BÁO CÁO TỐT NGHIỆP
Đề tài
" Tư tưởng Hồ Chí Minh "
1
MỤC LỤC
BÁO CÁO TỐT NGHIỆP 1
Đề tài 1
" Tư tưởng Hồ Chí Minh " 1
MỤC LỤC 2
Đạo đức cách mạng đối với đảng viên, đoàn viên (sưu tầm) 19
1.Tư tưởng HỒ Chí Mình về đạo đức cách mạng 26
2.The Following 2 Users Say Thank You to dannhietlanh For This Useful Post: 30
tiếp theo 30
4.The Following 2 Users Say Thank You to dannhietlanh For This Useful Post: 33
tiếp theo 34
tiếp theo 37
Tư tưởng Hồ Chí Minh, là hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản
của cách mạng Việt nam. Một trong những nét đặc sắc nổi bật trong tư tưởng của Người là vấn
đề đạo đức của người cách mạng. Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ luôn nhắc nhở
2
cán bộ, đảng viên phải quan tâm rèn luyện đạo đức cách mạng mà chính bản thân Người còn
là tấm gương trong sáng tuyệt vời về đạo đức cách mạng.
Ngay từ khi bắt đầu hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có ý thức rất rõ về vai trò
và sức mạnh của đạo đức cách mạng. Chính vì lẽ đó, Người đã dày công giáo dục lý tưởng
cách mạng cho thanh niên và quần chúng nhân dân. Người để lại rất nhiều tác phẩm, bài nói,
bài viết chuyên về đạo đức. Ngay trong tác phẩm: “Đường Kách mệnh”, ở chương đầu tiên
Người đã nêu lên 23 điều tư cách của các cán bộ cách mạng, trong đó chủ yếu là các tiêu
chuẩn về đạo đức, thể hiện chủ yếu trong 3 mối quan hệ: với mình, với người và với việc, đây
là tác phẩm đầu tiên Người viết để huấn luyện những người yêu nước Việt Nam trẻ tuổi. Nếu
như tác phẩm đầu tiên Người đề cập đến vấn đề đạo đức cách mạng thì tác phẩm cuối cùng
Người tiếp tục khẳng định tầm quan trọng của đạo đức cách mạng. Đó là: “Nâng cao đạo đức
cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân” đây là tác phẩm bàn sâu về vấn đề đạo đức, thể
hiện những điều tâm huyết nhầt mà Người rút ra từ thực tiễn lãnh đạo cách mạng của Đảng ta.
Sau khi giành được chính quyền, Hồ Chí Minh nói nhiều tới đạo đức của cán bộ, đảng viên, của
Đảng cầm quyền.Trong bản Di chúc để lại cho toàn đảng và toàn dân ta thì vấn đề đạo đức vẫn
là vấn đề được Người đặc biệt nhấn mạnh: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền, mỗi cán bộ và
đảng viên phải thực sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô
tư ”, “ Đảng phải rất coi trọng giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên”,
“Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho đoàn viên và thanh niên, đào tạo họ
thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên”.
Vì sao Hồ chí Minh nhận rõ và đề cao vấn đề đạo đức như vậy?
Theo Hồ Chí Minh, cách mạng nhất định sẽ thành công. Đó là một điều chắc chắn. Nhưng thời gian
nhanh hay chậm, mức độ lớn hay nhỏ, thuận lợi hay khó khăn tất cả tuỳ thuộc vào đạo đức cách
mạng, theo nghĩa đó là nhân tố chủ quan của con người, là trình độ giác ngộ và ý chí của quần
chúng, là yếu tố tinh thần trong sự nghiệp cách mạng. Báo cáo tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần
thứ hai của Đảng lao động Việt nam, Hồ Chí minh nói: “Lực lượng ta và địch so le nhiều như thế,
cho nên lúc đó có người cho rằng: cuộc kháng chiến của ta là “châu chấu đá voi”. Chỉ nhìn về vật
chất, chỉ nhìn ở hiện trạng, chỉ lấy con mắt hẹp hòi mà xem thì như thế thật. Vì để chống máy bay
và đại bác của địch, lúc đó ta phải dùng gậy tầm vông. Nhưng Đảng ta theo Chủ nghĩa Mác- Lênin,
chúng ta không những nhìn vào hiện tại mà còn nhìn vào tương lai, và tin chắc vào tinh thần và lực
lượng của quần chúng, của dân tộc. Cho nên chúng ta quả quyết trả lời những người lừng chừng bi
quan kia rằng:
“ Nay tuy châu chấu đá voi,
Nhưng mai voi sẽ bị lòi ruột ra,”
(1)
3
Tư tưởng “Người trước, súng sau” trong cách mạng giải phóng dân tộc và “chiến lược trồng người”
trong cách mạng xã hội chủ nghĩa của Hồ Chí Minh khẳng định sức mạnh tinh thần, đạo đức của
con người, và con người cần đạo đức, cách mạng rất cần đạo đức. Người viết: “Làm cách mạng
để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới là một sự nghiệp rất vẻ vang, nhưng nó cũng là một nhiệm vụ
rất nặng nề, một cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu dài, gian khổ. Sức có mạnh mới gánh được nặng
và đi được xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được
nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”
(2)
Khi đánh giá về vai trò của đạo đức cách mạng, Hồ Chí Minh cho rằng: Đạo đức là mẫu số
chung, là thước đo lòng cao thượng của mỗi con người: “Tuy năng lực và công vi ệc của mỗi
người khác nhau, người làm vi ệc to, người làm việc nhỏ, nhưng ai giữ được đạo đức đều là
cao thượng.”(3)
Đạo đức cách mạng phải là phẩm chất đầu tiên, phải được coi là vấn đề gốc để giải quyết
công việc cách mạng “gánh nặng, đường xa” chống đế quốc, chống phong kiến, giành độc lập
dân tộc, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Với mỗi người, Hồ Chí Minh ví đạo đức là nguồn nuôi
dưỡng và phát triển con người, như gốc của cây, như ngọn nguồn của sông suối. Người
nêu: “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có
gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài
giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”
(4)
Bên cạnh đó, Người còn nhấn mạnh, đạo đức cách mạng liên quan tới thành bại của cách mạng. Vì
vậy, đạo đức phải được đặt trước tài: “Mọi việc thành hay bại, chủ chốt là do cán bộ có thấm nhuần
đạo đức cách mạng hay không”. “Phải có chính trị trước rồi mới có chuyên môn; chính trị là đức
chuyên môn là tài. Có tài mà không có đức là hỏng…Đức phải có trước tài…”
(5)
Xác định được tầm quan trọng của vấn đề đạo đức, trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng,
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn là tấm gương mẫu mực, thực hiện triệt để nhất những phẩm đạo
đức cách mạng. Bác thường nhắc nhở: “Trước mặt quần chúng , không phải ta cứ viết lên trán
chữ “Cộng sản” mà ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ yêu quý những người có tư cách,
đạo đức”
(6).
.
Từ những nhận định trên, ta thấy đạo đức cách mạng có vai trò và sức mạnh vô cùng to lớn.
Đạo đức cách mạng giúp cho con người vững vàng trong mọi thử thách. Người viết “Người có
đạo đức cách mạng thì gặp khó khăn, gian khổ, thất bại không rụt rè, lùi bước”; “khi gặp thuận
lợi, thành công vẫn giữ vững tinh thần gian khổ, chất phác, khiêm tốn”, mới “lo trước thiên hạ,
vui sau thiên hạ”; “lo hoàn thành nhiệm vụ cho tốt chứ không kèn cựa về mặt hưởng thụ; không
công thần, không quan liêu, không kiêu ngạo, không hủ hóa”
4
Nhưng trong thực tế những năm gần đây, sự xuống cấp nghiêm trọng về đạo đức của một bộ
phận cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân, đang làm băng hoại nền đạo đức xã hội,
băng hoại truyền thống nhân văn của dân tộc. Có thể nói,đây là những thách thức lớn nhất của
công cuộc đổi mới đất nước, là nguy cơ đe doạ sự sống còn của chế độ ta, làm mất thanh
danh uy tín của Đảng, Nhà nước, làm xói mòn lòng tin của dân chúng vào Đảng, vào chế độ.
Đó là những điều hết sức nguy hại đối với Đảng, vì cán bộ, đảng viên có vai trò rất quan trọng
đối với sự nghiệp cách mạng. Đảng viên là tế bào của Đảng. Sức mạnh của Đảng là do sức
mạnh của đội ngũ đảng viên tạo nên. Người thường nhắc nhở: “Để lãnh đạo cách mạng, Đảng
phải mạnh. Đảng mạnh là do chi bộ tốt, chi bộ tốt là do đảng viên đều tốt”
(7)
. Vậy mà, cán bộ,
đảng viên và quần chúng nhân dân lại thoái hoá, biến chất thì ảnh hưởng rất lớn đến sự lãnh
đạo của Đảng.
Trong thời gian tới, để khắc phục tình trạng trên và để xây dựng Đảng ta thật sự trong sạch,
vững mạnh, thật sự “là đạo đức, là văn minh” và để cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh” đạt chất lượng. Mỗi cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân
không ngừng học tập, tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, quyết tâm thực hiện những nguyên tắc về
đạo đức mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu. Cụ thể như:
Nói đi đối với làm, phải nêu gương về đạo đức: Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của
mình dù ở cương vị nào Người cũng đã nói và làm những điều ích nước, lợi dân. Vào những
ngày dân ta bị nạn đói năm 1945 hoành hành, Người đã viết thư kêu gọi đồng bào cả nước: “
Cứ 10 ngày nhịn ăn một bữa, mỗi tháng nhịn 3 bữa. Đem gạo đó để cứu dân nghèo”
(8)
và chính
Người đã thực hiện trước. Chính sự thống nhất giữa lời nói với việc làm, giữa tư tưởng với
hành động là nét đặc sắc quý hiếm tạo nên bề rộng, chiều sâu và tầm cao của một nhân cách
vĩ đại - Hồ Chí Minh, mãi mãi là nguồn ánh sáng, sức mạnh vô tận để dẫn dắt chúng ta đi tiếp
con đường tới độc lập tự do và ấm no hạnh phúc.
Đối với việc làm, Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ, đảng viên việc gì có lợi cho dân ta phải hết sức
làm, việc gì có hại cho dân, ta phải hết sức tránh. Người phê phán những cán bộ, đảng viên
nhút nhát, kém cỏi, nói không dám nói, làm không dám làm, cái gì cũng chờ cấp trên bảo sao
làm vậy. Loại cán bộ ấy là thụ động, thiếu sáng tạo. Và tốt nhất là miệng nói tay làm, làm
gương cho người khác bắt chước…. Nếu miệng thì tuyên truyền bảo người ta siêng làm mà
mình thì tự ăn trưa, ngủ trễ, bảo người ta tiết kiệm mà mình thì xa xỉ, lung tung thì tuyên truyền
một trăm năm cũng vô dụng.
Theo Hồ Chí Minh, đối với người phương Đông, nhất là đối với người Việt nam giàu tình cảm, một
tấm gương sáng còn hơn giá trị 100 bài diễn văn tuyên truyền. Vì vậy, phải nêu những tấm gương
sáng về đạo đức cho mọi người học tập và noi theo.
5
Xây đi đôi với chống. Hồ Chí Minh cho rằng: “Mỗi con người đều có thiện và ác ở trong lòng. Ta phải
làm cho phần tốt ở trong mỗi người nảy nở như hoa mùa xuân bị mất dần đi, đó là thái độ của người
cách mạng”
(9).
Tuy nhiên, xây luôn phải đi đôi với chống, chống lại cái xấu, cái sai, cái vô đạo đức, theo
quan điểm của Người là chống nhằm mục đích xây. Đây là qúa trình gay go, phức tạp không phải
ngày một, ngày hai có thể làm được. Cho nên, một nguyên tắc không thể không thể thiếu được đó là:
Phải rèn luyện, tu dưỡng đạo đức suốt đời. Hồ Chí Minh chỉ rõ, mỗi người cán bộ, đảng viên phải
thường xuyên chăm lo tu dưỡng đạo đức như việc rửa mặt hàng ngày, đây là công việc phải làm
kiên trì, bền bỉ suốt đời. Theo Người, đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu
tranh rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng,
vàng càng luyện càng trong. Việc tu dưỡng đạo đức của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân
dân phải được thực hiện thông qua hoạt động thực tiễn sinh hoạt, học tập, lao động, chiến đấu. Khi
cách mạng thuận lợi, cũng như lúc cách mạng gặp khó khăn thử thách, cán bộ, đảng viên đều phải
rèn luyện để nâng cao đạo đức cách mạng. Bởi vì, khi mới được bầu, mới được đề bạt hầu như ai
cũng là người tốt nhưng nếu không rèn luyện thường xuyên thì sẽ dễ bị danh lợi, uy quyền, tiền tài,
sắc đẹp… làm cho gục ngã thoái hóa, biến chất về đạo đức, lối sống. Vì thế, việc rèn luyện đạo đức
cách mạng của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân phải được thực hiện trong suốt cả cuộc
đời.
Cách đây gần tròn nửa thế kỷ (1958), bác Hồ kính yêu đã viết bài về rèn luyện đạo đức cách mạng dành cho đảng viên, đoàn viên - hai đối
tượng được đặt lên hàng đầu.
Chúng ta luôn ghi nhớ rằng, tư cách, phẩm chất đạo đức gắn liền với hoạt động hàng ngày
của mọi công dân không phân biệt bất cứ ai mà Bác thường xuyên căn dặn, nhắc nhở là cần
kiệm, liêm chính, chí công, vô tư.
Thật vậy, trong học tập, lao động, công tác cũng như trong cuộc sống đời thường của từng
người ở xã hội ta vào thời kỳ cách mạng nào cũng thế, nếu sự bất liêm, bất chính, lãng phí,
tham ô, lười biếng, vô trách nhiệm, thu vén cá nhân, ích kỷ vì lợi ta hại người… còn lẩn khuất
đâu đó bằng sự dối trá với chính mình, với tập thể và cộng đồng thì đó là “kẻ thù nội xâm”nguy
hiểm khôn lường. Giới trẻ, trước hết là cán bộ, đoàn viên, lớp người với sứ mệnh kế tục sự
nghiệp của cha anh càng phải ra sức tu dưỡng, rèn luyện và thực hành cần kiệm, liêm chính,
chí công, vô tư trong bất cứ hoàn cảnh và điều kiện nào.
6
Ảnh: Tư liệu
Bác dạy: “Làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới là một sự nghiệp vẻ vang
nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu dài, gian khổ”.
Hơn bao giờ hết, những người cộng sản trẻ tuổi phải sớm tự ý thức được tính lâu dài, gian khổ, nhằm cải tạo xã hội cũ vừa là sứ mệnh tự
thân vừa là mục tiêu phấn đấu bằng chính nội lực của mình như Bác đã nói một cách hình ảnh: “Sức có mạnh mới gánh được nặng, đi được
xa. Người cách mạng có đạo đức cách mạng làm nền tảng mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”.
Chỉ khi nào chúng ta đứng vững trên nền tảng đạo đức ấy, quán triệt sâu sắc điều chủ chốt ấy ở mọi nơi, mọi lúc chúng ta mới có thể tự
nhân lên sức mạnh của mình để “gánh được nặng, đi được xa”.
Thực tế cho thấy như Bác dạy: “Số đông đảng viên, đoàn viên và cán bộ ta làm đúng như thế. Nhưng cũng có một số không làm đúng”
Nguyên nhân dẫn đến việc không làm đúng chủ yếu là do “chủ nghĩa cá nhân” với nhiều biểu hiện khác nhau như: “Yêu cầu hưởng thụ,
yêu cầu nghỉ ngơi, muốn lựa chọn công tác theo ý thích cá nhân của mình, không muốn làm công tác mà đoàn thể giao phó cho họ. Họ muốn
địa vị cao nhưng lại sợ trách nhiệm nặng… Dần dần tinh thần đấu tranh và tính tích cực của họ bị kém sút, chí khí cách mạng và phẩm chất
tốt đẹp của người cách mạng cũng kém sút”.
Ngày nay, trong hoàn cảnh và điều kiện mới, Đảng và Nhà nước ta đang phát động và lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân đấu tranh không
khoan nhượng chống nạn quan liêu, tham nhũng và những biểu hiện sa đọa, vi phạm nghiêm trọng đạo đức cách mạng của một bộ phận cán
bộ, đảng viên, chúng ta thấy những tiên lượng hết sức đúng đắn của Bác về sự nảy nở và phát triển của chủ nghĩa cá nhân làm băng hoại
phẩm chất của biết bao con người do thiếu tu dưỡng, rèn luyện, xa rời thậm chí đối lập với “điều chủ chốt nhất” của đạo đức cách mạng là
suốt đời đấu tranh cho mục tiêu, lý tưởng mà bản thân đã từng gắn bó.
Điều này có ý nghĩa quyết định đến con đường phấn đấu của đông đảo cán bộ, đoàn viên vì sự nghiệp lớn mà họ đang ấp ủ, ước mơ. Từ
đây, mỗi một chúng ta cần ý thức ngày một rõ hơn, sâu hơn quá trình tự tạo dựng cho mình cái nền tảng, cái điều chủ chốt nhất của đạo đức
cách mạng, ấy là “không một phút giây nào được xa rời lý tưởng phấn đấu” và không bao giờ buông lỏng cuộc đấu trang với chủ nghĩa cá
nhân - “kẻ địch còn ẩn nấp trong mình mỗi người chúng ta. Nó chờ dịp hoặc thất bại, hoặc thắng lợi, để ngóc đầu dậy…” như Bác đã cảnh
báo “Đạo đức cách mạng là hòa mình với quần chúng thành một khối, tin quần chúng, hiểu quần chúng, lắng nghe ý kiến của quần chúng. Do
lời nói và việc làm, đảng viên, đoàn viên và cán bộ làm cho dân tin, dân phục, dân yêu…”.
Chúng ta đang có nhiều tấm gương đảng viên, đoàn viên và cán bộ được dân tin, dân yêu, được như vậy là do các đồng chí đã tự mình
rèn luyện và thực hiện tốt lẽ sống mình vì mọi người, trong đó lời nói luôn đi đôi với việc làm, lấy việc mình làm để cổ vũ người khác.
Song đáng tiếc hiện nay trong tổ chức Đoàn vẫn còn có những “quan Đoàn” quan liêu, không nắm được những vấn đề cụ thể, những suy
nghĩ, những khó khăn, những nguyện vọng chính đáng và cả những hành vi sai trái của một bộ phận thanh niên trong địa phương, đơn vị
mình.
Thủ lĩnh thanh niên ngày nay chỉ là người truyền đạt nghị quyết thì chưa đủ. Tiêu chí hàng đầu của thủ lĩnh thanh niên, nhất là cấp cơ sở
giờ đây phải là thuyết phục thanh niên bằng việc làm, bằng năng lực hoạt động thực tiễn.
Nếu chúng ta được “dân tin, dân phục, dân yêu” chúng ta sẽ có tất cả, làm được tất cả, bằng không sẽ là ngược lại… Giá trị đạo đức Hồ
Chí Minh trở thành bất diệt bởi cái nền muôn đời bền vững ấy.
ư tưởng Hồ Chí Minh là một bước phát triển mới của chủ nghĩa Mác -
Lênin, được vận dụng một cách sáng tạo vào thực tiễn giải phóng dân tộc và
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Điều cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí
Minh là độc lập dân tộc gắn liền với giải quyết xã hội và giải phóng con
người. Trong đó, vấn đề con người là vấn đề lớn, được đặt lên hàng đầu và
là vấn đề trung tâm, xuyên suốt trong toàn bộ nội dung tư tưởng của Người.
Vũ Thị Kim Dung
Khoa Giáo dục Chính trị -
Trường ĐHSP Hà Nội
7
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một bước phát triển mới của chủ nghĩa Mác -
Lênin, được vận dụng một cách sáng tạo vào thực tiễn giải phóng dân tộc và
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Điều cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí
Minh là độc lập dân tộc gắn liền với giải quyết xã hội và giải phóng con
người. Trong đó, vấn đề con người là vấn đề lớn, được đặt lên hàng đầu và là
vấn đề trung tâm, xuyên suốt trong toàn bộ nội dung tư tưởng của Người. Tin ở
dân, dựa vào dân, tổ chức và phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân, bồi dưỡng,
đào tạo và phát huy mọi năng lực của dân (ở từng cá nhân riêng lẻ và của cả
cộng đồng), đó là tư tưởng được Hồ Chí Minh vận dụng và phát triển trong
toàn bộ sự nghiệp đấu tranh cách mạng giành độc lập dân tộc cũng như xây
dựng đất nước. Tư tưởng đó cũng chính là nội dung cơ bản ủa toàn bộ tư tưởng
về con người của Hồ Chí Minh.
Đối với Hồ Chí Minh, con người vừa tồn tại vừa tư cách cá nhân, vừa là
thành viên của gia đình và của cộng đồng, có cuộc sống tập thể và cuộc sống cá
nhân hài hòa, phong phú. Người đã nêu một định nghĩa về con người: "Chữ
người, nghĩa hẹp là gia đình, anh em, họ hàng, bầu bạn. Nghĩa rộng là đồng bào
cả nước. Rộng nữa là cả loài người". Quan điểm đó thể hiện ở chỗ Người chưa
bao giờ nhìn nhận con người một cách chung chung, trừu tượng. Khi bàn về
chính sách xã hội, cũng như ở mọi nơi, mọi lúc, trong mọi hoàn cảnh, Người
luôn quan tâm đến nhu cầu, lợi ích của con người với tư cách nhu cầu chính
đáng. Đem lại lợi ích cho con người chính là tạo ra động lực vô cùng lớn lao
cho sự nghiệp chung, vì nếu như những nhu cầu, lợi ích của mỗi cá nhân không
được quan tâm thỏa đáng thì tính tích cực của họ sẽ không thể phát huy được.
Trong khi phê phán một cách nghiêm khắc chủ nghĩa cá nhân, Người viết:
"Đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân không phải là "giày xéo lên lợi ích cá
nhân". Mỗi người đều có tính cách riêng, sở trường riêng, đời sống riêng của
bản thân và của gia đình mình". Trong quan điểm về thực hiện một nền dân chủ
xã hội chủ nghĩa, theo Người, phải là một nền dân chủ chân chính, không hình
thức, không cực đoan, trong đó mỗi con người cụ thể phải được đảm bảo những
quyền lợi và nghĩa vụ của mình theo hiến pháp và pháp luật. Con người, với tư
cách là những cá nhân, không tồn tại biệt lập mà tồn tại trong mối quan hệ biện
chứng với cộng đồng dân tộc và với các loài người trên toàn thế giới.
Con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh không tồn tại như một phạm trù
bản thể luận có tính trừu tượng hóa và khái quát hóa, mà được đề cập đến một
cách cụ thể, đó là nhân dân Việt Nam, những con người lao động nghèo khổ bị
áp bức cùng cực dưới ách thống trị của phong kiến, đế quốc; là dân tộc Việt
Nam đang bị đô hộ bởi chủ nghĩa thực dân; và mở rộng hơn nữa là những
"người nô lệ mất nước" và "người cùng khổ". Lôgíc phát triển tư tưởng của
Người là xuất phát từ chủ nghĩa yêu nước để đến với chủ nghĩa Mác - Lênin,
đến với chủ nghĩa quốc tế chân chính. Theo lôgíc phát triển tư tưởng ấy, khái
niệm "con người" của Hồ Chí Minh tiếp cận với khái niệm "giai cấp vô sản
8
cách mạng". Người đề cập đến giai cấp vô sản cách mạng và sự thống nhất về
lợi ích căn bản của giai cấp đó với các tầng lớp nhân dân lao động khác (đặc
biệt là nông dân). Người nhận thức một cách sâu sắc rằng, chỉ có cuộc cách
mạng duy nhất và tất yếu đạt tới được mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng
giai cấp và toàn thể nhân loại khỏi mọi sự nô dịch, áp bức. Toàn bộ các tư
tưởng, lý luận (chiếm một khối lượng lớn trong các tác phẩm của Người) bàn
về cách mạng (chiến lược giải pháp; bàn về người cách mạng và đạo đức cách
mạng, về hoạch định và thực hiện các chính sách xã hội; về rèn luyện và giáo
dục con người v.v ) về thực chất chỉ là sự cụ thể hóa bằng thực tiễn tư tưởng
về con người của Hồ Chí Minh.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, con người được khái niệm vừa là mục tiêu
của sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, vừa là động lực của chính
sự nghiệp đó. Tư tưởng đó được thể hiện rất triệt để và cụ thể trong lý luận chỉ
đạo cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước
ta.
Trong lý luận về xây dựng chế độ mới, Hồ Chủ tịch đã khẳng định xây
dựng chế độ dân chủ nhân dân gắn liền với việc thực hiện bước tiến lên chủ
nghĩa xã hội. Trong kháng chiến giải phóng dân tộc cần xây dựng chế độ dân
chủ nhân dân để đẩy mạnh công cuộc kháng chiến, đồng thời tạo ra những tiền
đề cho việc xây dựng chủ nghĩa xã hội; trong xây dựng chủ nghĩa xã hội cần
phải thực hiện chế độ dân chủ nhân dân, vì như Người nói: "Đây là cuộc chiến
đấu khổng lồ chống lại những cái gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới
mẻ, tốt tươi". Cuộc chiến đấu ấy sẽ không đi đến thắng lợi, nếu không "dựa vào
lực lượng của toàn dân". Về chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh không bao giờ
quan niệm hình thái xã hội đó như một mô hình hoàn chỉnh, một công thức bất
biến. Bao giờ Người cũng coi trọng những điều kiện kinh tế, xã hội, chính trị,
văn hóa khách quan. Người chỉ đề ra những mục tiêu của công cuộc xây dựng
chủ nghĩa xã hội với những bước đi thiết thực và những nội dung cơ bản nhất.
Theo Người: "Nói một cách tóm tắt, mộc mạc, chủ nghĩa xã hội trước hết là
làm cho nhân dân lao động thoát khỏi bần cùng, làm cho mọi người có công ăn
việc làm, được ấm no và được sống đời hạnh phúc"; "Chủ nghĩa xã hội là nhằm
nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân" xây dựng chủ nghĩa xã hội
tức là làm cho nhân dân ta có một đời sống thật sung sướng, tốt đẹp. Người dạy
xây dựng chủ nghĩa xã hội phải thiết thực, phù hợp với điều kiện khách quan,
phải nắm được quy luật và phải biết vận dụng quy luật một cách sáng tạo trên
cơ sở nắm vững tính đặc thù, tránh giáo điều, rập khuôn máy móc. Sự sáng tạo
đó gần gũi, tương đồng, nhất quán với luận điểm của Ăngghen: "Đối với chúng
ta, chủ nghĩa cộng sản không phải là trạng thái cần phải sáng tạo ra, không phải
là một lý tưởng mà hiện thực phải khuôn theo. Chúng ta gọi chủ nghĩa cộng sản
là một phong trào hiện thực, nó xóa bỏ trạng thái hiện nay". Vì vậy, không chỉ
trong lý luận về đấu tranh giành độc lập dân tộc mà cả trong lý luận xây dựng
9
chủ nghĩa xã hội khi định ra những mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, trước hết,
"cần có con người xã hội chủ nghĩa", Hồ Chí Minh đã thể hiện nhất quán quan
điểm về con người: con người là mục tiêu, đồng thời vừa là động lực của sự
nghiệp giải phóng xã hội và giải phóng chính bản thân con người.
Tấm lòng Hồ Chí Minh luôn hướng về con người. Người yêu thương con
người, tin tưởng con người, tin và thương yêu nhân dân, trước hết là người lao
động, nhân dân mình và nhân dân các nước. Với Hồ Chí Minh, "lòng thương
yêu nhân dân, thương yêu nhân loại" là "không bao giờ thay đổi". Người có
một niềm tin lớn ở sức mạnh sáng tạo của con người. Lòng tin mãnh liệt và vô
tận của Hồ Chí Minh vào nhân dân, vào những con người bình thường đã được
hình thành rất sớm. Từ những năm tháng Người bôn ba tìm đường cứu nước,
thâm nhập, lăn lộn, tìm hiểu thực tế cuộc sống và tâm tư của những người dân
lao động trong nước và nước ngoài. Người đã khẳng định: "Đằng sau sự phục
tùng tiêu cực, người Đông Dương ẩn giấu một cái gì đang sôi sục, đang gào
thét, và sẽ bùng nổ một cách ghê gớm khi thời cơ đến"
1
. Tin vào quần chúng,
theo quan điểm của Hồ Chí Minh, đó là một trong những phẩm chất cơ bản của
người cộng sản. Và đây cũng chính là chỗ khác căn bản, khác về chất, giữa
quan điểm của Hồ Chí Minh với quan điểm của các nhà Nho yêu nước xưa kia
(kể cả các bậc sĩ phu tiền bối gần thời với Hồ Chí Minh) về con người. Nếu
như quan điểm của Hồ Chí Minh: "Trong bầu trời không có gì quý bằng nhân
dân. Trong thế giới không có gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết toàn dân", thì
các nhà Nho phong kiến xưa kia mặc dù có những tư tưởng tích cực "lấy dân
làm gốc", mặc dù cũng chủ trương khoan thư sức dân", nhưng quan điểm của
họ mới chỉ dừng lại ở chỗ coi việc dựa vào dân cũng như một "kế sách", một
phương tiện để thực hiện mục đích "trị nước", "bình thiên hạ". Ngay cả những
bậc sĩ phu tiền bối của Hồ Chí Minh, tuy là những người yêu nước một cách
nhiệt thành, nhưng họ chưa có một quan điểm đúng đắn và đầy đủ về nhân dân,
chưa có đủ niềm tin vào sức mạnh của quần chúng nhân dân. Quan điểm tin
vào dân, vào nhân tố con người của Người thống nhất với quan điểm của Mác,
Ăngghen, Lênin: "Quần chúng nhân dân là người sáng tạo chân chính ra lịch
sử".
Tin dân, đồng thời lại hết lòng thương dân, tình thương yêu nhân dân của
Hồ Chí Minh có nguồn gốc sâu xa từ trong truyền thống dân tộc, truyền thống
nhân ái ngàn đời của người Việt Nam. Cũng như bao nhà Nho yêu nước khác
có cùng quan điểm "ái quốc là ái dân", nhưng điểm khác cơ bản trong tư tưởng
"ái dân" của Người là tình thương ấy không bao giờ dừng lại ở ý thức, tư tưởng
mà đã trở thành ý chí, quyết tâm thực hiện đến cùng sự nghiệp giải phóng giai
cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng nhân loại cần lao, xóa bỏ đau khổ, áp bức
bất công giành lại tự do, nhân phẩm và giá trị làm người cho con người. ở Hồ
Chí Minh, chủ nghĩa yêu nước gắn bó không tách rời với chủ nghĩa quốc tế
chân chính. Tình thương yêu cũng như toàn bộ tư tưởng về nhân dân của Người
10
không bị giới hạn trong chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi mà nó tồn tại trong mối quan
hệ khăng khít giữa các vấn đề dân tộc và giai cấp, quốc gia với quốc tế. Yêu
thương nhân dân Việt Nam, Người đồng thời yêu thương nhân dân các dân tộc
bị áp bức trên toàn thế giới. Trong sự nghiệp lãnh đạo cách mạng, Hồ Chí Minh
luôn coi trọng sức mạnh đoàn kết toàn dân và sự đồng tình ủng hộ to lớn của bè
bạn khắp năm châu, của cả nhân loại tiến bộ. Người cũng xác định sự nghiệp
cách mạng của nước ta là một bộ phận không thể tách rời trong toàn bộ sự
nghiệp đấu tranh giải phóng nhân loại trên phạm vi toàn thế giới.
Tóm lại: Quan niệm về con người, coi con người là một thực thể thống
nhất của "cái cá nhân" và "cái xã hội", con người tồn tại trong mối quan hệ
biện chứng giữa cá nhân với cộng đồng, dân tộc, giai cấp, nhân loại; yêu
thương con người, tin tưởng tuyệt đối ở con người, coi con người vừa là mục
tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp giải phóng xã hội và giải phóng chính bản
thân con người, đó chính là những luận điểm cơ bản trong tư tưởng về con
người của Hồ Chí Minh. Xuất phát từ những luận điểm đúng đắn đó, trong khi
lãnh đạo nhân dân cả nước tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và xây
dựng đất nước, Hồ Chí Minh luôn tin ở dân, hết lòng thương yêu, quý trọng
nhân dân, biết tổ chức và phát huy sức mạnh của nhân dân. Tư tưởng về con
người của Người thông qua thực tiễn cách mạng của Người thông qua thực
tiễn cách mạng đã trở thành một sức mạnh vật chất to lớn và là nhân tố quyết
định thắng lợi của chính sự nghiệp cách mạng ấy.
Tư tưởng về con người của Hồ Chí Minh dựa trên thế giới quan duy vật
triệt để của chủ nghĩa Mác - Lênin. Chính vì xuất phát từ thế giới quan duy vật
triệt để ấy, nên khi nhìn nhận và đánh giá vai trò của bản thân mình (với tư
cách là lãnh tụ), Người không bao giờ cho mình là người giải phóng nhân dân.
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, người cán bộ (kể cả lãnh tụ) chỉ là "đầy tớ
trung thành" có sứ mệnh phục vụ nhân dân, lãnh tụ chỉ là người góp phần vào
sự nghiệp cách mạng của quần chúng. Tư tưởng này đã vượt xa và khác về chất
so với tư tưởng "chăn dân" của những người cầm đầu nhà nước phong kiến có
tư tưởng yêu nước xưa kia. Và đây, cũng chính là điều đã làm nên chủ nghĩa
nhân văn cao cả ở Hồ Chí Minh, một chủ nghĩa nhân văn cộng sản trong cốt
cách của một nhà hiền triết phương Đông.
Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lấy chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ
nam cho hành động. Tư tưởng về con người của Đảng Cộng sản Việt Nam nhất
quán với tư tưởng về con người của Hồ Chí Minh. Sự nhất quán ấy được thể
hiện qua đường lối lãnh đạo cách mạng và qua các chủ trương chính sách của
Đảng trong suốt quá trình Đảng lãnh đạo công cuộc đấu tranh giải phóng dân
tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Trong sự nghiệp đổi mới đất nước
hiện nay, tư tưởng đó tiếp tục được Đảng ta quán triệt vận dụng và phát triển.
Con người Việt Nam đang là trung tâm trong "chiến lược phát triển toàn diện";
11
đang là động lực của công cuộc xây dựng xã hội mới với mục tiêu "dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội".
Xây dựng Đảng thật sự trong sạch, “là đạo đức, là văn minh” là chủ đề của Cuộc vận động “Học
tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” năm 2010. Đây cũng chính là điều mà sinh
thời Chủ tịch Hồ Chí Minh - người sáng lập và rèn luyện Đảng ta, luôn luôn quan tâm sâu sắc.
Trong công tác xây dựng Đảng, một trong những công việc Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan
tâm là xây dựng đội ngũ cán bộ của Đảng. Người cho rằng muôn việc thành công hay thất bại
đều do cán bộ tốt hay kém. Người luôn đòi hỏi mỗi người cán bộ, đảng viên phải có đạo đức
cách mạng, phải kết hợp chặt chẽ đức và tài, trong đó đức là gốc. Theo tư tưởng của Người, đạo
đức cách mạng là tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân, quyết tâm suốt đời đấu tranh
cho Đảng, cho cách mạng, bất kỳ khó khăn nào cũng kiên quyết làm đúng chính sách, nghị quyết
của Đảng, làm gương cho quần chúng, hòa mình với quần chúng thành một khối, tin - hiểu - lắng
nghe ý kiến của quần chúng, thực hiện “cần kiệm, liêm chính, chí công, vô tư”. Người coi đạo
đức là cội nguồn của người cách mạng. Người chỉ rõ: Làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành
xã hội mới là một sự nghiệp rất vẻ vang, nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc
đấu tranh rất phức tạp, lâu dài, gian khổ, đòi hỏi người cách mạng phải có đạo đức cách mạng
làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đòi hỏi nâng cao đạo đức cách mạng phải đi đôi với chống chủ nghĩa cá
nhân. Người cho rằng chủ nghĩa cá nhân trái ngược với đạo đức cách mạng, “là mẹ đẻ ra mọi
tính hư, tật xấu”. Người gọi chủ nghĩa cá nhân là “giặc nội xâm”, “giặc ở trong lòng” và chống chủ
nghĩa cá nhân “là một cuộc cách mạng nội bộ”. Do đó “thắng lợi của chủ nghĩa xã hội không thể
tách rời thắng lợi của cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân”.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng đã rất chú trọng làm theo lời dạy của Người, rèn
luyện nâng cao đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân trong cán bộ, đảng viên. Tuy
nhiên, tình trạng một bộ phận cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống
đã và đang diễn ra là rất nghiêm trọng. Trong đó, một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên,
công chức trong hệ thống chính trị đã không làm được bốn điều dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh là:
Siêng năng, tiết kiệm, trong sạch, chính đáng. Họ đã gây thiệt hại về kinh tế, xa rời nhân dân,
gây phiền hà cho nhân dân, gây mất đoàn kết nội bộ, đặc biệt là làm giảm sút niềm tin của nhân
dân đối với Đảng.
Hiện nay, toàn Đảng, toàn dân ta đang ra sức thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội lần thứ X
của Đảng và tiến hành đại hội đảng các cấp, chuẩn bị tiến tới Đại hội toàn quốc lần thứ XI của
Đảng. Nhiệm vụ quan trọng hàng đầu hiện nay của mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng là “phải thực
sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thực sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư… Phải giữ gìn
Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của
nhân dân” như lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn trong Di chúc.
HỌC TẬP VÀ LÀM THEO LỜI DẠY CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH "CÔNG
MINH, CHÍNH TRỰC, KHÁCH QUAN, THẬN TRỌNG, KHIÊM TỐN"
TRONG CÔNG TÁC THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT ĐIỀU
TRA ÁN AN NINH
LÊ THỊ KIM OANH - Kiểm sát viên VKSNDTC Vụ 2 Viện kiểm sát nhân
dân tối cao
1. Chủ tịch Hồ Chí Minh là người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng ta,
lãnh đạo và dẫn dắt toàn Đảng, toàn dân ta đấu tranh giành thắng lợi vẻ vang như
ngày nay. Lúc sinh thời Người hằng quan tâm và dày công xây dựng Đảng ta thành
một khối vững mạnh, trong sạch, chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng, đào tạo, rèn
12
luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên đặc biệt là thế hệ trẻ trở thành con người vừa hồng
vừa chuyên. Trong cuộc sống, Người coi trọng cả đức và tài, song đức là gốc. Suốt cả
cuộc đời Người hy sinh cho sự nghiệp cách mạng, cho dân tộc độc lập, cho cuộc sống
ấm no, hạnh phúc của nhân dân và cho toàn nhân loại. Người dành tất cả tình yêu
thương cho đồng bào, đồng chí, già, trẻ, gái, trai, miền xuôi, miền ngược, Bắc cũng
như Nam. Mỗi một bài nói, bài viết, mỗi lời căn dặn, một buổi gặp gỡ, công tác của
Người đều chứa đựng ý nghĩa tư tưởng, hành vi và quan hệ đạo đức cách mạng sáng
ngời. Con người, cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của Người đều là tấm gương đạo
đức cho toàn Đảng, toàn dân ta học tập suốt đời.
Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan
tâm việc bồi dưỡng nâng cao đạo đức cách mạng đối với cán bộ, đảng viên. Người
xác định làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới, là sự nghiệp rất vẻ
vang, nhưng nó cũng là nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu
dài, gian khổ. Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa. Người cách mạng
phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng
vẻ vang. Đạo đức cách mạng không phải từ trên trời sa xuống, nó do đấu tranh, rèn
luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố, cũng như "ngọc càng mài càng
sáng, vàng càng luyện càng trong". Có đạo đức cách mạng thì gặp khó khăn gian
khổ thất bại cũng không sợ sệt, rụt rè, lùi bước. Vì lợi ích chung của Đảng, của cách
mạng, của giai cấp, của dân tộc và của loài người mà không ngại ngần hy sinh tất cả
lợi ích riêng của cá nhân mình. Có đạo đức cách mạng thì gặp thuận lợi và thành
công cũng giữ vững tinh thần chịu đựng gian khổ, lo hoàn thành tốt nhiệm vụ chứ
không kèn cựa về mặt hưởng thụ, không công thần, không quan liêu, không kiêu
ngạo. Theo Người thì cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là phẩm chất đạo đức
trung tâm của đạo đức cách mạng. Người đã căn dặn “Đảng ta là một Đảng cầm
quyền, mỗi đảng viên và cán bộ phải thực sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, phải
thực sự cần kiệm, liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch,
phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ trung thành của nhân dân”.
Trong mỗi lĩnh vực công tác, đối với mỗi đối tượng khác nhau Bác Hồ đều có
những tư tưởng tình cảm, lời dạy rất sâu sắc cụ thể, Bác hiểu rõ được đặc trưng,
nhiệm vụ đặc thù của từng đội ngũ cán bộ để đặt ra những yêu cầu về phẩm chất,
đức tính riêng do bối cảnh yêu cầu nhiệm vụ cụ thể mà chỉ có Người với tầm nhìn xa
trông rộng mới đúc kết thành những bài viết, lời nói chứa đựng những tư tưởng rất
lớn, rất sâu sắc.
Trong lĩnh vực đấu tranh phòng, chống tội phạm, Người nhận rõ được vai trò
quan trọng của pháp luật trong đời sống xã hội, coi pháp luật là phương tiện để duy
trì sức mạnh của Nhà nước. Bác Hồ khẳng định pháp luật của chúng ta bảo vệ quyền
tự do dân chủ của nhân dân lao động đồng thời đấu tranh loại bỏ áp bức bất công.
Trong thư gửi Hội nghị công tác tư pháp tháng 02/1948, Người viết “cán bộ tư pháp
phải tuyệt đối trung thành” và “các bạn là những người phụ trách thi hành luật pháp,
lẽ tất nhiên các bạn phải nêu cao tấm gương “phụng công thủ pháp” chí công vô tư
cho nhân dân noi theo”. Đối với những hành vi phạm tội, Bác có thái độ chỉ đạo xử lý
rõ ràng “nếu làm gương không xong thì phải dùng pháp luật mà trị”. Người yêu cầu
mọi tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể… phải triệt để chấp hành pháp luật, bất kể
13
người nào vi phạm cũng phải được xử lý nghiêm minh. Người khẳng định đấu tranh
chống tội phạm là nhiệm vụ trọng tâm của các ngành tư pháp, tuy nhiên cũng không
thể sao nhãng vấn đề phòng ngừa. Người nói “xét xử là tốt nhưng nếu không phải
xét xử thì càng tốt hơn”. Quan điểm tư tưởng đó của Người đã đặt nền móng cho việc
hình thành phương châm lấy giáo dục thuyết phục là chính và luôn coi trọng công tác
phòng ngừa trong công tác đấu tranh xử lý tội phạm của Đảng và Nhà nước ta.
2. Ngành Kiểm sát nhân dân được Đảng, Nhà nước và nhân dân giao cho chức
năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Trong lĩnh vực
hình sự, ngành Kiểm sát là một trong những cơ quan trực tiếp đấu tranh phòng
chống tội phạm bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền tự do dân chủ
của công dân, đồng thời thay mặt Nhà nước truy tố người phạm tội ra trước Toà án
và bảo đảm các hoạt động điều tra tuy tố, xét xử, thi hành án hình sự, thực hiện
được đúng quy định của pháp luật. Đây là chức năng, nhiệm vụ đặc thù của ngành
Kiểm sát, do vậy cán bộ Kiểm sát phải có những phẩm chất đạo đức tốt để thực hiện
nhiệm vụ. Để thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao, người Kiểm sát không chỉ có
những phẩm chất đạo đức của người cán bộ nói chung là “Cần, kiệm, liêm, chính, chí
công vô tư”, phải có những mục tiêu, lý tưởng cao đẹp “Trung với nước, hiếu với dân,
nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua…” mà còn phải có 5
đức tính “Công minh, chính trực, khách quan, thận trọng, khiêm tốn” như lời dạy của
Người đối với cán bộ ngành Kiểm sát.
Trải qua 47 năm xây dựng và trưởng thành, dù đã có những thay đổi về chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát cho phù hợp với quá trình phát triển
của đất nước qua các thời kỳ nhưng lời dạy của Bác Hồ đối với cán bộ Kiểm sát vẫn
còn nguyên giá trị. Trong giai đoạn hiện nay, để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ
của Viện kiểm sát trong bối cảnh cải cách tư pháp ở nước ta đang được tiến hành thì
việc học tập và làm theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh được coi là nhiệm vụ
thường xuyên và rất cần thiết đối với cán bộ của ngành Kiểm sát.
3. Từ thực tiễn công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra án an
ninh trong những năm qua có thể thấy rằng đối với đội ngũ Kiểm sát viên, cán bộ
được phân công thực hiện khâu công tác này, việc vận dụng đúng và thực hiện đầy
đủ 5 đức tính của người cán bộ Kiểm sát có ý nghĩa quan trọng trong quá trình giải
quyết các vụ án xâm phạm an ninh quốc gia góp phần bảo đảm việc xử lý vụ án
đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội,
không làm oan người vô tội.
Đấu tranh chống và phòng ngừa các tội xâm phạm an ninh quốc gia là một
nhiệm vụ quan trọng trong chiến lược bảo vệ an ninh lãnh thổ, góp phần bảo đảm ổn
định và phát triển chế độ chính trị. Đây là một nhiệm vụ có không ít khó khăn phức
tạp, đòi hỏi người cán bộ Kiểm sát không chỉ nắm vững pháp luật và nghiệp vụ công
tác kiểm sát mà còn phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, vận dụng đúng đắn các
quan điểm tư tưởng, chỉ đạo của Đảng trong giải quyết các vụ việc cụ thể ở các thời
điểm xác định. Trong quá trình thực hiện chức trách, nhiệm vụ được phân công, cán
bộ, Kiểm sát viên làm công tác kiểm sát điều tra án an ninh luôn thấm nhuần tư
tưởng chỉ đạo đó, thấm nhuần lời dạy của Bác Hồ, nhất là tư tưởng “khách quan,
thận trọng” và vận dụng vào hoạt động thực tiễn để đạt hiệu quả cao nhất.
14
Cùng với Cơ quan điều tra, công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát
điều tra án an ninh đã góp phần phát hiện và xử lý kịp thời các vụ án xâm phạm an
ninh quốc gia, triệt phá nhiều tổ chức phản cách mạng có sự móc nối giữa các phần
tử bất mãn, tiêu cực ở trong nước với các tổ chức phản động người Việt lưu vong có
sự tiếp tay của các thế lực thù địch ở nước ngoài. Trong lĩnh vực an ninh tư tưởng -
văn hoá đã phối hợp chặt chẽ với các ngành phân loại và xử lý nhiều vụ bọn phản
động đội lốt tôn giáo, nhân sĩ trí thức để hoạt động tuyên truyền, xuyên tạc sự thật,
kích động hận thù phá hoại chính sách đoàn kết dân tộc, tôn giáo… Các vụ tuyên
truyền, tán phát các tài liệu phản động, các ấn phẩm văn hoá độc hại được kịp thời
phát hiện và xử lý nghiêm khắc trước pháp luật, có tác dụng giáo dục phòng ngừa.
Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay khi nước ta hội nhập quốc tế, với những
thời cơ và thách thức mới, yêu cầu của sự nghiệp cách mạng và yêu cầu cụ thể, trực
tiếp của công tác đấu tranh phòng chống tội phạm, giữ vững kỷ cương pháp chế đòi
hỏi người cán bộ Kiểm sát phải có nhận thức đúng đắn hơn và tích cực, chủ động,
sáng tạo hơn trong khi thực hiện nhiệm vụ công tác của mình.
Một vấn đề rất quan trọng trong xử lý tội phạm xâm phạm an ninh quốc gia là
việc phân hoá đối tượng phạm tội. Đối tượng phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia
không chỉ là những phần tử chống đối với ý thức giai cấp sâu sắc mà còn cả những
người mơ hồ về lập trường giai cấp, là sự ngộ nhận nhất thời về chính trị, thậm chí bị
mua chuộc, lôi kéo bởi những nhu cầu vật chất tầm thường, ngoài những kẻ chủ
mưu, cầm đầu thì có không ít những người lao động không có việc làm, những người
có hoàn cảnh khó khăn dẫn đến việc phạm tội. Việc xem xét tính chất vụ án, hoàn
cảnh và nhân thân của người phạm tội để có biện pháp xử lý đúng đắn không chỉ có
ý nghĩa cảm hoá và giáo dục người phạm tội mà còn đề cao tính nhân văn của pháp
luật Nhà nước ta.
Những thành tích kết quả đã đạt được hay những tồn tại, yếu kém của công
tác thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra án an ninh là sự phản ánh chất
lượng của người cán bộ. Ngoài những yêu cầu về “tâm - đức” thì công tác thực hành
quyền công tố và kiểm sát điều tra án an ninh đòi hỏi người cán bộ Kiểm sát phải có
những tư duy chính trị sâu sắc để có thể vận dụng đúng đắn chính sách, quan điểm
của Đảng vào việc xử lý các vụ việc cụ thể.
Giải quyết một vụ việc xâm phạm an ninh quốc gia không chỉ là sự vận dụng
một cách “khuôn phép” những quy định của pháp luật hình sự mà trong một giới hạn
nhất định nó còn là sự tổng hợp các yếu tố chính trị - pháp luật - xã hội, để lựa chọn
một quyết định đúng đắn. Đó cũng là những yêu cầu đòi hỏi người cán bộ Kiểm sát
phải có bản lĩnh, trí tuệ, có tư duy cách mạng khoa học, có phẩm chất trong sáng,
thực hiện tốt lời dạy của Bác Hồ “Công minh, chính trực, khách quan, thận trọng,
khiêm tốn” để thực hiện tốt chức trách nhiệm vụ được Đảng và Nhà nước giao phó.
Muốn làm quan cách mạng, phải cải cách tính nết của mình trước tiên"
19:4' 7/11/2006
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm chăm lo giáo dục lý tưởng cách mạng, bồi dưỡng, rèn luyện
đạo đức cho đội ngũ cán bộ, đảng viên. Hồ Chí Minh hiểu sâu sắc vai trò to lớn của đạo đức
trong đời sống xã hội, nhất là trong nhân cách người cán bộ, đảng viên. Bằng chính tấm gương
15
của mình và bằng rất nhiều bài nói và viết, Người đã đặt nền móng xây dựng nền đạo đức cách
mạng.
Tại buổi bế mạc Hội nghị cán bộ của Đảng lần thứ sáu (khoá I, ngày 18-1-1949), Người
căn dặn cán bộ, đảng viên: “Muốn làm cách mạng, phải cải cách tính nết của mình trước tiên”(1).
Bản thân Người, suốt cả cuộc đời Người nêu gương mẫu mực về đạo đức cách mạng vì nước,
vì dân.
Đề cao ý thức cộng đồng và giá trị đạo đức đã trở thành truyền thống tốt đẹp của dân tộc
Việt Nam. Ca ngợi tấm gương đạo đức của V.I.Lênin, Hồ Chí Minh đã viết: “Không phải chỉ thiên
tài của Người, mà chính là tính coi khinh sự xa hoa, tinh thần yêu lao động, đời tư trong sáng,
nếp sống giản dị, tóm lại là đạo đức vĩ đại và cao đẹp của người thầy, đã ảnh hưởng lớn lao tới
các dân tộc Châu á và đã khiến cho trái tim của họ hướng về Người và không gì ngăn cản
nổi”(2).
Từ lôgic biện chứng “cách mệnh trước hết phải có Đảng cách mệnh”, “cán bộ là cái gốc
của mọi công việc”, “muôn việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém”, và “huấn
luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng”, Hồ Chí Minh xác định: Khi đã có đường hướng đúng
thì mọi việc tốt hay xấu đều do cán bộ. Có cán bộ tốt thì thành công, không có cán bộ tốt thì hỏng
việc. Cán bộ tốt, theo Người, bao hàm cả đức và tài trong đó đức là gốc. Trau dồi đạo đức vì thế
là yêu cầu nền tảng hết sức quan trọng không thể thiếu đối với cán bộ, đảng viên của Đảng. Hồ
Chí Minh căn dặn: “Người cán bộ cách mạng phải có đạo đức cách mạng. Phải giữ vững đạo
đức cách mạng mới là người cán bộ cách mạng chân chính… Mọi việc thành hay là bại chủ chốt
là do cán bộ có thấm nhuần đạo đức cách mạng hay là không”(3).
Người chỉ rõ: “Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ “cộng sản” mà
ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức”(4), “Đảng viên
và cán bộ cũng là người. Ai cũng có tính tốt và tính xấu. Song đã hiểu hết, đã tình nguyện vào
một đảng vì nước vì dân, đã là người cách mạng thì cố gắng phát triển những tính tốt và sửa bỏ
những tính xấu. Vì tính xấu của một người thường chỉ có hại cho người đó; còn tính xấu của một
đảng viên, một cán bộ sẽ có hại cho Đảng, có hại đến nhân dân”(5). “Làm cách mạng để cải tạo
xã hội cũ thành một xã hội mới là một sự nghiệp rất vẻ vang, nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất
nặng nề, một cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu dài, gian khổ. Sức có mạnh mới gánh được nặng
và đi được xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành
được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”(6). Cán bộ, đảng viên phải coi việc tu dưỡng rèn luyện đạo
đức là vấn đề thường xuyên và suốt đời. Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống, mà
do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố, cũng như ngọc càng mài
càng sáng, vàng càng luyện càng trong. Tu dưỡng, rèn luyện, sửa đổi tính nết của mình phải
thông qua hoạt động thực tiễn, bền bỉ mọi lúc, mọi nơi, trong mọi điều kiện, hoàn cảnh.
Hồ Chí Minh xác định: “Đạo đức cách mạng là vô luận trong hoàn cảnh nào cũng phải
quyết tâm đấu tranh, chống mọi kẻ địch, luôn luôn chiến đấu, quyết không chịu khuất phục,
không chịu cúi đầu”(7). Người đòi hỏi cán bộ của Đảng phải luôn học lấy bốn đức “cần, kiệm,
liêm, chính”. Nếu như “trung với nước, hiếu với dân” là phẩm chất xuyên suốt, phản ánh mối
quan hệ giữa cá nhân với Tổ quốc và nhân dân thì cần, kiệm, liêm, chính là phẩm chất nền tảng
để thực hiện “trung với nước, hiếu với dân”. Nó phản ánh mối quan hệ “tự mình đối với mình” tự
rèn luyện trong hoạt động hằng ngày để hình thành những phẩm chất tốt đẹp đáp ứng yêu cầu,
tiêu chuẩn về đạo đức người cán bộ của Đảng.
Trong xã hội tồn tại đan xen nhiều lợi ích khác nhau, giữa lợi ích chung và lợi ích riêng,
lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể - xã hội, lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài, lợi ích vật chất và lợi
ích tinh thần… Các lợi ích này luôn liên quan chặt chẽ với nhau. Là người cán bộ của Đảng phải
giải quyết hài hoà các lợi ích đó và mối quan hệ giữa người với người. Đạo đức cách mạng luôn
đòi hỏi: “Mỗi cán bộ, đảng viên phải đặt lợi ích của cách mạng, của Đảng của nhân dân lên trên
hết, trước hết”(8). Hồ Chí Minh thường nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải đấu tranh với chủ nghĩa
cá nhân, vì nó là một thứ “giặc nội xâm” rất nguy hiểm. Do chủ nghĩa cá nhân mà đẻ ra các tư
tưởng sai lệch, các thói hư tật xấu như: Tham lam, lười biếng, kiêu ngạo, ham địa vị, thiếu kỷ
luật, óc lãnh tụ, kéo bè kéo cánh, bệnh cận thị không biết nhìn xa trông rộng. Chủ nghĩa cá nhân
trái ngược với đạo đức cách mạng. Nó rất gian giảo, xảo quyệt, khéo dỗ dành người ta đi xuống
dốc, vì thế mà nó rất nguy hiểm, cần phải đấu tranh trừ bỏ nó. Bản thân mỗi cán bộ, đảng viên,
đặc biệt là những người có chức, có quyền phải tự mình nhìn nhận lại mình và lắng nghe ý kiến
đóng góp của quần chúng, từ đó sửa mình và sửa người, nâng cao chất lượng công việc và để
16
được quần chúng tin mến. Bác Hồ căn dặn: “Trong công tác, trong tranh đấu, trong huấn luyện,
các đảng viên, cán bộ cần phải luôn tự hỏi mình, tự kiểm điểm mình và đồng chí mình. Luôn
dùng và khéo dùng cách phê bình và tự phê bình, thì khuyết điểm nhất định hết dần, ưu điểm
nhất định thêm lên và Đảng ta nhất định sẽ thắng lợi”(9).
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, đất nước ta đã thu được thành tựu to lớn và
quan trọng: Kinh tế tăng trưởng khá, văn hoá, xã hội có nhiều tiến bộ, đời sống nhân dân tiếp tục
được cải thiện, tình hình chính trị-xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh được tăng cường, công
tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng được chú trọng, hệ thống chính trị được củng cố; quan hệ đối
ngoại không ngừng được mở rộng, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng nâng cao.
Những thành tựu đó trước hết là nhờ đường lối đổi mới đúng đắn, sự đóng góp của toàn dân, sự
ủng hộ của bè bạn quốc tế, đồng thời là sự đóng góp của các thế hệ cán bộ, đảng viên của
Đảng.
Trước tình hình chống phá của các thế lực thù địch và mặt trái của cơ chế thị trường…
hiện nay những biểu hiện hư hỏng về đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, nhân dân
đang có chiều hướng trầm trọng hơn. Các tệ nạn xã hội, tệ tham nhũng, buôn lậu, làm ăn phi
pháp đang diễn ra phổ biến ở nhiều nơi. Sự biến chất của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng
viên đang làm giảm sút uy tín về vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước. Thực trạng
đó từng được Đảng ta chỉ rõ trong nhiều văn kiện.
Vì vậy, việc bồi dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên nói chung,
cán bộ, đảng viên trong quân đội nói riêng vừa là yêu cầu thường xuyên, đồng thời mang tính
cấp thiết. Để thực hiện được yêu cầu đó, đòi hỏi phải tiến hành đồng bộ nhiều giải pháp:
Tiếp tục tiến hành nghiêm túc việc học tập Chủ nghĩa Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí
Minh, nhằm nâng cao nhận thức, trách nhiệm trong tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất, đạo đức
cách mạng của người cán bộ, đảng viên.
Thực hiện tốt các biện pháp chống suy thoái phẩm chất đạo đức của cán bộ, đảng viên,
trong đó cá nhân phải tự tu dưỡng, rèn luyện đi đôi với sự giáo dục, kiểm tra của tập thể.
Sử dụng đồng bộ hệ thống giám sát cán bộ, đảng viên, nhất là sự giám sát của tổ chức
đảng, nhân dân và công luận đối với phẩm chất đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên trong
các cơ quan đảng, nhà nước, đặc biệt là những cán bộ chủ chốt.
Các cấp uỷ đảng và người đứng đầu các cơ quan, các ngành từ Trung ương đến cơ sở
phải chịu trách nhiệm chống tham nhũng, tiêu cực ở nơi mình phụ trách.
Ngăn ngừa, sửa chữa sai lầm khuyết điểm, tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng của
cán bộ, đảng viên là nhiệm vụ của toàn Đảng mà trực tiếp là tổ chức cơ sở đảng, của mỗi chi bộ
nhưng trước hết là trách nhiệm của mỗi cán bộ, đảng viên. Thấu suốt Tư tưởng Hồ Chí Minh
“muốn làm cách mạng, phải cải cách tính nết của mình trước tiên”, quán triệt Nghị quyết Đại hội
X, các nghị quyết về xây dựng, chỉnh đốn Đảng sẽ góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên
vừa “hồng” vừa “chuyên” thực sự là đội tiên phong của giai cấp công nhân và của dân tộc Việt
Nam.
____
Cán bộ, đảng viên thật sự gương mẫu tận tuỵ phục vụ nhân dân
Cập nhật: Thứ ba, 2/2/2010 | 7:48:10 Sáng
Mùa xuân năm 1960, tại Lễ kỷ niệm 30 năm ngày
Đảng ra đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: Hễ còn
có một người Việt Nam bị bóc lột, bị nghèo nàn,
thì Đảng vẫn đau thương, cho đó là vì mình chưa
làm tròn nhiệm vụ.
Cho nên Đảng vừa lo tính công việc lớn như đổi nền kinh tế và văn hoá lạc hậu của nước
Cán bộ trẻ làm việc tại bộ phận “một cửa” thành
phố Bắc Giang.
17
ta thành một nền kinh tế và văn hoá tiên tiến, đồng thời lại luôn quan tâm đến những việc
nhỏ như tương cà mắm muối cần thiết cho đời sống hằng ngày của nhân dân. Người
khẳng định: Đảng ta là đạo đức, là văn minh vì Đảng ta phấn đấu, lãnh đạo và đoàn kết
toàn dân đấu tranh cách mạng giải phóng dân tộc, xây dựng chủ nghĩa xã hội đều nhằm
đem lại lợi ích cho nhân dân. Đảng ta vĩ đại như biển rộng, như núi cao. Từ ngày mới ra
đời, Đảng ta đã giương cao ngọn cờ cách mạng, đoàn kết và lãnh đạo toàn dân ta tiến lên
đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp. Màu cờ đỏ của Đảng chói lọi như mặt
trời mới mọc, xé tan cái màn đen tối, soi đường dẫn lối cho nhân dân ta vững bước tiến
lên con đường thắng lợi.
Là người sáng lập và rèn luyện Đảng ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt chăm lo xây dựng
Đảng ta thật sự trong sạch, vững mạnh, thật sự xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ
thật trung thành của nhân dân. Người yêu cầu: Mỗi đảng viên ta phải là một chiến sĩ tích
cực gương mẫu, xứng đáng với lòng tin cậy của Đảng và của nhân dân. Mỗi chi bộ ta phải
là một hạt nhân vững chắc, lãnh đạo đồng bào thi đua yêu nước, cần kiệm xây dựng nước
nhà. Mỗi cấp uỷ Đảng phải là động cơ mạnh mẽ thúc đẩy phong trào cách mạng sôi nổi
tiến lên. Trung ương hứa sẽ đem hết tinh thần và lực lượng để lãnh đạo toàn Đảng, toàn
dân hoàn thành thắng lợi những nhiệm vụ mà Đại hội đã quyết định.
Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy rằng, nhân dân chỉ quý trọng những người cán bộ, đảng viên
thật sự vì dân, vì nước. Cán bộ, đảng viên của Đảng dù ở cương vị nào cũng phải ra sức
phấn đấu làm tròn nhiệm vụ Đảng giao phó cho mình và không chỉ nêu cao tinh thần chịu
trách nhiệm trước Đảng, trước dân mà còn vươn lên làm tấm gương cho mọi người noi
theo. Trong suốt cuộc đời "từ buổi thiếu niên cho đến phút cuối cùng" Bác Hồ đã phấn
đấu, rèn luyện thật sự là tấm gương đạo đức cách mạng tận tuỵ phục vụ cách mạng, phục
vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Người dạy chúng ta: Làm cách mạng là để cải tạo xã hội
cũ thành xã hội mới, là một sự nghiệp rất vẻ vang, nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất
nặng nề, một cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu dài, gian khổ. Do đó, người cách mạng phải
có đạo đức cách mạng làm nền tảng mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang.
Cần, kiệm, liêm, chính là những đức tính căn bản mà mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng
phải thường xuyên rèn luyện, tu dưỡng để ưu điểm ngày càng nhiều, khuyết điểm sai lầm
ngày càng ít. Bác Hồ còn đặc biệt coi trọng việc rèn luyện đạo đức cho cán bộ, đảng viên
trong thực tiễn sản xuất, công tác, trong phong trào cách mạng và trong cuộc sống thường
ngày. Người cho rằng, đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống mà do đấu tranh,
rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà có. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện
càng trong. Những khi cách mạng gặp khó khăn thì đạo đức cách mạng của người cán bộ,
đảng viên là quyết tâm bất kỳ khó khăn đến mức nào cũng kiên quyết làm đúng chính
sách và nghị quyết của Đảng, làm gương cho quần chúng. Theo đó, người cán bộ, đảng
viên phải nâng cao tinh thần trách nhiệm trước nhân dân, trước Đảng, luôn đặt lợi ích của
Đảng, của nhân dân lên trên lợi ích cá nhân. Trước lúc đi xa, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn
căn dặn: Đảng ta là một đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thấm nhuần đạo
đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn đảng ta thật
trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là đầy tớ thật trung thành của nhân dân.
Thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh và thực hiện sáng tạo Di chúc của Người, 80 năm
qua, dưới lá cờ "độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội" Đảng đã đoàn kết và lãnh đạo toàn
18
dân đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, hàn gắn các vết thương chiến
tranh, xây dựng chủ nghĩa xã hội, tiến hành đổi mới, chủ động hội nhập để sớm thoát khỏi
nước nghèo, sánh vai các cường quốc năm châu, tiến cùng nhân loại trong kỷ nguyên toàn
cầu hoá.
Trong Cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh", Đảng ta
yêu cầu mỗi cán bộ, đảng viên cần ra sức học tập và làm theo tấm gương Hồ Chí Minh đã
hết lòng xả thân vì lợi ích của nhân dân, của đất nước, nêu gương vượt mọi khó khăn, tận
tuỵ phục vụ nhân dân. Năm 2010 là năm thứ 4 của Cuộc vận động cũng là năm tiến hành
đại hội Đảng các cấp tiến tới Đại hội XI của Đảng, việc nêu gương tận tuỵ phục vụ nhân
dân của cán bộ, đảng viên có ý nghĩa rất thiết thực mà một trong những tiêu chí để đánh
giá chất lượng tổ chức đảng và đảng viên là thái độ và chất lượng phục vụ nhân dân, góp
phần nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân. Trong sinh hoạt đảng, nêu gương đạo
đức của người đảng viên trước hết là phát huy tinh thần dân chủ, thường xuyên và thật thà
tự phê bình và phê bình để giữ gìn sự đoàn kết của Đảng, chống thoái hoá biến chất, góp
phần chỉnh đốn lại Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và năng lực cầm quyền của Đảng
trong điều kiện lịch sử mới.
Nêu gương đạo đức của người đảng viên quan trọng nhất là nói đi liền với làm và làm có
hiệu quả để đem lại lợi ích cho nhân dân, cho đất nước. Nói và làm theo nghị quyết và
chính sách, pháp luật là yêu cầu hàng đầu đối với đảng viên. Người cán bộ lãnh đạo và
quản lý thì càng phải gương mẫu nêu cao tinh thần cần kiệm liêm chính, chí công vô tư,
kiên quyết và khôn khéo trong đấu tranh chống tham nhũng lãng phí, quan liêu để giữ
vững danh hiệu đảng viên trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, hội nhập, mở cửa.
Người đảng viên hiện nay còn cần nêu gương xây dựng gia đình hạnh phúc, gia đình văn
hoá. Chăm lo xây dựng gia đình kiểu mẫu về văn hoá của người đảng viên sẽ làm hạt
nhân xây dựng các cộng đồng dân cư hoà thuận, văn minh, đoàn kết xây dựng cuộc sống
mới, làm cho cuộc sống tốt đẹp cắm rễ, lan toả trên mọi vùng miền của Tổ quốc ta, cả ở
những thôn cùng, xóm vắng cũng được no đủ về vật chất, ấm áp về tinh thần, tình cảm,
được hưởng những thành quả của đổi mới, có cuộc sống vui tươi, lành mạnh.
Đạo đức cách mạng đối với đảng viên, đoàn viên (sưu tầm)
Đăng ngày: 12:37 22-04-2009
Thư mục: Học tập gương Bác
Cách đây gần tròn nửa thế kỷ (1958), Bác Hồ kính yêu đã viết bài về rèn luyện đạo
đức cách mạng dành cho đảng viên, đoàn viên - hai đối tượng được đặt lên hàng
đầu.Chúng ta luôn ghi nhớ rằng, tư cách, phẩm chất đạo đức gắn liền với hoạt động
hàng ngày của mọi công dân không phân biệt bất cứ ai mà Bác thường xuyên căn
dặn, nhắc nhở là cần kiệm, liêm chính, chí công, vô tư.
Thật vậy, trong học tập, lao động, công tác cũng như trong cuộc sống đời thường
của từng người ở xã hội ta vào thời kỳ cách mạng nào cũng thế, nếu sự bất liêm,
bất chính, lãng phí, tham ô, lười biếng, vô trách nhiệm, thu vén cá nhân, ích kỷ vì lợi
19
ta hại người… còn lẩn khuất đâu đó bằng sự dối trá với chính mình, với tập thể và
cộng đồng thì đó là “kẻ thù nội xâm” nguy hiểm khôn lường.
Giới trẻ, trước hết là cán bộ, đoàn viên, lớp người với sứ mệnh kế tục sự nghiệp
của cha anh càng phải ra sức tu dưỡng, rèn luyện và thực hành cần kiệm, liêm
chính, chí công, vô tư trong bất cứ hoàn cảnh và điều kiện nào.
Bác dạy: “Làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới là một sự nghiệp vẻ
vang nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh rất phức tạp,
lâu dài, gian khổ”.
Hơn bao giờ hết, những người cộng sản trẻ tuổi phải sớm tự ý thức được tính lâu
dài, gian khổ, nhằm cải tạo xã hội cũ vừa là sứ mệnh tự thân vừa là mục tiêu phấn
đấu bằng chính nội lực của mình như Bác đã nói một cách hình ảnh: “Sức có mạnh
mới gánh được nặng, đi được xa. Người cách mạng có đạo đức cách mạng làm nền
tảng mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”.
Chỉ khi nào chúng ta đứng vững trên nền tảng đạo đức ấy, quán triệt sâu sắc điều
chủ chốt ấy ở mọi nơi, mọi lúc chúng ta mới có thể tự nhân lên sức mạnh của mình
để “gánh được nặng, đi được xa”.
Thực tế cho thấy như Bác dạy: “Số đông đảng viên, đoàn viên và cán bộ ta làm
đúng như thế. Nhưng cũng có một số không làm đúng”.
Nguyên nhân dẫn đến việc không làm đúng chủ yếu là do “chủ nghĩa cá nhân” với
nhiều biểu hiện khác nhau như:
“Yêu cầu hưởng thụ, yêu cầu nghỉ ngơi, muốn lựa chọn công tác theo ý thích cá
nhân của mình, không muốn làm công tác mà đoàn thể giao phó cho họ. Họ muốn
địa vị cao nhưng lại sợ trách nhiệm nặng… Dần dần tinh thần đấu tranh và tính tích
cực của họ bị kém sút, chí khí cách mạng và phẩm chất tốt đẹp của người cách
mạng cũng kém sút”.
Ngày nay, trong hoàn cảnh và điều kiện mới, Đảng và Nhà nước ta đang phát động
và lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân đấu tranh không khoan nhượng chống nạn quan
liêu, tham nhũng và những biểu hiện sa đọa, vi phạm nghiêm trọng đạo đức cách
mạng của một bộ phận cán bộ, đảng viên, chúng ta thấy những tiên lượng hết sức
đúng đắn của Bác về sự nảy nở và phát triển của chủ nghĩa cá nhân làm băng hoại
phẩm chất của biết bao con người do thiếu tu dưỡng, rèn luyện, xa rời thậm chí đối
lập với “điều chủ chốt nhất” của đạo đức cách mạng là suốt đời đấu tranh cho mục
tiêu, lý tưởng mà bản thân đã từng gắn bó.
Điều này có ý nghĩa quyết định đến con đường phấn đấu của đông đảo cán bộ,
đoàn viên vì sự nghiệp lớn mà họ đang ấp ủ, ước mơ. Từ đây, mỗi một chúng ta cần
ý thức ngày một rõ hơn, sâu hơn quá trình tự tạo dựng cho mình cái nền tảng, cái
điều chủ chốt nhất của đạo đức cách mạng, ấy là “không một phút giây nào được xa
rời lý tưởng phấn đấu” và không bao giờ buông lỏng cuộc đấu trang với chủ nghĩa cá
nhân - “kẻ địch còn ẩn nấp trong mình mỗi người chúng ta. Nó chờ dịp hoặc thất bại,
hoặc thắng lợi, để ngóc đầu dậy…” như Bác đã cảnh báo.
20
“Đạo đức cách mạng là hòa mình với quần chúng thành một khối, tin quần chúng,
hiểu quần chúng, lắng nghe ý kiến của quần chúng. Do lời nói và việc làm, đảng
viên, đoàn viên và cán bộ làm cho dân tin, dân phục, dân yêu…”.
Chúng ta đang có nhiều tấm gương đảng viên, đoàn viên và cán bộ được dân tin,
dân yêu, được như vậy là do các đồng chí đã tự mình rèn luyện và thực hiện tốt lẽ
sống mình vì mọi người, trong đó lời nói luôn đi đôi với việc làm, lấy việc mình làm
để cổ vũ người khác.
Song đáng tiếc hiện nay trong tổ chức Đoàn vẫn còn có những “quan Đoàn” quan
liêu, không nắm được những vấn đề cụ thể, những suy nghĩ, những khó khăn,
những nguyện vọng chính đáng và cả những hành vi sai trái của một bộ phận thanh
niên trong địa phương, đơn vị mình.
Thủ lĩnh thanh niên ngày nay chỉ là người truyền đạt nghị quyết thì chưa đủ. Tiêu chí
hàng đầu của thủ lĩnh thanh niên, nhất là cấp cơ sở giờ đây phải là thuyết phục
thanh niên bằng việc làm, bằng năng lực hoạt động thực tiễn.
Nếu chúng ta được “dân tin, dân phục, dân yêu” chúng ta sẽ có tất cả, làm được tất
cả, bằng không sẽ là ngược lại… Giá trị đạo đức Hồ Chí Minh trở thành bất diệt bởi
cái nền muôn đời bền vững ấy.
Khi nói về Hồ Chủ tịch, Bác Trường Chinh cho rằng: Hồ Chủ tịch là một chiến sỹ cộng sản mẫu
mực, đạo đức và phẩm chất cao quí của người là sự kết tinh những truyền thống tốt đẹp nhất
của dân tộc Việt Nam cộng với đạo đức của người cộng sản Chủ nghĩa của giai cấp công nhân,
giai cấp triệt để cách mạng của thời đại có sứ mệnh lịch sử cải tạo thế giới, thiết lập xã hội cộng
sản chủ nghĩa trên hành tinh chúng ta!
Bác luôn coi đạo đức là cái gốc của người cách mạng của con người trong chế độ XHCN. Cái
lớn nhất trong đạo đức của Bác Hồ là:” Hy sinh tất cả vì độc lập dân tộc, vì hạnh phúc của nhân
dân”. Chính vì vậy mà cả cuộc đời của Bác, chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc làm sao
cho đất nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng cũng
có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành
Phẩm chất cao quí chúng ta học tập ở Người là - Trung với Đảng, hiếu với dân, kiên định lập
trường cách mạng, dũng cảm trong hành động, khôn khéo trong xử lý tình huống, thắng không
kiêu, khó khăn không nản, mẫu mực trong cuộc sống hàng ngày: khiêm tốn , giản dị, cần kiệm
liêm chính, chí công vô tư Bác là hình mẫu về trong sáng, một công dân “ Giàu sang không thể
quyến rũ, nghèo khó không thể chuyển lay, uy quyền không thể khuất phục”.
Ngay từ khi bắt đầu hoạt động cách mạng , Hồ Chí Minh đã ý thức rất rõ ràng về vai trò và sức
mạnh của đạo đức cách mạng. Người quan tâm đến vấn đề đạo đức, giáo dục lý tưởng cách
mạng cho thanh niên và quần chúng nhân dân. Năm 1927 trong cuốn sách:”Đường cách mệnh”
Hồ Chí Minh đã chỉ ra tư cách của cán bộ cách mạng. Ngay sau khi giành chính quyền, Hồ Chí
Minh đã quan tâm tới việc không ngừng rèn luyện đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên.
Người chỉ ra rằng nếu cán bộ là cái gốc của mọi công việc thì đạo đức cách mạng là cái gốc
của cán bộ. Hồ Chí Minh khẳng định: “ Làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới là
sự nghiệp rất vẻ vang, nhưng nó cũng là nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh rất phức tạp
lâu dài gian khổ sức mạnh phải có đạo đức làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ vẻ
vang”.
Đạo đức cách mạng phải là phẩm chất đầu tiên, phải được coi là nhân tố tạo nên sức mạnh của
cán bộ, đảng viên, Người khẳng định: tiềm ẩn của người cán bộ là đạo đức cách mạng, sức có
mạnh mới gánh được nặng và đi được xa, người cách mạng phải có đạo đức mới hoàn thành
nhiệm vụ. Là người cách mạng thì tiêu chuẩn đầu tiên là phải có phẩm chất đạo.
Học tập đạo đức cách mạng Bác Hồ là tấm gương trong sáng về phong cách Những chân lý
lớn của thời đại được Người diễn đạt bằng những lời giản dị mà hàm súc. Chúng ta đọc và học
21
di chúc của Bác, chúng ta điều thấy toát lên cái tinh thần đạo đức cách mạng trong sáng và khoa
học, nhưng nó hết sức thiết thực, như chính cuộc sống đang đến với mình
Hằng năm, cứ mỗi độ thu về, chúng ta càng nhớ thương Bác Hồ da diết. Nhớ thu 69, Bác Hồ
vĩnh biệt chúng ta. Từ năm ấy đã 40 lần thu sang và mỗi lần đến ngày 2-9 trong lòng mỗi con
người Việt Nam lại càng khắc ghi di chúc thiêng liêng của Người.
Ngày 2-9-1945, Bác đọc bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Công hòa.
Ngày 2-9-1969 Người đi vào cõi vĩnh hằng nhưng tình cảm, nhân cách và hình ảnh của Người
vẫn sống mãi với non sông, đất nước, với dân tộc Việt Nam. Trong Di chúc, Người đã nói lên
điều mong muốn cuối cùng : “Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước
Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự
nghiệp cách mạng thế giới”.
“Trước hết nói về Đảng”, Bác căn dặn : “Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng
và của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của
Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”. ‘Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường
xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn
kết và thống nhất của Đảng. Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”… “Đảng ta là một Đảng
cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần
kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người
lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành
của nhân dân”.
Căn dặn Đảng phải chăm lo giáo dục và
đào tạo thanh niên, Bác nói : “Bồi dưỡng
thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc
rất quan trọng và cần thiết”.
Với các tầng lớp nhân dân, Bác căn dặn :
“Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để
phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không
ngừng nâng cao đời sống của nhân dân”.
Tiên liệu cuộc kháng chiến chống Mỹ có
thể còn kéo dài, đồng bào ta có thể phải
hy sinh nhiều người, nhiều của, Bác đặc
biệt dặn dò : “Dù sao, chúng ta phải quyết
tâm đánh giặc Mỹ đến thắng lợi hoàn
toàn”. Và “thắng giặc Mỹ, ta sẽ xây dựng
hơn mười ngày nay”.
Từ Quảng trường Ba Đình lịch sử đã
vang lên lời thề của toàn Đảng, toàn dân
quyết tâm thực hiện trọn vẹn những điều căn dặn cuối cùng của Bác Hồ, quyết “mang lá cờ bách
chiến bách thắng của Hồ Chủ tịch tới đích cuối cùng”. Hơn 5 năm sau ngày Bác đi xa, quân và
dân ta đã thực hiện được mong ước tột bậc của Bác là đánh thắng giặc Mỹ, quét sạch bóng thù,
đưa giang sơn về một mối bằng chiến thắng lẫy lừng. Xuân năm 1975, Đất nước thống nhất đàn
hoàn hơn to đệp hơn. Để ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành… Bước đầu, toàn
Đảng, toàn dân và toàn quân ta đã thực hiện một cách hoàn mỹ nhất Di chúc thiêng liêng của
Bác Hồ.
Từ năm 1976 đến nay, sau tám kỳ Đại hội Đảng đã hoạch định chiến lược xây dựng đất nước,
đề ra đường lối đổi mới toàn diện, bước đầu làm thay đổi bộ mặt của đất nước, thực hiện hội
nhập quốc tế, tạo ra thế và lực mới trên trường quốc tế bằng những tiến bộ vượt bậc trên các
lĩnh vực chính trị, quốc phòng, đối ngoại và kinh tế-văn hóa-xã hội. Kinh tế, đời sống xã hội phát
triển nhanh trong sự ổn định chính trị khiến lòng dân hứng khởi, nỗ lực để xây dựng Tổ quốc
“hơn mười ngày nay” như Di chúc của Bác Hồ kính yêu đó là sự kỳ diệu của Đảng, của nhân dân
ta. Kỷ niệm 37 năm thực hiện Di chúc của Bác Hồ, Đảng và nhân dân ta vui mừng báo cáo với
Bác về những thắng lợi và thành tựu giành được. Song, chúng ta cũng thành thật xin nhận lỗi với
Bác rằng, chúng ta còn chưa làm được nhiều điều Bác dặn. Tiêu cực và tệ nạn xã hội còn nhiều,
đời sống kinh tế căn bản còn thấp kém… đây là điều mà Đảng đang quan tâm day dứt. Trong
việc xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước, xây dựng quyền làm chủ của nhân dân và khối đại
đoàn kết toàn dân, bên cạnh những thành tích và ưu điểm, chúng ta còn vấp phải nhiều khuyết
22
điểm. Sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức và lối sống, sự vi phạm các nguyên tắc về tổ
chức và sinh hoạt Đảng, sự lạm dụng quyền lực, tệ quan liêu và tham nhũng trong một bộ phận
cán bộ, đảng viên đã có tác động tiêu cực đến việc nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của Đảng, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng, với chế độ. Cuộc vận động xây
dựng, chỉnh đốn Đảng, học tập và làm theo di chúc của Bác Hồ; học tập tư tưởng Đạo đức Hồ
Chí Minh do Trung ương phát động và tiến hành trong nhiều năm chính là để Đảng ta khắc phục
sai lầm và khuyết điểm, khôi phục và phát huy những phẩm chất cao đẹp vốn có, thực hiện đúng
Di chúc của Bác Hồ, làm cho Đảng ta thật trong sạch, vững mạnh, xứng đáng là người lãnh đạo,
là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân như lời căn dặn trước lúc đi xa của Bác Hồ muôn
vàn kính yêu của dân tộc Việt Nam.
Từ mùa thu lịch sử 1969, Bác Hồ đi vào “thế giới người hiền”. Người từ giã chúng ta, để lại
không phải bạc vàng châu báu mà là một bản Di chúc triệu triệu quý giá hơn. Thương nhớ
Người, chúng ta hãy quyết tâm thực hiện thật tốt và trọn vẹn Di chúc thiêng liêng của Bác để
đền đáp lại muôn vàn tình thân yêu của Bác để lại cho toàn dân, toàn Đảng, cho toàn thể bộ đội,
cho thế hệ thanh niên chúng ta học tập. Người nói: "Đạo đức là gốc của con người làm cách
mạng, nếu gốc không vững chắc, cây sẽ đổ". Cho nên đạo đức là mấu chốt thành công của cách
mạng, Người dặn phải luôn luôn đào tạo những con người mới, con người tâm huyết phục vụ đất
nước, phục vụ cách mạng. Nhất là thời kỳ chuyển tiếp đất nước đang đổ hết sức mình nỗ lực
tiến lên hiện đại hoá, công nghiệp hoá để kịp bè bạn năm châu như lời Bác chúng ta mong
muốn.
Chúng ta khó mà có thể học hết những bài học từ cuộc đời “trong như ánh sáng” của Bác
Nhưng mỗi người chúng ta hãy tự mình thực hiện những điều tốt đẹp. Dưới tác động của cơ chế
thị trường, đội ngũ cán bộ, công chức không ít người đã thoái hóa, biến chất. Họ sống xa hoa,
lãng phí bằng những đồng tiền của nhân dân. Lại thấy buồn khi một bộ phận thanh niên thời nay
sống xa xỉ, phóng túng Trong khi đó, xã hội còn không ít những người khó khăn, nhiều trẻ em ở
vùng sâu, vùng xa tới trường còn phải mặc quần áo vá, không có đôi dép cao su để đi, qua đò
giang sông nước không có chiếc áo phao Khi nước ta còn nghèo, đời sống nhân dân ta còn khó
khăn thì hơn lúc nào hết, bài học về đức “kiệm”, noi theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh cần
phải được mọi người thực hành.
“Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” là kịp thời và phù hợp với nguyện
vọng của toàn thể cán bộ, đảng viên Cienco5. Học tập đạo đức của Người sẽ giúp chúng ta vững
bước hơn trên con đường đi tới tương lai. Giúp chúng ta nhanh chóng xây dựng đất nước “sánh
vai với các cường quốc năm châu” như lòng mong mỏi của Người vào thế hệ trẻ, thế hệ tương
lai của đất nước.
Câu 13: Tthcm về đạo đức? Vận dụng tư tưởng nhân văn - đạo đức HCM trong điều kiện đất
nước hiện tại?
1. Vị trí, vai trò, sức mạnh của đạo đức:
Đạo đức là 1 trong những vấn đề quan tâm hàng đầu của HCM trong sự nghiệp CMVN.
- Đánh giá của đảng ta về tư tưởng đạo đức của HCM:
Năm 1951, Đại hội 2, tư tưởng của HCM là đường lối chính trị của đảng ta; đạo đức của HCM là
đạo đức của đảng; tác phong của HCM là nền nếp làm việc của đảng ta.
Năm 1960, đại hội 3, toàn đảng ra sức học tập tư tưởng, đạo đức, tác phong của HCM.
Năm 1982, Đại hội 5 toàn đảng học tập 1 cách có hệ thống tư tưởng, đạo đức, tác phong của
HCM.
Năm 2001, đại hội 9 phát động phong trào học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, tác phong của
HCM. Tư tưởng của Chủ tịch HCM nói chung là nền tảng tư tưởng và kim chỉ Nam cho hành
động của đảng ta. Tư tưởng đạo đức là bộ phận kết tinh của tư tưởng HCM nói chung.
- Các thế hệ người vn phấn đấu cho độc lập dt đến với HCM trước hết là đến với tư tưởng đạo
đức của người. "Sống, chiến đấu, lao động, học tập theo gường Bác hồ vĩ đại" là khẩu hiệu
chung của người VN.
- Tư tưởng đạo đức và bản thân đạo đức của HCM là kết tinh đạo đức của dt, của nhân loại.
HCM là điểm sáng về đạo đức đối với TG và đối với VN. Bác nói: "Đối với phương đông, một
tấm gương sống còn giá trị hơn 100 bài diễn văn tuyên truyền."
23
- Bác hồ luôn kết hợp giáo dục đạo đức với giáo dục lý tưởng cách mạng.
- Vấn đề đạo đức của HCM được quan tâm toàn diện: đối tượng, phạm vi, tất cả các lĩnh vực
hoạt động người.
HCM coi đạo đức là nền tảng của người cách mạng, cũng giống như gốc của cây, ngọn nguồn
của sông, của suối. Như đối với con người, sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa.
Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng. Bởi
lẽ con đường đi đến độc lập dt và CNXH là con đường dài, đòi hỏi sự phấn đấu không ngừng
của mỗi người, mỗi thế hệ và nhiều thế hệ nối tiếp nhau. Chăm lo cái gốc, cái nguồn, cái nền
tảng ấy là công việc thường xuyên của toàn đảng, toàn dân, của mỗi gia đình và mỗi người
trong xh ta.
Theo Lênin, "đạo đức là những gì góp phần phá hủy xh cũ của bọc bóc lột và góp phần đoàn kết
tất cả những người lao động chung quanh giai cấp vô sản đang sáng tạo ra xh mới của những
người cộng sản."
HCM cho rằng, đảng "là đạo đức, là văn minh", thì mới hoàn thành sứ mệnh lịch sử vẻ vang của
minh. Đảng cộng sản phải tiêu biểu cho trí tuệ, danh dự, lương tâm của dt mình và của thời
đại. Trí tuệ là sự hiểu biết đúng đắn về CNMLN, tri thức hiện đại của nhân loại, thực tiễn VN
và TG, những quy luật phát triển của CMVN, những hiểu biết để đưa sự nghiệp cách mạng đến
thắng lợi. Đạo đức là những phẩm chất mà con người cần có để tham gia vào cuộc đấu tranh
cho độc lập dt và CNXH. Muốn làm cách mạng thì con người cần có tâm trong sáng, đạo đức
cao đẹp đối với GCCN, nhân dân lao động, với cả dt. Cái tâm ấy phải thể hiện trong các mối
q/hệ xh hằng ngày với dân, với nước, với đồng chí, đồng nghiệp, với mọi người xung quanh
mình. Phải có tâm có đức mới giữ được CNMLN và đưa chủ nghĩa MLN vào trong cuộc sống.
HCM cũng quan tâm giáo dục đạo đức cho cán bộ, đảng viên, các tầng lớp nhân dân lao động.
Tùy theo từng thời kỳ cách mạng mà người đề ra những yêu cầu đạo đức sát hợp để mọi người
cùng phấn đấu. Trong cuốn Đường kách mệnh, bài đầu tiên nói về tư cách người cách mệnh.
HCM đã nêu 1 quan điểm lớn: phải có cái đức để đi đến cái trí, và khi có trí thì cái đức đảm
bảo cho người cách mạng giữ vững được chủ nghĩa mà mình đã giác ngộ, chấp nhận, đi theo.
Có đức nhưng phải có tài, hồng và chuyên phải kết hợp. Đạo đức là gốc, là vũ khí mạnh mẽ
trong cuộc đấu tranh vì độc lập dt và CNXH.
2- Những phẩm chất đạo đức cơ bản của con người VN trong thời đại mới.
+ Trung với nước, hiếu với dân.
Trong mối quan hệ đạo đức thì mối quan hệ giữa mỗi người với đất nước, với nhân dân, với dt
là mối quan hệ lớn nhất. Trung, hiếu là phẩm chất quan trọng nhất, bao trùm nhất.
Trung, hiếu là những khái niệm đã có trong tư tưởng, đạo đức truyền thống VN và phương
đông. HCM vận dụng và đưa vào nội dung mới. Trước kia trung là trung với vua, vì vua và nước
là một, nước là của vua. Con hiếu chỉ trong phạm vi gia đình là con cái có hiếu với cha mẹ.
HCM đã kế thừa những giá trị đạo đức truyền thống và vượt trội. Trung với nước là trung
thành với sự nghiệp giữ nước và dựng nước. Nước là của dân, còn nhân dân là chủ của đất
nước. "Bao nhiêu quyền hạn đều của dân, bao nhiêu lợi ích đều vì dân".
Trung với nước, hiếu với dân là suốt đời phấn hy sinh độc lập tự do của tổ quốc, vì CNXH,
nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng. Bác
vừa kêu gọi hành động vừa định hướng chính trị - đạo đức cho mỗi người VN.
Đối với cán bộ đảng viên phải suốt đời đấu tranh cho đảng, cho cách mạng, đó là điều chủ chốt
của đạo đức cách mạng. Phải tuyệt đối trung thành với đảng, với dân, phải tận trung, tận
hiếu, thì mới xứng đáng vừa là đầy tớ trung thành, vừa là người lãnh đạo của dân; dân là đối
tượng để phục vụ hết long. Phải nắm vững dân tình, hiểu rõ dân tâm, cải thiện dân sinh, nâng
cao dân trí để dân hiểu được quyền và trách nhiệm của người chủ đát nước.
+ Yêu thương con người.
Kế thừa truyền thống nhân nghĩa của dân tộc, kết hợp truyền thống nhân nghĩa với chủ nghĩa
nhân đạo cộng sản, tiếp thu tinh thần nhân văn của nhân loại qua nhiều thế kỷ, qua hoạt động
thực tiễn, HCM đã xác định tình yêu thương con người là phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất.
Tình yêu rộng lớn dành cho những người cùng khổ, những người lao động bị áp bức, bóc lột.
HCM chỉ ham muốn cho đất nước được hoàn toàn độc lập, dân được tự do, mọi người ai cũng
có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành. Chỉ có tình yêu thương con người bao la đến như
vậy mới có cách mạng, mới nói đến CNXH và CNCS.
24
Tình yêu thương con người còn là tình yêu bạn bè, đồng chí, có thái độ tôn trọng con người,
điều này có ý nghĩa đối với người lãnh đạo. Nghiêm khắc với mình, độ lượng với người khác.
Phải có tình nhân ái với cả những ai có sai lâm, đã nhận rõ và cố gắng sửa chữa, đánh thức
những gì tốt đẹp trong mỗi con người. Bác căn dặn đảng phải có tình đồng chí thương yêu lẫn
nhau, trên nguyên tắc tự phê bình và phê bình chân thành.
+ Cần kiệm, liêm chính, chí công vô tư.
Cần là lao động cần cù, siêng năng, lao động có kế hoạch, sáng tạo năng suát cao; lao động với
tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng, không ỷ lại, không dựa dẫm. Lao động là nghĩa vụ
thiêng liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của con người.
Kiệm là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của nhân dân, của đất nước,
của bản thân mình. Tiết kiệm từ cái nhỏ đến cái to; "không xa sỉ, không hoang phí, không bừa
bãi".
Liêm là "luôn luôn tôn trọng giữ gìn của công và của dân; không xâm phạm một đồng xu, hạt
thóc của nhà nước, của nhân dân". Phải trong sạch, không tham lam. Không tham địa vị, không
tham tiền, không tham sung sướng. Không tâng bốc mình. Chỉ có một thứ là ham học, ham
làm, ham tiến bộ. Hành vi trái với liêm là: cậy quyền thế mà đục khoét, ăn của dân, hoặc
trộm của công làm của riêng. Dìm người giỏi, để giữ địa vị và danh tiếng của mình là trộm vị.
Gặp việc phải, mà sợ khó nhọc nguy hiểm, không dám làm là tham úy lạo. Cụ không nói: người
mà không liêm, không bằng súc vất. Cụ mạnh nói: ai cũng tham lợi thì nước sẽ nguy.
Chính là thẳng thắng, đứng đắn. Đối với mình, với người, với việc.
Đối với mình, không tự cao, tự đại, luôn chịu khó học tập cầu tiến bộ, luôn kiểm điểm mình để
phát huy điều hay, sửa đổi điều dở.
Đối với người, không nịnh hót người trên, xem khinh người dưới; luôn giữ thái độ chân thành,
khiêm tốn, đ/kết, không dối trá, lừa lọc.
Đối với việc, để công việc lên trên việc tư, làm việc gì cho đến noiư, đến chốn, không ngại khó,
nguy hiểm, cố gắng làm việc tốt cho dân cho nước.
Chí công vô tư, làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước, khi hưởng thụ thì nên đi
sau. "Phải lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ". Tính tốt có thể gồm 5 điều: nhân, nghĩa, trí
dũng, liêm. Bồi dưỡng phẩm chất đạo đức cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là để vững
vàng qua mọi thử thách: "Giàu sang không quyến rũ, nghèo khó không thể lay chuyển, uy vũ
không thể khuất phục".
+ Tinh thần quốc tế trong sáng.
Đó là tinh thần quốc tế vô sản, bốn phương vô sản đều là anh em. Đó là tinh thần đoàn kết với
các dt bị áp bức, với nhân dân lao động các nước. Đó là tinh thần đoàn kết của nhân dân VN
với tất cả những người tiến bộ trên TG vì hòa bình, công lý và tiến bộ xh. Sự đoàn kết là nhằm
vào mục tiêu lớn của thời đại hòa bình, độc lập dt, dân chủ và tiến bộ xh.
3- Những nguyên tắc xh đạo đực mới:
+ Nói đi đôi với làm. Nói và làm luôn đi đôi với nhau đem lại hiệu quả thiết thực cho chính
mình và cho người khác. Nói mà không làm gọi là đạo đức giả. Từ đó Bác trong giáo dục đạo
đức vấn đề nêu gương được đặt ra. "Trước mắt quần chúng không phải ta cứ viết lên trán chữ
"cộng sản" mà tà được họ yêu mến. Quần chúng chỉ yêu mến những người có tư cách đạo đức".
+ Xây đi đôi với chống. Xây dựng đạo đức mới trước hết phải giáo dục những phẩm chất,
những chuẩn mực đạo đức từ gia đình, nhà trường, xh. Phải khơi dậy ý thức đạo đức lành
mạnh ở mọi người. Bên cạnh đó, phải không ngừng chống lại những cái xấu, cái sai, vô đạo
đức. Để xây và chống có kết quả phải tạo thành phong trào rộng rãi, phải chống lại chủ nghĩa
cá nhân.
+ Phải tu dưỡng đạo đức suốt đời. Mỗi người phải thường xuyên chăm lo tu dưỡng đạo đức đó
là công việc kiên trì bền bỉ, không thể chủ quan tự mãn. "Một dt, một đảng và mỗi con người,
ngày hôm qua là vĩ đãi, có sức hấp dẫn lớn, không nhất thiết hôm nay và ngày mai vẫn được
mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá
nhân". Mỗi người ai cũng có điều tốt và dở, thiện và ác. Phải đánh thức những gì tốt đẹp trong
mỗi con người. Việc tu dưỡng đạo đức phải thực hiện trong thực tiễn hoạt động hằng ngày,
trong lao động sx, chiến đấu, sinh hoạt và thể hiện trong mối quan hệ hàng ngày.
Nâng cao đạo đức cách mạng, nhiệm vụ hàng đầu của công tác xây dựng Đảng hiện nay
25