BÁO CÁO TỐT NGHIỆP
Báo cáo
"Thực trạng và giải pháp nhằm thu hút và sử
dụng vốn đầu tư có hiệu quả tại Hà Tĩnh"
MỤC LỤC
CH NG 1ƯƠ 4
- Th hai u t có tác ng hai m t n s n nh kinh t :ứ đầ ư độ ặ đế ựổ đị ế 5
2. Phân lo i NV Tạ Đ 6
3. B n ch t c a ngu n v n u tả ấ ủ ồ ố đầ ư 11
Danh m cụ 25
1.2.Tình hình huy ng v n phân theo ng nhđộ ố à 27
Ng nhà 33
S l ngố ượ 33
I. Công nghi pệ 33
II. Nông nghi pệ 33
III. Giao thông v n t iậ ả 33
IV. Y t xã h iế ộ 33
V. Giáo d c o t oụ đà ạ 34
VI. Qu n lý nh n cả à ướ 34
Bi u: C c u kinh t H T nh t 1991 - 2003ể ơ ấ ế à ĩ ừ 35
LỜI NÓI ĐẦU
Đầu tư phát triển là một hoạt động kinh tế có vai trò rất quan trọng
trong quá trình phát triển kinh tế xã hội.Nó là động lực của tăng trưởng kinh
tế,phát triển kinh tế xã hội và tạo ra các tác động có lợi cho chính trị xã
hội.Một nền kinh tế sẽ không thể tồn tại và phát triển nếu thiếu hoạt động đầu
tư.
Hà Tĩnh là một tỉnh mới được thành lập ngày (1/1/1991), ngay sau khi
thành lập nền kinh tế tỉnh nhà gặp muôn vàn khó khăn nhưng được sự quan
tâm của nhà nước và sự nổ lực của cán bộ lãnh đạo và sự phấn đấu nỗ lực của
nhân dân trong tỉnh Hà Tĩnh đã bước đầu tạo ra một viễn cảnh thuận lợi cho
sự phát triển kinh tế xã hội.Hoạt động đầu tư tại Hà Tĩnh dù mới chỉ được bắt
đầu nhưng đã tạo ra tiền đề cho một tương lai tốt đẹp,một viễn cảnh tươI
sáng cho sự nghiệp phát triển kinh tế của tỉnh nhà.Tuy vậy bên cạnh những
thành tựu đáng ghi nhận thì vẫn còn không ít những hạn chế,tiêu cực.Việc
nghiên cứu để bổ khuyết những kinh nghiệm cũng như có thể nâng cao được
hiệu quả đầu tư trong thời gian tới là rất cần thiết. Mặt khác, để tích luỹ thêm lý
luận cũng như khả năng nắm bắt thực tiễn về tình hình đầu tư của tỉnh Hà Tĩnh
vì thế em quyết định chọn đề tài "Thực trạng và giải pháp nhằm thu hút
và sử dụng vốn đầu tư có hiệu quả tại Hà Tĩnh ".
Bố cục đề tài của em bao gồm:
Chương 1: Một số lý luận chung về đầu tư và nguồn vốn đầu tư.
Chương 2: Thực trạng việc huy động và sử dụng nguồn vốn đầu tư
trong thời gian qua.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm huy động và sử dụng có hiệu quả các
nguồn vốn đầu tư trong thời gian tới.
Mặc dù đã rất cố gắng nhưng do trình độ lý luận cũng như khă năng
nắm bắt thực tiễn còn nhiều hạn chế nên đề tài của em chắc sẽ còn nhiều thiếu
sót, em mong nhận được sự đóng góp, chỉ bảo của các thầy cô trong bộ môn
kinh tế đầu tư.
Qua đây em cũng xin cảm ơn các thầy, cô giáo bộ môn và đặc biệt là
cô giáo Phạm Thị Thêu đã nhiệt tình hướng dẫn em thực hiện đề tài này.
CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ ĐẦU TƯ VÀ NGUỒN VỐN ĐẦU TƯ
1.1. Một số lý luận chung về đầu tư và đầu tư phát triển:
1.1.1. Khái niệm và phân loại đầu tư:
Đầu tư là "sự bỏ ra, sự hy sinh" các nguồn lực ở hiện tại nhằm đạt
được những kết quả có lợi hơn cho người đầu tư trong tương lai. Hay nói cách
khác, đầu tư là sự hy sinh những lợi ích hiện tại để nhằm thu về lợi ích lớn
hơn trong tương lai.
Nguồn lực ở hiện tại có thể là tiền, là tài nguyên thiên nhiên,là sức lao
động và trí tuệ. Những kết quả đạt được có thể là tài sản tài chính, tài sản vật
chất, tài sản trí tuệ và nguồn nhân lực có đủ đIều kiện để làm việc với năng
suất cao hơn trong nền sản xuất xã hội.
Trong các kết quả đã đạt được trên đây,những kết quả là tàI sản vật
chất, tài sản trí tuệ là nguồn nhân lực tăng thêm có vai trò quan trọng trong
mọi lúc mọi nơi, không chỉ đối với người bỏ vốn mà còn đối với cả nền kinh
tế.
Chúng ta có thể chia đầu tư thành 3 loại chủ yếu sau:
- Đầu tư tài chính: Là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra cho
vay hoặc mua chứng chỉ có giá để hưởng lãi suất định trước hoặc lãi suất phụ
thuộc vào kết quả sản xuất kinh doanh của công ty phát hành.
- Đầu tư thương mại: Là loại đầu tư mà người có tiền bỏ tiền ra mua
hàng hoá và sau đó bán với giá cao hơn nhằm thu lợi nhuận do chênh lệch giá
khi mua và khi bán. Hai loại đầu tư này không tạo ra tài sản mới cho nền kinh
tế, mà chỉ làm tăng tài sản tài chính của người đầu tư. Tuy nhiên, chúng đều
có tác dụng thúc đẩy đầu tư phát triển.
- Đầu tư phát triển: Là hoạt động đầu tư mà trong đó người có tiền bỏ
tiền ra để tiến hành các hoạt động nhằm tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế,
làm tăng tiềm lực sản xuất kinh doanh và các hoạt động xã hội khác, là điều
kiện chủ yếu để tạo việc làm, nâng cao đời sống của mọi người dân trong xã
hội. Đó chính là việc bỏ tiền ra để xây dựng các công trình hạ tầng kinh tế -
xã hội, mua sắm trang thiết bị, bồi dưỡng và đào tạo nguồn nhân lực, thực
hiện các chi phí thường xuyên gắn liền với sự hoạt động của các tài sản này
nhằm duy trì tiềm lực hoạt động của các cơ sở đang tồn tại và tạo tiềm lực
mới cho nền kinh tế xã hội.
Nhìn chung đề tài chủ yếu nghiên cứu về đầu tư phát triển - loại hình
đầu tư gắn trực tiếp với sự tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
1.1.2.Đầu tư phát triển và vai trò đối với nền kinh tế:
Như chúng ta đã biết, đầu tư phát triển chính là hoạt động đầu tư tài sản
vật chất và sức lao động chính vì thế nó là nhân tố quan trọng để phát triển và
tăng trưởng kinh tế. Vai trò của nó trong nền kinh tế được thể hiện ở các mặt
sau :
- Thứ nhất đầu tư vừa tác động đến tổng cung vừa tac động đến tổng
cầu:
Về tổng cầu: Đầu tư là yếu tố chiếm tỷ trọng lớn trong tổng cầu của
toàn bộ nền kinh tế quốc dân, thường từ 24%-28%. Khi mà tổng cung chưa
thay đổi, sự tăng lên của đầu tư làm cho tổng cầu tăng kéo sản lượng cân bằng
tăng theo và giá cân bằng tăng.
Về tổng cung: Đầu tư làm tăng năng lực sản xuất làm tổng cung tăng
và sản lượng tăng, giá giảm xuống, cho phép tiêu dùng tăng. Tăng tiêu dùng
lại tiếp tục kích thích sản xuất phát triển và nó là nguồn gốc cơ bản để tăng
tích luỹ, phát triển kinh tế - xã hội, tăng thu nhập cho người lao động, nâng
cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội.
- Thứ hai đầu tư có tác động hai mặt đến sự ổn định kinh tế :
Sự tác động không đồng thời về mặt thời gian của đầu tư tới tổng cung
và tổng cầu của nền kinh tế làm cho mỗi sư thay đổi của đầu tư dù tăng hay
giảm đều cùng một lúc là yếu tố duy trì sư ổn định vừa là yếu tố phá vỡ sự ổn
định của nền kinh tế của mọi quốc gia .
- Thứ ba đầu tư có tác ộng làm tăng cường khả năng khoa học và công
nghệ của đất nước:
Mọi con đường để có công nghệ dù là sự nghiên cứu hay nhập từ nước
ngoài đều cần phải có tiền, cần phải có vốn đầu tư , Do vậy tất cả các con
đường đổi mới công nghệ đều phải gắn với nguồn vốn đầu tư.
- Thứ tư đầu tư có vai trò quan trọng trong việc chuyển dịch cơ cấu
kinh tế:
Con đường tát yếu để có thể tăng trưởng nhanh với tốc độ mong muốn
là tăng cường đầu tư. Do đó đầu tư quyết định quá trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế ở các quốc gia nhằm đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh của toàn bộ
nền kinh tế và sư cân đối giữa các vùng, các ngành .
- Thứ sáu đầu tư có tác động đến tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh
tế.
Vì: Mức tăng GDP = Vốn đầu tư / ICOR
Do đó nếu hệ số ICOR không đổi thì mức tăng GDP hoàn toàn phụ
thuộc vào vốn đầu tư cho nên đầu tư có ảnh hưởng rất quan trọng đến tốc độ
tăng trưởng và phát triển kinh tế .
Như vậy từ các nhận xét trên đây ta có thể thấy được vai trò rất quan
trọng của đầu tư tới tăng trưởng và phát triển kinh tế, nó là nhân tố không thể
thiếu cho bất kì quốc gia nào trong quá trình phát triển.
2. Phân loại NVĐT
2.1 Nguồn vốn trong nước
Nguồn vốn nhà nước.
Nguồn vốn đầu tư nhà nước bao gồm nguồn vốn của ngân sách nhà
nước, nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước và nguồn vốn đầu tư
phát triển của doanh nghiệp nhà nước.
Đối với nguồn vốn ngân sách nhà nước: Đây chính là nguồn chi của
ngân sách Nhà nước cho đầu tư. Đó là một nguồn vốn đầu tư quan trọng trong
chiến lựơc phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Nguồn vốn này
thường được sử dụng cho các dự án kết cấu kinh tế - xã hội, quốc phòng, an
ninh, hỗ trợ cho các dự án của doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực cần sự tham
gia của Nhà nước, chi cho các công tác lập và thực hiện các quy hoạch tổng
thể phát triển kinh tế - xã hội vùng, lãnh thổ, quy hoạch xây dựng đô thị và
nông thôn.
Vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước: Cùng với quá trình đổi
mới và mở cửa, tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước ngày càng đóng vai
trò đáng kể trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Nguồn vốn tín dụng
đầu tư phát triển của Nhà nước có tác dụng tích cực trong việc giảm đáng kể
việc bao cấp vốn trực tiếp của Nhà nước. Với cơ chế tín dụng, các đợn vị sử
dụng nguồn vốn này phải đảm bảo nguyên tắc hoàn trả vốn vay. Chủ đàu tư là
người vay vốn phải tính kỹ hiệu quả đầu tư, sử dụng vốn tiết kiệm hơn. Vốn
tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước là một hình thức quá độ chuyển từ
hình thức cấp phát ngân sách sang phương thức tín dụng đối với các dự án có
khả năng thu hồi vốn trực tiếp.
Nguồn vốn đầu tư từ doanh nghiệp Nhà nước: Được xác định là thành
phần chủ đạo trong nền kinh tế, các doanh nghiệp Nhà nước vẫn nắm giữ một
khối lượng vốn khá lớn. Mặc dù vẫn còn một số hạn chế nhưng đánh giá một
cách công bằng thì khu vực thì khu vực kinh tế Nhà nước với sự tham gia của
các doanh nghiệp Nhà nước vẫn đóng một vai trò chủ đạo trong nền kinh tế
nhiều thành phần.Với chủ trương tiếp tục đổi mới doanh nghiệp Nhà nước,
hiệu quả hoạt động của khu vực kinh tế này ngày càng được khẳng định, tích
luỹ của các doanh nghiệp Nhà nước ngày càng gia tăng và đóng góp đáng kể
vào tổng quy mô vốn đầu tư của toàn xã hội.
Nguồn vốn từ khu vực tư nhân.
Nguồn vốn từ khu vực tư nhân bao gồm phần tiết kiệm của dân cư,
phần tích luỹ của các doanh nghiệp dân doanh, các hợp tác xã. Theo đánh giá
sơ bộ, khu vực kinh tế ngoài Nhà nước vẫn sở hữu một lượng vốn tiềm năng
rất lớn mà cuă được huy động triệt để.
Cùng với sự phát triển kinh tế của đất nước, một bộ phận không nhỏ
trong dân cư có tiềm năng về vốn do có nguồn thu nhập gia tăng hay do tích
luỹ tryuền thống. Nhìn tổng quan nguồn vốn tiềm năng trong dân cư không
phải là nhỏ, tồn tại dưới dạng vàng, ngoại tệ, tiền mặt … nguồn vốn này xấp
xỉ bằng 80% tổng nguồn vốn huy động của toàn bộ hệ thống ngân hàng. Vốn
của dân cư phụ thuộc vào thu nhập và chi tiêu của các hộ gia đình. Quy mô
của các nguồn tiết kiệm này phụ thuộc vào:
Trình độ phát triển của đất nước (ở những nước có trình độ
phát triển thấp thường có quy mô và tỷ lệ tiết kiệm thấp).
Tập quán tiêu dùng của dân cư.
Chính sách động viên của Nhà nước thông qua chính sách
thuế thu nhập và các khoản đóng góp với xã hội.
Thị trường vốn.
Thị trường vốn có ý nghĩa quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế
của các nước có nền kinh tế thị trường. Nó là kênh bổ sung các nguồn vốn
trung và dài hạn cho các chủ đầu tư - bao gồm cả Nhà nước và các loại hình
doanh nghiệp. Thị trường vốn mà cốt lõi là thị trường chứng khoán như một
trung tâm thu gom mọi nguồn vốn tiết kiệm của từng hộ dân cư, thu hút mọi
nguồn vốn nhàn rỗi của các doanh nghiệp, các tổ chức tài chính, chính phủ
trung ương và chính quyền địa phương tạo thành một nguồn vốn khổng lồ cho
nền kinh tế. Đây được coi là một lợi thế mà không một phương thức huy động
nào có thể làm được.
2.2 Nguồn vốn nước ngoài.
Có thể xem xét nguồn vốn đầu tư nuớc ngoài trên phạm vi rộng hơn đó
là dòng lưu chuyển vốn quốc tế (international capital flows). Về thực chất, các
dòng lưu chuyển vốn quốc tế là biểu thị quá trình chuyển giao nguồn lực tài
chính giữa các quốc gia trên thế giới. Trong các dòng lưu chuyển vốn quốc tế,
dòng từ các nước phát triển đổ vào các nước đang phát triển thường được các
nước thế giới thứ ba đặc biệt quan tâm. Dòng vốn này diễn ra với nhiều hình
thức. Mỗi hình thức có đặc điểm, mục tiêu và điều kiện thực hiện riêng,
không hoàn toàn giống nhau. Theo tính chất lưu chuyển vốn, có thể phân loại
các nguồn vốn nước ngoài chính như sau:
- Tài trợ phát triển vốn chính thức (ODF - official development
finance). Nguồn này bao gồm: Viện trợ phát triển chính thức (ODA -offical
development assistance) và các hình thức viện trợ khác. Trong đó, ODA
chiếm tỷ trọng chủ yếu trong nguồn ODF;
- Nguồn tín dụng từ các ngân hàng thương mại;
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài;
- Nguồn huy động qua thị trường vốn quốc tế.
Nguồn vốn ODA.
Đây là nguồn vốn phát triển do các tổ chức quốc tế và các chính phủ
nước ngoài cung cấp với mục tiêu trợ giúp các nước đang phát triển. So với
các hình thức tài trợ khác, ODA mang tính ưu đãi cao hơn bất cứ nguồn vốn
ODF nào khác. Ngoài các điều kiện ưu đãi về lãi suất, thời hạn cho vay tương
đối lớn, bao giờ trong ODA cũng có yếu tố không hoàn lại (còn gọi là thành
tố hỗ trợ) đạt ít nhất 25%.
Mặc dù có tính ưu đãi cao, song sự ưu đãi cho loại vốn này thường di
kèm các điều kiện và ràng buộc tương đối khắt khe (tính hiệu quả của dự án,
thủ tục chuyển giao vốn và thị trường…). Vì vậy, để nhận được loại tài trợ
hấp dẫn này với thiệt thòi ít nhất, cần phải xem xét dự án trong điều kiện tài
chính tổng thể. Nếu không việc tiếp nhận viện trợ có thể trở thành gánh nặng
nợ nần lâu dài cho nền kinh tế. Điều này có hàm ý rằng, ngoài những yếu tố
thuộc về nội dung dự án tài trợ, còn cần có nghệ thuật thoả thuận để vừa có
thể nhận vốn, vừa bảo tồn được những mục tiêu có tính nguyên tắc.
Nguồn vốn tín dụng từ các ngân hàng thương mại.
Điều kiện ưu đẫi dành cho loại vốn này không dễ dàng như đối với
nguồn vốn ODA. Tuy nhiên, bù lại nó có ưu điểm rõ ràng là không có gắn với
các ràng buộc về chính trị, xã hội. Mặc dù vậy, thủ tục vay đối với nguồn vốn
này thường là tương đối khắt khe, thời gian trả nợ nghiêm ngặt, mức lãi suất
cao là những trở ngại không nhỏ đối với các nước nghèo.
Do được đánh giá là mức lãi suất tương đối cao cũng như sự thận trọng
trong kinh doanh ngân hàng (tính rủi ro ở nước đi vay, của thị trường thế giới
và xu hướng lãi suất quốc tế), nguồn vốn tín dụng của các ngân hàng thương
mại thường được sử dụng chủ yếu để đáp ứng nhu cầu xuất khẩu và thường là
ngắn hạn. Một bộ phận của nguồn vốn này có thể được dùng để đầu tư phát
triển. Tỷ trọng của nó có thể gia tăng nếu triển vọng tăng trưởng của nền kinh
tế là lâu dài, đặc biệt là tăng trưởng xuất khẩu của nước đi vay là sáng sủa.
Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
Nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài có đặc điểm cơ bản khác nguồn vốn
nước ngoài khác là việc tiếp nhận nguồn vốn này không phát sinh nợ cho
nước tiếp nhận. Thay vì nhận lãi suất trên vốn đầu tư, nhà đầu tư sẽ nhận
được phần lợi nhuận thích đáng khi dự án đầu tư hoạt động có hiệu quả. Đầu
tư trực tiếp nước ngoài mang theo toàn bộ tài nguyên kinh doanh vào nước
nhận vốn nên có thể thúc đẩy phát triển ngành nghề mới, đặc biệt là những
ngành đòi hỏi cao về trình độ kỹ thuật, công nghệ hay cần nhiều vốn. Vì thế
nguồn vốn này có tác dụng cực kỳ to lớn đối với quá trình công nghiệp hoá,
chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tốc độ tăng trưởng nhanh ở các nước nhận đầu
tư .
Thị trường vốn quốc tế.
Với xu hướng toàn cầu hoá, mối liên kết ngày càng tăng của các thị
trường vốn quốc gia vào hệ thống tài chính quốc tế đã tạo nên vẻ đa dạng vế
các nguồn vốn cho mỗi quốc gia và làm tăng khối lượng vốn lưu chuyển trên
phạm vi toàn cầu. Ngay tại nhiều nước đang phát triển, dòng vốn đầu tư qua
thị trường chứng khoán cũng gia tăng mạnh mẽ. Mặc dù vào nửa cuối những
năm 1990, có sự xuất hiện của một số cuộc khủng hoảng tài chính nhưng đến
cuối năm 1999 khối lượng giao dịch chứng khoán tại các thị trường mới nổi
vẫn đáng kể. Riêng năm 1999, dòng vốn đầu tư dưới dạng cổ phiếu vào Châu
Á đã tăng gấp 3 lần năm 1998, đạt 15 tỷ USD.
3. Bản chất của nguồn vốn đầu tư
Xét về bản chất, nguồn hình thành vốn đầu tư chính là phần tiết kiệm
hay tích luỹ mà nền kinh tế có thể huy động được để đưa vào quá trình tái sản
xuất xã hội. Điều này được cả kinh tế học cổ điển, kinh tế chính trị học Mác -
Lênin và kinh tế học hiện đại chứng minh.
Trong tác phẩm “Của cải của dân tộc” (1776), Adam Smith, một đại
diện điển hình của trường phái kinh tế học cổ điển đã cho rằng: “Tiết kiệm là
nguyên nhân trực tiếp gia tăng vốn. Lao động tạo ra sản phẩm để tích luỹ
cho quá trình tiết kiệm. Nhưng dù có tạo ra bao nhiêu chăng nữa, nhưng
không có tiết kiệm thì vốn không bao giờ tăng lên”.
Sang thế kỷ XIX, khi nghiên cứu về cân đối kinh tế, về các mối quan
hệ giữa các khu vực của nền sản xuất xã hội, về các vấn đề trực tiếp liên quan
đến tích luỹ, C. Mác đã chứng minh rằng: Trong một nền kinh tế hai khu vực,
khu vực I sản xuất tư liệu sản xuất và khu vực II sản xuất tư liệu tiêu dùng.
Cơ cấu tổng giá trị của từng khu vực đều bao gồm (c + v + m) trong đó c là
phần tiêu hao vật chất, (v + m) là phần giá trị mới tạo ra. Khi đó, điều kiện để
đảm bảo tái sản xuất mở rộng không ngừng thì nền sản xuất xã hội phải đảm
bảo (v + m) của khu vực I lớn hơn tiêu hao vật chất (c) của khu vực II. Tức là:
(v + m)I > cII
Hay nói cách khác:
(c + v + m)I > cII + cI
Điều này có nghĩa rằng, tư liệu sản xuất được tạo ra ở khu vực I không
chỉ bồi hoàn tiêu hao vật chất của toàn bộ nền kinh tế (của cả hai khu vực) mà
còn phải dư thừa để đầu tư làm tăng quy mô tư liệu sản xuất trong quá trình
sản xuất tiếp theo.
Đối với khu vực II, yêu cầu phải đảm bảo:
(c+v+m)II < (v+m)I + (v+m)2
Có nghĩa là toàn bộ giá trị mới của cả hai khu vực phải lớn hơn giá trị
sản phẩm sản xuất ra của khu vực II. Chỉ khi điều kiện này được thoả mãn,
nền kinh tế mới có thể dành một phần để tái sản xuất mở rộng. Từ đó quy mô
vốn đầu tư cũng sẽ gia tăng.
Như vậy để đảm bảo gia tăng nguồn lực cho sản xuất, gia tăng quy mô
đầu tư, một mặt phải tăng cường sản xuất tư liệu sản xuất ở khu vực I, đồng
thời phải sử dụng tiết kiệm tư liệu sản xuất ở cả hai khu vực. Mặt khác phải
tăng cường sản xuất tư liệu tiêu dùng ở khu vực II, thực hành tiết kiệm tư liệu
tiêu dùng ở cả hai khu vực.
Với phân tích như trên, chúng ta thấy rằng theo quan điểm của C.Mác,
con đường cơ bản và quan trọng về lâu dài để tái sản xuất mở rộng là phát
triển sản xuất và thực hành tiết kiệm cả ở trong sản xuất và tiêu dùng. Hay nói
cách khác, nguồn lực cho đầu tư tái sản xuất mở rộng chỉ có thể được đáp ứng
do sự gia tăng sản xuất và tích luỹ của nền kinh tế.
Quan điểm về bản chất của nguồn vốn đầu tư lại tiếp tục được các nhà
kinh tế học hiện đại chứng minh. Trong tác phẩm nổi tiếng “Lý thuyết tổng
quan về việc làm, lãi suất và tiền tệ” của mình, Jonh Maynard Keynes đã
chứng minh được rằng: Đầu tư chính bằng phần thu nhập mà không được
chuyển vào tiêu dùng. Đồng thời ông cũng chỉ ra rằng, tiết kiệm chính là phần
dôi ra của thu nhập so với tiêu dùng.
Tức là:
Thu nhập = Tiêu dùng + Đầu tư
Tiết kiệm = Thu nhập – Tiêu dùng
Như vậy:
Đầu tư = Tiết kiệm
(I) (S)
Theo Keynes, sự cân bằng giữa tiết kiệm và đầu tư xuất phát từ tính
song phương của các giao dịch giữa một bên là nhà sản xuất và bên kia là
người tiêu dùng. Thu nhập chính là mức chênh lệch giữa doanh thu từ bán
hàng hoá hoặc cung ứng dịch vụ và tổng chi phí. Nhưng toàn bộ sản phẩm sản
xuất ra phải được bán cho người tiêu dùng hoặc cho các nhà sản xuất khác.
Mặt khác đầu tư hiện hành chính bằng phần tăng thêm năng lực sản xuất mới
trong kỳ. Vì vậy, xét về tổng thể phần dôi ra của thu nhập so với tiêu dùng mà
người ta gọi là tiết kiệm không thể khác vơí phần gia tăng năng lực sản xuất
mà người ta gọi là đầu tư.
Tuy nhiên, điều kiện cân bằng trên chỉ đạt được trong nền kinh tế đóng.
Trong đó, phần tiết kiệm của nền kinh tế bao gồm tiết kiệm của khu vực tư
nhân và tiết kiệm của chính phủ. Điểm cần lưu ý là tiết kiệm và đầu tư xem
xét trên góc độ toàn bộ nền kinh tế không nhất thiết được tiến hành bởi cùng
một cá nhân hay doanh nghiệp nào. Có thể có cá nhân, doanh nghiệp tại một
thời điểm nào đó có tích luỹ nhưng không trực tiếp tham gia đầu tư. Trong khi
đó, có một số cá nhân, doanh nghiệp lại thực hiện đầu tư khi chưa hoặc tích
luỹ chưa đầy đủ. Khi đó thị trường vốn sẽ tham gia giải quyết vấn đề bằng
việc điều tiết nguồn vốn từ nguồn dư thừa hoặc tạm thời dư thừa sang cho
người có nhu cầu sử dụng. Ví dụ, nhà đầu tư có thể phát hành cổ phiếu, trái
phiếu (trên cơ sở một số điều kiện nhất định, theo quy trình nhất định) để huy
động vốn thực hiện một dự án nào đó từ các doanh nghiệp và các hộ gia đình
- người có vốn dư thừa.
Trong nền kinh tế mở, đẳng thức đầu tư bằng tiết kiệm của nền kinh tế
không phải bao giờ cũng được thiết lập. Phần tích luỹ của nền kinh tế có thể
lớn hơn nhu cầu đầu tư tại nước sở tại, khi đó vốn có thể được chuyển sang
cho nước khác để thực hiện đầu tư. Ngược lại, vốn tích luỹ của nền kinh tế có
thể nhỏ hơn nhu cầu đầu tư, khi đó nền kinh tế phải huy động tiết kiệm từ
nước ngoài. Trong trường hợp này, mức chênh lệch giữa tiết kiệm và đầu tư
được thể hiện trên tài khoản vãng lai.
CA = S – I
Trong đó: CA là tài khoản vãng lai (current account)
Như vậy, trong nền kinh tế mở nếu như nhu cầu đầu tư lớn hơn tích luỹ
nội bộ nền kinh tế và tài khoản vãng lai bị thâm hụt thì có thể huy động vốn
đầu tư từ nước ngoài. Khi đó đầu tư nước ngoài hoặc vay nợ có thể trở thành
một trong những nguồn vốn đầu tư quan trọng của nền kinh tế. Nếu tích luỹ
của nền kinh tế lớn hơn nhu cầu đầu tư trong nước trong điều kiện thặng dư
tài khoản vãng lai thì quốc gia đó có thể đầu tư vốn ra nước ngoài hoặc cho
nước ngoài vay vốn nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của nền kinh tế.
II. Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư
2.1. Khái niệm hiệu quả
Hiệu quả đầu tư là phạm trù kinh tế biểu hiện quan hệ so sánh giữa cá
kết quả kinh tế xã hội đạt được của hoạt động đầu tư với các chi phí bỏ ra để
có các kết quả đó trong một thừi kỳ nhất định. Trên giác độ nền kinh tế quốc
dân, hiệu quả của đầu tư được thể hiện tổng hợp ở mức độ thoả mãn của đầu
tư đốivới nhu cầu phát triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần
cho người lao động.
2.2. Phân loại hiệu quả đầu tư
Để đáp ứng yêu cầu của công tác quản lý và nghiên cứu kinh tế, các
nhà kinh tế đã phân hiệu quả đầu tư theo các tiêu thức sau đây
- Theo lĩnh vực hoạt động của xã hội có hiệu quả kinh tế kỹ thuật, hiệu
quả xã hội, hiệu quả quốc phòng.
- Theo phạm vi tác dụng của hiệu quả, có hiệu quả đầu tư theo tổ dự án,
trong ngành, trong lĩnh vực và toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
- Theo phạm vi lợi ích có hiệu quả tàI chính và hiệu quả kinh tế xã hội.
Hiệu quả tài chính hay còn gọi là hiệu quả hạch toán kinh tế là hiệu quả kinh
tế được xem xét trong phạm vi của một doanh nghiệp. Hiệu quả kinh tế xã hội
của hoạt động đầu tư là hiệu qủa được xem xét trên phạm vi toàn bộ nền kinh
tế.
Theo mức độ phát sinh trực tiếp hay gián tiếp có hiệu quả trực tiếp hay
gián tiếp
Theo cách tính toán, có hiệu quả tuyệt đối hay tương đối
2.3. Một số chỉ tiêu phân tích hiệu quả của hoạt động đầu tư
- Chỉ tiêu đánh giá tiềm lực tài chính của doanh nghiệp
Hệ số vốn tự có so với vốn đi vay.Hệ số này phải >1.Đối với dự ấn có
triển vọng, hiệu quả thu được là rõ ràng thì hệ số này có thể < 1, vào khoảng
2/3 thì dự án thuận lợi .
Tỷ trọng vốn trong tổng vốn đầu tư phải >50%. Đối với các dự án triển
vọng, hiệu quả rõ ràng thì tỷ trọng này có thể là 40% thì dự án thuận lợi.
Tỷ lệ giữa tài sản lưu động so với nợ ngắn hạn phải >1và được xem xét
cụ thể cho tong ngành nghề kinh doanh.
Tỷ lệ giữa tài sản lưu động và nợ bằng 2/1 hoặc 4/1 thì dự án thuận lợi
Tỷ lệ giữa tổng thu từ lợi nhuận thuần từ khấu hao so với nợ đến hạn
phải trả phải >1.
Trong 5 chỉ tiêu trên thì chỉ tiâu thứ tư chỉ áp dụng cho các dự án của
các doanh nghiệp đang hoạt động, 4 chỉ tiêu còn lại áp dụng cho mọi dự án.
Hai chỉ tiêu đầu nói lên tiềm lực tài chính đảm bảo cho mọi dự án thực hiện
được thuận lợi, 3 chỉ tiêu sau nói lên khả năng đảm bảo thanh toán các nghĩa
vụ tài chính của dự án .
Các chỉ tiêu phân tích tài chính
Gía trị hiện tại của thu nhập thuần (NPV-Net present Value)
Thu nhập còn lại sau khi đã trừ đi chi phí gọi là thu nhập thuần .Gía trị
hiện tại của thu nhập thuần còn được gọi là NPV. Đây là chỉ tiêu tuyệt đối
dùng để đánh giá hiệu quả tài chính của dự án trên cơ sở cân đối thu chi hàng
năm và theo một tỷ lệ chiết khấu đã chọn
Mục tiêu của việc tính NPV là để xem xét việc sử dụng các nguồn lực
của dự án có mang lại lợi ích lớn hơn nguồn lực đã sử dụng hay không. Với ý
nghĩa này, NPV được coi là tiêu chuẩn quan trọng đẻ đánh giá dự án, NPV
được tính theo công thức sau:
NPV =
∑ ∑
= =
+
+
+
−
+
n
i
n
i
nn
i
i
i
r
SV
r
C
r
B
0 0
)1()1()1(
Bi:Thu nhập của dự án đầu tư năm thứ i.
Ci:Chi phí của dự án năm thứ i
r: Tỷ suất chiết khấu được chọn
n: đời hoạt động của dự án.
SV: Gía trị còn lại của dự án sau khi kết thúc hoạt động.
Dự án có thể chấp nhận (đáng giá khi NPV > 0).
- Chỉ tiêu thu hồi vốn đầu tư
Đó là số thời gian cần thiết để dự án hoạt động thu hồi đủ số vốn đầu tư
đã bỏ ra bằng các khoản lựi nhuận thuần hoặc tổng lựi nhuận thuần và khấu
hao thu hồi hàng năm. Có thể tính chỉ tiêu này từ lợi nhuận( W) và khấu
hao(D) như sau:
W+D
iPV
≥ I
0
hoặc I
Vot
- (W + D) ≤ 0
Trong phân tích tài chính, thời gian thu hồi vốn là chỉ tiêu quan trọng để
đánh giá tính khả thi của dự án.
- Chỉ tiêu hệ số hoàn vốn nội bộ(IRR-Internal Rate of Return)
Chỉ tiêu này còn được gọi là suet thu nội tại, tỷ suất nội hoàn, suất thu
hồi nội bộ. Đó là mức lãi suất nếu định nó làm hệ số chiết khấu để tính
chuyển các khoản thu, chi của dự án về mặt bằng thời gian hiện tại thì tổng
thu sẽ cân bằng với tổng chi, tức là
∑ ∑
= =
+
=
+
n
i
n
i
i
i
i
i
IRR
C
IRR
B
0 0
)1(
1
)1(
1
Có thể xác định IRR theo công thức tổng quát sau:
IRR = r
1
+ (r
2
- r
1
)
Trong đó :r2>r1 và r2-r1 ≤ 5%
- Chỉ tiêu sinh lời của vốn đầu tư (Còn gọi là hệ số thu hồi của vốn đầu
tư). Chỉ tiêu này phản ánh mức lợi nhuận thuần thu được từ một đơn vị vốn
đầu tư được thực hiện,ký hiệu là RR, công thức tính chỉ tiêu này có dạng sau:
Nếu tính chi trong năm hoạt động ,thì:
Rri=Wipv/Ivo
Trong đó: Wipv-Lợi nhuận thuần thu được năm I tính theo mặt bằng
giá trị khi các kết quả đầu tư bắt đầu phát huy tác dụng.
Ivo - Tổng số vốn đầu tư thực hiện tính đến thời đIểm các kết quả đầu
tư của dự án bắt đầu phát huy tác dụng.
Nếu tính cho toàn bộ công cuộc đầu tư của dự án thì chỉ tiêu mức thu
nhập thuần toàn bộ công cuộc đầu tư tính cho 1000đ hay 1000000đ vốn đầu
tư được tính như sau:
RRi=Wipv/Ivo.
Trong đó:
Wipv - Lợi nhuận thuần thu được năm I tính theo mặt bằng giá trị khi
các kết quả đầu tư bắt đầu phát huy tác dụng.
Ivo - Tổng số vốn đầu tư thực hiện tính đến thời điểm các kết quả đầu
tư của dự án bắt đầu phát huy tác dụng.
Nếu tính cho toàn bộ công cuộc đầu tư của dự án thì chỉ tiêu mức thu
nhập thuần của toàn bộ công cuộc đầu tư tính cho 1000đ hoặc 1 triệu đ vốn
đầu tư được tính như sau:
npv = hay npv =
PVVo
n
i
ipv
SVI
W
−
∑
−
=
1
1
NPV- Tổng thu nhập thuần của cả đời dự án đầu tư tính ở mặt bằng thời
gian khi các kết quả của công cuộc đầu tư bắt đầu phát huy tác dụng.
-
∑
−
=
1
1
n
i
ipv
W
Tổng lợi nhuận thuần của cả đơì dự án
- SV
pv
Giá trị thanh lý tính theo mặt bằng thời gian khi dự án bắt đầu
phát huy tác dụng.
RRi và npv càng lớn càng tốt.
- Chỉ tiêu tỷ suất sinh lời của vốn tự có: Vốn tự có là một bộ phận của
vốn đầu tư, là một yếu tố để xem xét tiềm năng tài chính cho việc tiến hành
các công cuộc đầu tư của các cơ sở không được ngân sách tài trợ. Nếu vốn
phải đi vay ít, tổng tiền trả lãi vay ít, tỷ suất sinh lời của vốn tự có càng
cao.Công thức tính có dạng sau đây:
Nếu tính cho một năm hoạt động
i
i
i
E
W
E =
Trong đó:
-
i
E
: Vốn tự có bình quân năm I của dự án
- W
i
: Lợi nhuận thuần năm I của dự án
Nếu tính cho toàn bộ công cuộc đầu tư của dự án
PV
E
E
NPV
npv =
Trong đó:
- NPV : Tổng thu nhập thuần cả đời của dự án ở mặt bằng thời gian khi
các kết quả đầu tư bắt đầu phát huy tác dụng
-
PV
E
: Vốn tự có bình quân của cả đời dự án tính ở mặt bằng thời gian
khi công cuộc đầu tư bắt đầu phát huy tác dụng.
Chỉ tiêu số lần quay vòng của vốn lưu động
Vốn lưu động là một bộ phận của vốn đầu tư. Vốn lưu động quay vòng
càng nhanh, càng cần ít vốn và do đó càng tiết kiệm vốn đầu tư và trong
những điều kiện khác không thay đổi thì tỷ suất sinh lời của vốn đầu tư càng
cao. Công thức tính chỉ tiêu này có dạng sau đây:
ci
i
W
W
O
L
ci
=
Trong đó:
O
i
: Doanh thu thuần năm i của dự án
ci
W
Vốn lưu động bình quân năm I của dự án
Hoặc :
Cpv
PV
W
W
O
L
c
=
Trong đó:
-
PV
O
: Doanh thuthuần bình quân cả đời dự án
-
Cpv
W
: Vốn lưu động bình quân năm I của dự án
Chỉ tiêu thời hạn thu hồi vốn đầu tư.
Là thời gian mà các kết quả của quá trình đầu tư cần hoạt động để có
thể thu hồi vốn đầu tư đẫ bỏ ra rừ lợi nhuận thu được.
Công thức tính như sau:
T =
PV
V
W
I
0
Trong đó:
Wpv-Lợi nhuận thuần thu được bình quân một năm của dự án
T
Và T -Thời hạn thu hồi vốn đầu tư tính theo tháng quý hoặc năm
- Chỉ tiêu mức chi phí thấp nhẩt trong trường hợp các đIũu kiện khác
như nhau
Tính cho công cuộc đầu tư của dự án:
min
0
→+ TCI
pv
V
-
pv
C
: Chi phí hoạt động bình quân năm tính theo giá trị ở mặt bằng khi
đưa dự án vào hoạt động
- T: Đời hoạt động của dự án đầu tư.
- Chỉ tiêu điểm hoà vốn :
Chỉ tiêu này cho thấy số sản phẩm cần sản xuất hoặc tổng doanh thu
cần thu do bán số sản phẩm đó đủ để hoàn lại số chi phí đã bỏ ra từ đầu đời
dự án. Chỉ tiêu này càng nhỏ càng tốt, mức độ an toàn của dự ấn càng cao,
thời gian thu hồi vốn càng ngắn.
Chỉ tiêu này có thể được biểu hiện bằng số lượng sản phẩm sản xuất và
tiêu thụ từ đầu đời dự án nếu dự án sản xuất kinh doanh một loại sản phẩm
hoặc biểu thị bằng tổng doanh thu do bán tất cả các sản phẩm do dự án sản từ
đầu đời dự án đến khi cân bằng với chi phí đã bỏ ra.
+Có hai phương pháp tính chỉ tiêu này:
Phương pháp đại số: nhằm tìm ra công thức lý thuyết xác định điểm
hoà vốn với các yếu tố có liên quan và bản chất của các mối quan hệ này, từ
đó có biện pháp tác động vào các yếu tố có tác dụng làm giảm điểm hoà vốn
và hạn chế tác động của các yếu tố làm tăng điểm hoà vốn. Theo phương pháp
này, chúng ta giả thiết gọi X là số sản phẩm sản xuất được sản xuất trong cả
đời dự án, x là số sản phẩm cần thiết để đạt điểm hoà vốn, f là tổng định phí, v
là biến phí tính cho một sản phẩm, P là giá bán một sản phẩm và bằng chi phí
rại điểm hoà vốn . Từ những giả thiết trên đây ta có hệ phương trình
Yo = x.P đây là phương trình doanh thu
Yc =xv+f là phương trình chi phí
Tại điểm hoà vốn: Yo=Yc tức là x=f/(p-v)
Đây là công thức xác định điểm hoà vốnlý thuyết. Có 3 nhân tố tác
động đến x là f, P, v. Trong đó x tỷ lệ thuận với f, tỷ lệ nghịch với P-v, x
càng nhỏ càng tốt. Trường hợp của dự án sản xuất,kinh doanh nhiều loại sản
phẩm, phảI tính chỉ tiêu doanh thu hoà vốn:
Trong đó: m-số loại sản phẩm
Pi –Giá bán 1 sản phẩm I
m-số loại sản phẩm
vi-Biến phí của một sản phẩm I;
xi-Số sản phẩm I;
Phương pháp đồ thị: lập một hệ trục toạ độ, trục hoành biểu thị số
lượng sản phẩm, trục tung biểu thị chi phí hoặc doanh thu do bán sản
phẩm.Trên trục tung lấy một đoạn thẳng f kẻ song song với trục hoành. Đó là
đường biểu diễn.
Chi phí cố định (định phí).Từ gốc toạ độ kẻ đường chi phí khả biến
(biến phí). Từ điểm f trên trục tung kẻ 1 đường song song với đường biến phí
ta được đường tổng chi phí: Y=x.v+f. Từ gốc toạ độ vẽ đường doanh thu
Y=x.P. Đường này cắt đường Y=xv+f tại một điểm. Đó là điểm mà tổng
doanh thu do bán hàng bằng tổng chi phí. Giao điểm đó chính là điểm hoà
vốn. Từ giao điểm này kẻ 1 đường thẳng gốc với trục hoành. Điểm giao nhau
giữa đường này với trục hoành chính là điểm biểu diễn số sản phẩm cần thiết
để đạt mức hoà vốn-gọi là điểm hoà vốn xo (xem sơ đồ)
Các chỉ tiêu phân tích hiệu quả kinh tế phân tích kinh tế xã hội của của
việc sở dụng vốn đầu tư:
Giá trị sản phẩm tăng thêm thuần tuý (NVA-Net value added) là chỉ
tiêu căn bản phản ánh hiệu quả kinh tế xã hội của dự án. NVA là mức chênh
lệch giữa giá trị đầu ra và giá trị đầu vào. Công thức tính:
NVA=O-(MI+I)
Trong đó :
NVA:Là giá trị gia tăng thuần tuýdo dự án đem lại
O: Giá trị đầu ra của dự án
MI:Là giá trị đầu vào vật chất thường xuyên và các dịch vụ vật chất
thường xuyên và các dịch vụ mua ngoài theo yêu cầu để đạt được các đầu ra
trên đây
I: Vốn đầu tư bao gồm chi phí xây dung nhà xưởng ,mua sắm máy móc
thiết bị Chỉ tiêu NVA biểu thị sự đóng góp của dự án đối với toàn bộ nền kinh
tế. Trong tổng số giá trị gia tăng sản phẩm thuần tuý do dự án đem lại gồm có
giá trị gia tăng trực tiếp (do chính dự án tạo ra) và giá trị gia tăng gián tiếp do
chính các dự án liên quan tạo ra sự đòi hỏi trong hoạt động của dự án đem
xem xét.
Một vài nét giới thiệu khái quát veef đặc điểm tự nhiên kinh tế của Hà
Tĩnh.
Vị trí địa lý:
y
x
0
r
C
i
B
i
Y = xp
x
0
x
Y = xv+f
f
Hà Tĩnh thuộc vùng Bắc Trung Bộ có toạ độ từ 17 54’độ vĩ Bắcđến 18
46 độ kinh Đông. Phía Bắc giáp Nghệ An, Nam giáp Quảng Bình, Tây giáp
Lào với đường biên giới 145 km và Đông giáp với bờ biển dàI 137 km. Tổng
diện tích tự nhiên 6.055,74 km2,dân số 1.278.388 người, bằng 1,8% diện tích
và bằng 1,7% dân số cả nước. Có 9 huyện và hai thị xã là Thị xã Hà Tĩnh và
Thị xã Hồng Lĩnh và 9 Huyện: Nghi Xuân, Can Lộc, Đức Thọ, Thạch Hà,
Hương Sơn, Hương Khê, Cẩm Xuyên, Kỳ Anh, Vũ Quang; có 241 xã, 6
Phường và 12 Thị Trấn.
Có 7 huyện thị nằm trên quốc lộ 1Avà cos 4 huyện có tuyến đường Bắc
Nam đi qua. Cách thành phố Vinh khoảng 50 km. Hà Tĩnh còn có đường quốc
lộ 8 qua Lào (dài 100 km) và được nối với xa lộ Hồ Chí Minh đi qua 3 huyện
Hương Sơn, Vũ Quang, Hương Khê dài 80 km.
Khí hậu đất đai tài nguyên
Hà Tĩnh nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa với đặc trưng khí hậu nhiệt
đới điển hình của miền Nam và một mùa đông lạnh giá của miền Bắc.
Về tài nguyên thiên nhiên: Nhìn chung đất Hà Tĩnh cũng như các tỉnh
khác ở miền trung, không được màu mỡ lắm, chủ yếu là đất Ferarit. Diện tích
đất nông nghiệp khoảng103.720 ha. Tài nguyên nước ngọt dồi dào do có các
con sông Ngàn Phố, Sông La, Sông Ngèn chảy qua. Và Hà Tĩnh còn cò tiềm
năng rất lớn về khoáng sản nhưng chưa được đầu tư khai thác như quặng sắt
Thạch Khê,mỏ thiếc Sơn Kim,mỏ than Hương Khê, oxit titan và các khoáng
sản khác.
Về tài nguyên du lịch, tự nhiên và nhân văn: Hà Tĩnh là nơi tập trung
nhiều di tích lịch sử, văn hoá nổi tiếng. Là nguồn tài nguyên du lịch quan
trọng giữ vai trò chính trong việc thu hút khách du lịch đặc biệt là khách quốc
tế. Theo thống kê sơ bộ trên đất Hà Tĩnh có khoảng 396 di tích. Trong đó các
di tích xếp hạng, nhóm di tích tưởng niệm các doanh nhân và nhân vật lịch sở
chiếm số lượng lớn (25 di tích). Tiêu biểu trong nhóm này là các di tích tưởng
niệm Nguyễn Du, Lê Hữu Trác, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Biểu, Trần Phú.
Với vị trí địa lý gần biển và núi nên rất thuận lợi cho nền công nghiêp du lịch
và sinh thái.
THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VÀ
SỬ DỤNG VỐN TẠI HÀ TĨNH
1- Tình hình huy động vốn từ 1996-2003
1.1 Tình hình huy động vốn nói chung:
Sau hơn 10 năm tách tỉnh và đặc biệt là từ năm 1996 - 2003 Hà Tĩnh đã
có nhiều chuyển biến tích cực, nền kinh tế bước đầu đã gặt hái được nhiều
thành quả lĩnh vực đầu tư cho phát triển đóng vai trò quan trọng trong sự
chuyển biến này. Vốn đầu tư ngày càng được thu hút và sử dụng một cách có
hiệu quả, năng lực sản xuất của một số ngành tăng khá nhiều công trình xây
dựng như giao thông thuỷ lợi đã được phát huy tác dụng.
Nguồn vốn được huy động có thể là vốn trong nước - bao gồm vốn
ngân sách, vốn tín dụng và vốn đóng góp của dân chúng. Vốn nước ngoài chủ
yếu là vốn ODA (hỗ trợ phát triển chính thức), vốn ngân hàng thế giới WB,
vốn ngân hàng phát triển châu Á và vốn từ các tổ chức phi Chính phủ (N60).
Từ năm 1996 - 2003 các công trình dự án đã góp phần đáng kể trong công tác
xoá đói giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới, phát triển kết cấu hạ tầng,cảI
thiện đời sống cho nhân dân nhằm đưa Hà Tĩnh thoát khỏi đói nghèo, áp
dụng các dự án đã đem lại lợi ích thiết thực cho cộng đồng và góp phần phát
triển kinh tế xã hội trên địa bàn.Để có thể hiểu một cách chi tiết hơn chúng ta
hãy xem bảng sau về tình hình huy động vốn
Tình hình huy động vốn từ 1996 - 2003 như sau:
Đơn vị tính tỷ đồng
Danh mục
1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 Tổng số
Tổng số 580 690 787 825 950 1100 1200 1350 7482
Vốn trong
nước
530 647,5 742 704,2 817,4 9586 1049,5 1189,4 6639,0
Vốn nước
ngoài
50 42,5 45 120,
8
132,6 141,4 150,5 160,2 843