tuổi của mẹ
- 18-25 tuổi 331
1,5
11,1
87,4
- 26-30 tuổi 445
1,5
11,3
87,2
- 31-35 tuổi 277
1,8
8,4
89,8
- 36-40 tuổi 147
3,0
8,3
88,6
Thứ tự sinh con
- Con đầu lòng 621
1,2
9,5
89,3
- Con thứ 579
2,3
11,0
86,7
Nơi cư trú
- Thành thị 600
1,8
10,5
87,7
- Nông thôn 600
1,9
10,1
88,0
Nghề nghiệp hiện nay
- Tự làm riêng 292
2,6
14,9
82,5
- Làm ăn lương: Công nhân
nhân viên
178
2,0
7,8
90,2
- Làm ăn lương:chuyên
môn cao
180
0,7
5,0
94,3
- Không đi làm 549
1,2
9,3
89,5
Hình thức sinh bé
- Sinh thường 916
1,5
9,8
88,6
- Sinh có can thiệp 284
2,7
12,1
85,2
16
Phần lớn các bà mẹ biết khuyến cáo của ngành y tế về việc cho con bú đến 24
tháng tuổi (67,3%), ngoài ra, chỉ có 11,9% phụ nữ cho rằng ngành y tế khuyến cáo cho
trẻ bú mẹ đến 12 tháng. Tuy nhiên, những bà mẹ thuộc các nhóm như gia đình có mức
thu nhập 4,5 triệu/tháng trở xuống, hiện sinh sống ở nông thôn, tự làm riêng, đã sinh
con thứ hai trở lên biết rõ hơn về khuyến cáo cho con bú mẹ đến 24 tháng của ngành y
tế so với nhóm các bà mẹ thuộc các nhóm: gia đình có mức thu nhập từ 4,6 triệu
đồng/tháng trở lên, ở thành thị, làm công ăn lương hay không đi làm, mới có con đầu
lòng. Đáng lưu ý là có hơn một nửa số các bà mẹ có nghề nghiệp là công nhân, nhân
viên không biết đến khuyến cáo cho con bú mẹ đến 24 tháng của ngành y tế. Điều này
đặt ra yêu cầu cần quan tâm hơn đến việc tuyên truyền cho các bà mẹ công nhân, nhân
viên. Kết quả này cũng có thể còn do ở khu vực đô thị các bà mẹ thường tự tìm hiểu về
các vấn đề chăm sóc con, trong khi đó ở nông thôn việc tuyên truyền thông qua hội
phụ nữ là khá tốt. Trong hoàn cảnh đó, nếu công việc quá bận bịu thì các bà mẹ ở đô
thị hay là công nhân sẽ có ít điều kiện biết thông tin hơn.
Nhìn chung, phần lớn các bà mẹ có nhận thức tốt về lợi ích của việc cho bé bú
mẹ và biết đến khuyến cáo về thời gian nên duy trì việc cho bé bú mẹ của ngành y tế.
Thực tế đáng khích lệ này cũng được chứng minh thêm khi có 75,9% phụ nữ trong
diện khảo sát cho rằng, theo ý kiến cá nhân của họ thì 24 tháng là khoảng thời gian tốt
nhất duy trì việc cho bé bú mẹ. Sự tương đồng giữa việc phụ nữ “biết” về khuyến cáo
của ngành y tế với việc họ “đồng ý” rằng 24 tháng là khoảng thời gian tốt nhất duy trì
việc cho trẻ bú sữa mẹ phần nào cho thấy tác động tích cực của các chiến dịch truyền
thông và chính sách hỗ trợ nuôi con bằng sữa mẹ đến nhận thức của người mẹ. Số liệu
này cũng tương đồng với kết quả điều tra của Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam
(TLĐLĐVN), Điều tra về Nghỉ thai sản và Nuôi con bằng sữa mẹ của Lao động nữ,
tháng 9/2011 (gần 83% số bà mẹ quan niệm rằng cho trẻ bú mẹ kéo dài trên 12 tháng
và 67,8% cho rằng cần bú mẹ kéo dài đến 24 tháng). (Phạm Thị Thanh Hồng 2011)
Tỷ lệ cao các bà mẹ tự thừa nhận là biết rõ lợi ích của việc cho con bú sữa mẹ là
cơ sở nhận thức quan trọng của việc cho con bú sữa mẹ đúng cách. Tuy nhiên, từ nhận
thức này đến thực hành còn có khoảng cách. Dưới đây sẽ lần lượt xem xét các thực
hành cho bé bú theo các chỉ tiêu theo dõi do WHO và UNICEF khuyến nghị.
3. Cho trẻ bú sớm sau khi sinh
Cho trẻ bú sữa mẹ ngay sau khi sinh là một việc làm quan trọng nhằm làm giảm
tỷ lệ tử vong của trẻ sơ sinh, đồng thời tạo tiền đề cơ sở vững chắc cho sức khỏe và sự
phát triển của trẻ. Mặc dù lượng sữa lúc đầu rất ít nhưng việc cho con bú sớm ngay sau
khi sinh sẽ giúp người mẹ sản xuất được nhiều sữa hơn. Vì thế, các chuyên gia y tế
17
khuyến nghị việc bú sữa mẹ nên được thực hiện ngay trong vòng 1 giờ sau khi trẻ em
được sinh ra.
Theo kết quả khảo sát, trong số 1160 trẻ em đã từng được bú mẹ, chỉ có 42,6%
trẻ em được mẹ cho bú ngay sau khi sinh (Bảng 1.2). Kết quả này có thể do một số bà
mẹ vẫn còn bị ảnh hưởng bởi tập quán cho con bú khi bầu vú căng sữa (hay còn gọi là
xuống sữa). Thời gian chờ đợi cho việc xuống sữa thường là 1-2 ngày sau khi sinh.
Việc người mẹ chờ đợi đủ sữa để cho con bú là một quan niệm sai lầm và ảnh hưởng
không tốt đến sức khỏe của trẻ sơ sinh. Trẻ bú muộn sẽ không được tiếp cận với sữa
non - nguồn sữa có nhiều vitamin A chống bệnh khô mắt, có nhiều kháng thể giúp trẻ
chỗng nhiễm khuẩn và đỡ bị vàng da.
Trẻ em là con đầu có tỷ lệ được bú sữa mẹ ngay sau khi sinh thấp hơn trẻ em có
số thứ tự sinh khác, 33% so với 52%. Điều này thể hiện sự tích lũy kiến thức, kinh
nghiệm của người mẹ ở lần sinh khác so với lần sinh đầu trong việc cho trẻ bú sớm
ngay sau khi sinh.
Người mẹ sinh ở bệnh viện công có tỷ lệ cho con bú sớm ngay sau khi sinh thấp
hơn so với người mẹ sinh ở nơi khác. Hình thức sinh của người mẹ cũng có mối liên
hệ với việc cho con bú sớm ngay sau khi sinh. Các bà mẹ sinh mổ hoặc có can thiệp có
tỷ lệ cho con bú sớm ngay sau khi sinh chỉ bằng một nửa (22% so với 47,1%) so với
những người mẹ khác. Nguyên nhân có thể là do theo khuyến cáo của ngành y tế đối
với những trường hợp sinh mổ, thời gian bắt đầu cho trẻ bú nên khoảng sau 6 giờ vì
người mẹ phải đợi hồi phục sau tác dụng của thuốc gây mê và kháng sinh.
So với hai nhóm tuổi trẻ nhất (18-25 tuổi) và lớn nhất (36-40 tuổi), người mẹ ở
nhóm tuổi 26-30 và 31-35 có tỷ lệ cho con bú sớm sau sinh cao hơn với tỷ lệ là 44%
và 47,4%, so với 36,8% và 42,1%.
18
Bảng 1.2: Tỷ lệ cho con bú sớm ngay sau khi sinh chia theo
một số đặc trưng cơ bản của người mẹ
Phần trăm Số trường hợp
Số lần sinh
Lần đầu 33,0 181
Lần thứ hai trở đi 52,0 251
Nơi sinh
Bệnh viên công 39,5 286
Nơi khác 48,3 146
Hình thức sinh
Sinh thường 47,0 381
Sinh mổ/có can thiệp 22,1 51
Tuổi của mẹ
18-25 36,8 106
26-30 44,0 163
31-35 47,5 113
36-40 42,3 50
Học vấn của mẹ
0-9 51,2 180
10-12, Trung cấp 39,1 177
Cao đẳng, Đại học trở lên 34,0 73
Nghề nghiệp của mẹ
Tự làm riêng 56,3 138
Làm ăn lương: NV, CN 35,8 55
Làm ăn lương: CM cao 25,6 47
Không đi làm 40,1 192
Nơi cư trú
Thành thị 28,3 167
Nông thôn 49,3 265
Chung 42,6
432
Có xu hướng là những người mẹ ở nhóm học vấn thấp hơn có tỷ lệ cho con bú
sớm cao hơn nhóm có học vấn cao hơn. Khoảng một nửa (51,1%) bà mẹ có trình độ
học vấn từ THCS trở xuống đã cho con bú ngay sau khi sinh, tỷ lệ này giảm xuống còn
khoảng 40% ở nhóm có trình độ THPT và 34% ở nhóm có trình độ cao đẳng, đại học
trở lên. Ngay cả khi tách ra theo nhóm con sinh lần đầu và sinh lần khác thì nhóm bà
mẹ có học vấn cao hơn vẫn có có tỷ lệ cho con bú sớm ngay sau khi sinh thấp hơn ở cả
hai nhóm con đầu và không phải con đầu (Biểu đồ 1.2).
19
Biểu đồ 1.2: Tỷ lệ trẻ em được bú sớm ngay sau khi sinh
chia theo học vấn và lần sinh của người mẹ
35.8
32.5
31.1
33.1
61.4
46
39.3
51.9
0
10
20
30
40
50
60
70
0-9 10-12 + TC >= CĐ ĐH Chung
Lần đầu Lần khác
Xét theo nhóm nghề nghiệp của người mẹ: Tỷ lệ trẻ được bú sớm ngay sau khi
sinh cao nhất ở trong nhóm có mẹ tự làm riêng, 56%, tiếp theo là ở nhóm có mẹ không
đi làm, 40%. Trẻ em là con của những người mẹ làm công ăn lương có chuyên môn
cao có tỷ lệ được bú sớm sau khi sinh thấp nhất, 25,6%, và tỷ lệ này ở trẻ có mẹ làm
công ăn lương là nhân viên hoặc công nhân là 35,8% (Bảng 1.2). Kể cả khi phân tích
riêng cho các bé sinh lần đầu và các lần sau thì kết quả này vẫn giữ nguyên. Trẻ em là
con của người mẹ làm công ăn lương với chuyên môn cao có tỷ lệ được bú sớm ngay
sau khi sinh thấp nhất ở cả hai nhóm, 24% ở nhóm có thứ tự sinh lần đầu và 30% ở
nhóm có thứ tự sinh khác. Trong khi đó tỷ lệ trẻ em được bú mẹ ngay sau khi sinh vẫn
cao nhất trong nhóm có mẹ tự làm nghề riêng, 41,1% ở nhóm có thứ tự sinh đầu và
63,2% ở nhóm có thứ tự sinh khác (Biểu đồ 1.3).
Biểu đồ 1.3: Tỷ lệ trẻ em được bú sớm ngay sau khi sinh
chia theo nghề nghiệp và lần sinh của người mẹ
41.1
32.5
23.9
33.2
63.2
40.6
29.3
48.4
0
10
20
30
40
50
60
70
Tự làm riêng CN, NV CM cao K0 đi làm
Lần đầu Lần khác
Trẻ em ở khu vực nông thôn có tỷ lệ được bú sớm ngay sau khi sinh cao hơn so
với trẻ em ở khu vực thành thị, 49,3% so với 28,3% (Bảng 1.2). Chênh lệch giữa hai
khu vực về tỷ lệ trẻ được bú sớm ngay sau khi sinh khoảng 21 điểm phần trăm.
20
4. Cho trẻ bú đúng cách
Theo hướng dẫn của ngành y tế, cho trẻ bú đúng cách là cho bú hết một bên rồi
chuyển sang bú bên kia nếu trẻ còn đói. Người mẹ không nên cho trẻ bú một chút bên
này rồi một chút bên kia vì như vậy là trẻ sẽ chỉ bú sữa trong dẫn đến trẻ dễ bị tiêu
chảy và không tăng cân. Đối với trẻ mới sinh, nếu không bú hết sữa thì người mẹ phải
vắt bỏ sữa còn lại trong bầu vú tránh còn thừa sữa sẽ làm hạn chế việc tiết sữa.
Cuộc khảo sát tiến hành thu thập thông tin đối với 543 người mẹ hiện vẫn đang
cho con bú về cách thức cho con bú. Kết quả phân tích cho thấy, chỉ có khoảng một
phần ba (33%) người mẹ đang cho con bú thực hiện việc cho bú đúng bằng cách cho
bú hết một bên rồi sang bên kia.
Thứ tự lần sinh của người mẹ không có mối liên hệ với việc cho con bú đúng
cách, nghĩa là giữa nhóm người mẹ sinh lần đầu và nhóm người mẹ sinh lần khác đều
có tỷ lệ tương đương nhau trong việc cho trẻ bú đúng cách. Tương tự, tuổi và nơi cư
trú của người mẹ là nông thôn hay thành thị cũng không có mối liên hệ với việc cho
trẻ bú đúng cách (Bảng 1.3).
Bảng 1.3: Tỷ lệ trẻ nhỏ được bú đúng cách
chia theo một số đặc trưng cơ bản của người mẹ
Phần trăm Số trường hợp
Thứ tự lần sinh
Lần đầu 33,5 104
Lần thứ hai trở đi 31,6 86
Tuổi của mẹ
18-25 35,0 68
26-30 31,0 68
31-40 31,8 54
Học vấn của mẹ
0-9 27,3 63
10-12, TC 32,2 77
CĐ, ĐH+ 44,3 48
Nghề nghiệp của mẹ
Tự làm riêng 28,2 26
Làm ăn lương: NV, CN 31,8 15
Làm ăn lương: CM cao 44,2 29
Không đi làm 32,1 119
Mức độ ảnh hưởng của tài liệu
quảng bá cho bú sữa mẹ
Không/ảnh hưởng vừa phải 34,5 125
Rất/ khá ảnh hưởng 29,7 65
Nơi cư trú
Thành thị 34,5 84
Nông thôn 32,0 106
Chung 32,6 190
21
Học vấn của người mẹ có mối liên hệ với việc cho con bú đúng cách: người mẹ
có học vấn cao hơn có tỷ lệ cho con bú đúng cách cao hơn, bất kể địa bàn cư trú. Kết
quả phân tích cho thấy, khoảng 27,3% số bà mẹ trong nhóm học vấn lớp 0-9 cho con
bú đúng cách, tỷ lệ này tăng lên ở mức 32,2% trong nhóm người mẹ có học vấn Trung
học phổ thông và trung cấp. Đối với nhóm người mẹ có trình độ cao đẳng, đại học trở
lên, tỷ lệ cho con bú đúng cách đạt 44,3%.
Biểu đồ 1.4: Tỷ lệ trẻ em được bú đúng cách
chia theo học vấn và nơi cư trú của người mẹ
29.7
27.6
44.4
34.2
27.1
33.2
44.4
31.9
0
10
20
30
40
50
0-9 10-12 + TC >= CĐ ĐH Chung
Thành thị Nông thôn
Trong số nhóm người mẹ có nghề tự làm riêng như nông dân, người buôn bán
nhỏ, chủ cửa hàng… tỷ lệ cho con bú đúng cách chiếm 28,2%, tỷ lệ thấp nhất trong
các nhóm nghề. Tỷ lệ cho con bú đúng cách của người mẹ ở hai nhóm nghề nghiệp
không đi làm và làm công ăn lương như công nhân, nhân viên chiếm khoảng 32%.
Nhóm người mẹ làm công ăn lương với chuyên môn cao có tỷ lệ cho bú sữa mẹ đúng
cách cao nhất, 44,2%.
Việc từng xem/nghe/thấy quảng cáo hay tài liệu quảng bá việc cho bé bú mẹ là
một yếu tố quan trọng trong việc cung cấp thêm kiến thức, thông tin giúp người mẹ
cho con bú đúng cách hơn. Theo kết quả khảo sát, có 13 loại tài liệu mà người mẹ từng
được tiếp cận như: Quảng cáo trên tivi/đài phát thanh, bài viết trên báo/tạp chí, mạng
internet, tờ rơi… Tuy nhiên, những người mẹ từng tiếp cận một trong những tài liệu
quảng bá về việc cho bú sữa mẹ và rất bị/hoặc khá bị ảnh hưởng từ những tài liệu đó
lại có tỷ lệ cho con bú đúng cách thấp hơn những người mẹ chưa từng tiếp cận tài liệu
hoặc tiếp cận nhưng không chịu ảnh hưởng hoặc chịu ảnh hưởng vừa phải, 29,7% so
với 38,2%. Điều này đặt ra câu hỏi về hiệu quả tác động từ các tài liệu thông tin về
nuôi con bằng sữa mẹ.
Phân tích đa biến về các yếu tố tác động tới khả năng cho con bú đúng cách
Để đánh giá vai trò của từng yếu tố cá nhân, gia đình, khu vực sinh sống đối với
khả năng cho con bú đúng cách của người mẹ trong điều kiện có tác động của nhiều yếu
tố khác nhau, mô hình phân tích đa biến với các biến số sau đã được thực hiện: thứ tự
lần sinh của mẹ; tuổi, học vấn, nghề nghiệp của người mẹ; người mẹ từng tiếp cận với
22
tài liệu quảng bá việc cho bé bú mẹ và chịu ảnh hưởng nhiều của việc quảng bá đó; khu
vực cư trú (thành thị/nông thôn). Kết quả cho thấy, yếu tố có ảnh hưởng quan trọng đến
khả năng cho con bú đúng cách là học vấn của người mẹ. Học vấn của người mẹ càng
cao thì xác suất cho con bú đúng cách càng cao hơn. So với nhóm người mẹ có học vấn
từ lớp 9 trở xuống, người mẹ có học vấn cao đẳng, đại học có khả năng cho con bú đúng
cách cao hơn 2,1 lần. Nhóm người mẹ có học vấn THPT cũng có khả năng cho con bú
đúng cách cao hơn nhóm người mẹ có học vấn từ lớp 9 trở xuống là 1,3 lần. Các yếu tố
còn lại trong mô hình phân tích đa biến đều không có ảnh hưởng đáng kể đến khả năng
bà mẹ cho con bú đúng cách.
Bảng 1.4: Tác động của các yếu tố người mẹ đến khả năng cho con bú đúng cách
Tỷ số chênh lệch
(Exp(B))
Thứ tự lần sinh
Lần đầu 1
Lần thứ hai trở đi 1,145
Tuổi của mẹ
18-25 1
26-30 0,772
31-40 0,786
Học vấn của mẹ
0-9 1
10-12, TC 1,280
CĐ, ĐH+ 2,128**
Nghề nghiệp của mẹ
Tự làm riêng 1
Làm công ăn lương 1,147
Mức độ ảnh hưởng của tài liệu quảng bá cho bú sữa mẹ
Không/ ảnh hưởng vừa phải 1
Rất/ khá ảnh hưởng 0,790
Nơi cư trú
Thành thị 1
Nông thôn 1,080
Hằng số
0,582
Ghi chú: Mức ý nghĩa thống kê: *p<0,1 **p<0,05 ***p<0,01
23
5. Tiếp tục cho bú sữa mẹ khi trẻ được 12 tháng tuổi và 24 tháng tuổi
Biểu đồ 1.5 minh họa tỷ lệ trẻ nhỏ còn bú sữa mẹ trong số trẻ từ 7 đến 24 tháng
tuổi tại thời điểm khảo sát. Nhìn chung, tỷ lệ trẻ được bú sữa mẹ giảm dần theo số
tháng tuổi của trẻ. Đối với nhóm trẻ được 7 tháng tuổi, tỷ lệ còn được bú sữa mẹ đạt
95,1%, tỷ lệ này giảm xuống còn ở mức 74,4% khi trẻ được 12 tháng tuổi. Đến 24
tháng tuổi, tỷ lệ trẻ còn bú sữa mẹ giảm xuống chỉ còn 19,6%.
Biều đồ 1.5: Tỷ lệ trẻ từ 7 đến 24 tháng tuổi bú sữa mẹ
0
10
20
30
40
50
60
70
80
90
100
7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24
Bảng 1.5 trình bày kết quả phân tích số liệu trẻ em tiếp tục được bú sữa mẹ khi
1 tuổi (12-16 tháng) và khi 2 tuổi (20-24 tháng). Khoảng hai phần ba (70%) trong số
114 trẻ em ở độ tuổi 12-16 tháng vẫn tiếp tục được bú sữa mẹ, tỷ lệ này trong số 122
trẻ em ở nhóm tuổi 20-24 tháng là 26,3%.
Đối với cả hai nhóm tuổi, hầu như không có sự khác biệt khi so sánh theo thứ tự
sinh của trẻ trong việc bé tiếp tục được bú sữa mẹ lúc 1 tuổi và 2 tuổi. Tương tự, tuổi
người mẹ và việc người mẹ chịu ảnh hưởng nhiều của tài liệu quảng bá về cho bé bú
mẹ không có tác động đáng kể đối với việc duy trì cho con bú lúc trẻ được 1 tuổi và 2
tuổi.
Cách thức sinh trẻ có ảnh hưởng đến việc trẻ được tiếp tục bú sữa mẹ khi 1 tuổi.
Những trẻ được sinh thường có tỷ lệ tiếp tục được bú sữa mẹ khi 1 tuổi cao hơn so với
trẻ sinh mổ/can thiệp, 73% so với 60%, tỷ lệ này không có sự khác biệt nhiều ở nhóm
trẻ 2 tuổi.
Học vấn của người mẹ có mối liên hệ với việc nuôi con bằng sữa mẹ cho đến
lúc trẻ được 1 tuổi. Người mẹ có học vấn cao hơn có tỷ lệ cho con tiếp tục bú sữa mẹ
lúc 1 tuổi thấp hơn, khoảng 77% trẻ em trong độ tuổi 12-16 tháng hiện vẫn đang bú
sữa mẹ trong nhóm mẹ có học vấn lớp 0-9 và 72,9% trong nhóm mẹ có học vấn lớp
10-12 và trung cấp. Trong khi đó tỷ lệ trẻ em tiếp tục được bú sữa mẹ khi 1 tuổi ở
24
nhóm người mẹ có học vấn cao đẳng đại học trở lên là 50%. Tuy nhiên, số liệu chưa
cho thấy rõ đây có phải là kết quả tác động của yếu tố trình độ học vấn hay của do yếu
tố khác. Một số lớn các bà mẹ có học vấn cao thường là những người làm công ăn
lương, không có điều kiện ở nhà cho con bú. Đối với nhóm trẻ được 2 tuổi, học vấn
của người mẹ không có mối liên hệ rõ ràng với việc trẻ tiếp tục được bú sữa mẹ.
Kết quả phân tích cũng cho thấy nghề nghiệp của người mẹ có mối liên hệ với
việc tiếp tục cho con bú sữa mẹ khi trẻ 1 tuổi. Tỷ lệ vẫn cho con bú khi trẻ được 12-16
tháng tuổi cao nhất ở nhóm người mẹ không đi làm (83,9%), tỷ lệ này ở nhóm người
mẹ làm công ăn lương như công nhân, nhân viên là 60% và ở nhóm tự làm riêng là
52,2%. Chưa đến một nửa (47,4%) người mẹ có nghề chuyên môn cao tiếp tục cho con
bú lúc 1 tuổi.
Việc duy trì cho trẻ bú sữa mẹ khi trẻ được 2 tuổi theo nghề nghiệp của người
mẹ cũng có khuôn mẫu tương tự như nhóm trẻ 1 tuổi. Nhóm người mẹ không đi làm
có tỷ lệ vẫn đang cho con bú cao nhất, 36,2%, tỷ lệ này thấp hơn và ở mức 22,4% ở
nhóm người mẹ tự làm riêng và 25% ở nhóm người mẹ làm nghề có chuyên môn cao.
Nhóm người mẹ làm công nhân hoặc nhân viên có tỷ lệ tiếp tục cho con bú khi trẻ
được 2 tuổi thấp nhất, 14,3%.
Bảng 1.5: Tỷ lệ trẻ em tiếp tục được bú sữa mẹ khi 1 tuổi và 2 tuổi
chia theo một số đặc trưng cơ bản của người mẹ
Trẻ em 12-16 tháng
(phần trăm)
Trẻ em 20-24 tháng
(phần trăm)
Số lần sinh
Lần đầu 69,1 25,4
Lần thứ hai trở đi 71,1 26,5
Hình thức sinh
Sinh thường 73,0 25,5
Sinh mổ/có can thiệp 60,0 30,4
Tuổi của mẹ
18-25 69,2 33,3
26-30 62,8 25,0
31-40 81,3 22,4
Học vấn của mẹ
0-9 76,2 28,6
10-12, TC 72,9 23,1
CĐ, ĐH+ 50,0 31,6
Nghề nghiệp của mẹ
Tự làm riêng 52,2 22,4
25
Làm ăn lương: NV, CN 60,0 14,3
Làm ăn lương: CM cao 47,4 25,0
Không đi làm 83,9 36,2
Hiểu biết về bú mẹ
Rất ít/ đôi chút 50,0 23,8
Khá rõ 69,8 19,6
Rất rõ 74,5 31,7
Mức độ ảnh hưởng (AH)
của tài liệu quảng bá cho
bú sữa mẹ
Không/ AH vừa phải 63,3 20,0
Rất/ khá ảnh hưởng 63,2 21,4
Biết khuyến cáo của
ngành y tế về thời gian
cho con bú
Không biết 65,0 19,5
Biết 81,8 40,0
Thu nhập của HGĐ
<= 4,5 triệu 82,0 27,8
4,6-6,5 triệu 62,1 18,5
> 6,5 triệu 60,0 29,4
Nơi cư trú
Thành thị 54,8 18,4
Nông thôn 78,9 29,5
Chung 70,2 26,3
Nghề nghiệp có liên quan đến hành vi tiếp tục nuôi con bằng sữa mẹ khi trẻ
được 1 hoặc 2 tuổi của người mẹ. Nghề nghiệp của người mẹ góp phần chuyển hướng
trách nhiệm nuôi con từ phía người mẹ sang các thành viên khác trong gia đình hoặc
sang các thiết chế xã hội khác. Đối với nhóm người mẹ làm công ăn lương, họ không
thể duy trì việc cho con bú sữa mẹ lúc trẻ 1 hoặc 2 tuổi vì còn phải quay trở lại làm
việc và thường cho trẻ ăn bổ sung ngay sau thời gian nghỉ đẻ (thời gian nghỉ đẻ thường
là 4 tháng). Ngoài ra, sữa mẹ là được tiết theo cơ chế phản xạ, vì thế nếu những người
mẹ có nghề nghiệp chuyên môn cao thường phải đi làm sau khi sinh với tinh thần
không được thoải mái, có nhiều căng thẳng, lo âu, mất ngủ, chế độ lao động nghỉ ngơi
không được hợp lý thì sẽ ảnh hưởng phần nào đến việc bài tiết sữa, do đó đã không thể
duy trì việc cho con bú sữa mẹ khi trẻ được 1 tuổi hoặc 2 tuổi.
Số liệu cũng cho thấy việc các bà mẹ có biết khuyến cáo của cơ quan y tế về
thời gian cho con bú thì có nhiều khả năng cho con tiếp tục bú sau 1 tuổi cao hơn. Nếu
trong số các bà mẹ biết khuyến cáo của cơ quan y tế về thời gian cho con bú có tỷ lệ