Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

Bài 18: Sử dụng các hệ số để phân tích doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (172.19 KB, 15 trang )

Bài 18: Sử dụng các hệ số
để phân tích

Mỗi hệ số đề cập ở các bài trước chỉ cung cấp một số
thông tin về mức độ hiệu quả trong hoạt động của một
công ty. Tuy nhiên, như các bạn biết, việc phân tích tài
chính đặc biệt có ý nghĩa khi bạn có một số chuẩn mực để
có thể so sánh với các hệ số của một công ty, bạn không
chỉ muốn xem khả năng sinh lời, khả năng thanh toán,
tình trạng nợ và các mối liên hệ hoạt động của một sông
ty là cao hay thấp, và các yếu tố này đang được cải thiện
hay xấu đi, mà bạn còn muốn xác định mức độ hiệu quả
hoạt động của công ty đó so với các đối thủ cạnh tranh
khác, so với ngành hay so với công ty hoạt động tốt nhất
cùng ngành.
Mặc dù nhà quản lý của một công ty có thể tính toán các
hệ số của các công ty khác, những các thông tin này đã
có sẵn từ các nguồn công khai, chẳng hạn như: Niên giám
các hệ số tài chính công nghiệp và kinh doanh, các hệ số
kinh doanh chủ yếu, các trang tài chính công ty của các
cơ quan định mức tín nhiệm Các nguồn này cung cấp
các hệ số của từng công ty và ngành có thể dùng để so
sánh.
Người ta có thể so sánh những hệ số tài chính chuẩn này
với các hệ số của một công ty nào đó để xem xem liệu
chúng khác nhau hay tương tự.



Bạn có thể thấy ngay là các con số trong bảng cho thấy
rằng với thời kỳ 7 năm, sự tiến triển trong khả năng thanh


toán và sinh lời của công ty lớn hơn khả năng thanh toán
và sinh lời của của toàn ngành công nghiệp mà công ty
này hoạt động. Hệ số thu nhập trả lãi định kỳ của công ty
giảm, một phần do tỷ lệ nợ trên vốn cổ phần tăng mạnh,
nhưng vẫn lớn hơn mức trung bình của ngành. Hơn nữa,
bạn có thể thấy ngay rằng nói chung khả năng thanh toán
và sinh lợi cũng như khả năng trả nợ lại lớn hơn các công
ty cùng ngành. Có một điểm kém hấp dẫn là biến động
trong đòn bẩy tài chính của công ty (nợ trên vốn cổ phần),
hệ số này đã lên đến 45% và vào thời điểm năm 1995 đã
cao hơn hẳn mức trung bình của ngành. Yếu tố này cho
thấy rằng trong tương lai công ty nên phát hành cổ phiếu
hơn là trái phiếu nhằm giữ hệ số nợ trên vốn tương
đương với mức hợp lý của ngành. Bảng 5 cũng cho thấy
mặc dầu tỷ lệ tăng trưởng của công ty tương đương với
mức trong toàn ngành nhưng tỷ lệ giá trên thu nhập (P/E)
lại cao hơn, chủ yếu là khả năng thanh toán cũng như
danh tiếng của công ty vượt trội so với toàn ngành. Tuy
nhiên, tỷ lệ đánh đổi rủi ro lợi nhuận của công ty vào năm
1988 tương đương mức toàn ngành như đã thấy trong hệ
số đồng biến thiên. Các nnhà đầu tư hiển nhiên nhận thấy
sự tăng trưởng trong tỷ lệ nợ trên vốn là đáng báo động,
do vậy, tỷ lệ giá trên thu nhập (P/E) giảm từ 10,5 năm
1988 xuống 10,0 năm 1995, trong khi đó tỷ lệ P/E của
ngành không thay đổi trong cùng kỳ.

Việc chi tiết hoá các hệ số như trong bảng 5 giúp các
công ty chỉ ra được những điểm yếu và điểm mạnh trong
hoạt động cuả mình. Như vậy, việc phân tích các hệ số
cung cấp cho các nhà quản lý những công cụ để cải thiện

và phát triển hoạt động của công ty.

Hạn chế của việc phân tích hệ số.

Các hệ số tài chính chỉ cung cấp một phần thông tin cần
thiết để đánh giá hoạt động và hiệu quả chung của một
công ty. Các yếu tố thống kê khác như rủi ro, cần được
tính đến để có được một bức tranh toàn cảnh về tình hình
tài chính của một công ty.

Ngoài ra, việc so sánh các hệ số có thể dẫn đến sai lầm ở
một số phép tính. một công ty có thể đã thông qua các
chuẩn mực kế toán mới, tức là công ty này đã chuyển từ
cách đánh giá hàng dự trữ FIFO : first in first out (nhập
trước xuất trước) sang LIFO : last in first out (nhập sau
xuất trước). Công ty có thể đã đổi từ phương pháp khấu
hao trực tuyến sang phương pháp khấu hao tăng tốc.
Thông qua việc sát nhập, công ty có thể được xác định
thuộc ngành công nghiệp mới. Tương tự, giá trị tài sản
của công ty có thể được khai chưa đúng giá trị do lạm
phát cao. Một vài số liệu ngành có thể cũng đã sai lệch,
đặc biệt nếu các số liệu trung bình có tính đến nhiều công
ty nhỏ, yếu về tài chính.

Bạn cũng cần thận trọng để đánh giá loại nợ mà công ty
bạn đang nghiên cứu phái gánh chịu. nếu các khoản vốn
được huy động bằng phát hành trái phiếu chuyển đổi đã
đến hạn thanh toán hoặc được chuyển đổi sớm, thì việc
giải thích hệ số D/E sẽ khác với khi nợ thể hiện bằng các
đợt trái phiêu scó lãi suất cố định. Tương tự, một số công

ty có thể huy động vốn đầu tư của mình bằn các khoản
thuê ngắn hạn. Do đó, một số hệ số tài chính sẽ được
công bố không chính xác do kết quả của cơ cấu tài chính
này. Điều này đặc biệt đúng đối với hệ số thu nhập trên
đầu tư ROI (return on investment).

Cũng nên thận trọng khi sử dụng các dữ liệu được công
bố, vì các số liệu ngành đôi khi chỉ thể hiện cho các công
ty hoạt động tốt nhất và có tình hình tài chính khả quan.
Ngoài ra, việc phân loại các công ty cụ thể thành một
ngành là rất khó khăn, vì hầu hết các công ty đều có dây
chuyền sản xuất khác nhau. Vấn đề này có thể làm sai
lệch so sánh các hệ số của công ty với các hệ số của
ngành.
Ngoài ra, cũng nên dè chừng với các công ty tìm cách
thao túng những con số của mình bằng cách bán tài sản
của mình hay những thủ thuật đối với chi phí thay thế.
Mặc dù nghiệp vụ kế toán đã được cải tiến nhằm giải
quyết các vấn đề này, nhưng có nhiều cách giải thích và
phương pháp khác nhau trong việc lập các báo cáo tài
chính có thế che dấu điểm mạnh hay điểm yếu thực tế
của một công ty. Do vậy, khi thực hiện phân tích các báo
cáo tài chính và các hệ số tài chính, cần phải biết rằng các
nhà phân tích và các nhà quản lý có thể đưa ra các giải
thích khác nhau. Tóm lại, cần thận trọng khi phân tích một
công ty dựa trên cơ sở các hệ số tài chính. Phải tính đến
các hạn chế có liên quan đến các hệ số này./.

Bài 19 : Bảng cân đối kế toán


A-PHẦN NỢ.

Phần nợ cho biết các khoản nợ của công ty. Một số khoản
nợ này phải được thanh toán trong một thời gian ngắn
(Nợ ngắn hạn) trong khi một số các khoản nợ khác phải
được hoàn trả trong nhiều năm (nợ dài hạn).

Nợ ngắn hạn

Nợ ngắn hạn là các khoản nợ dưới một năm. Chúng được
xác định bởi từ “phải trả” thường được dùng dưới đây:

Các khoản phải trả: Số tiền mà một công ty mua chịu
hàng hoá và dịch vụ đang còn nợ.
Các khoản khoản vay ngắn hạn phải trả: Khoản vay ngắn
hạn từ các ngân hàng và các tổ chức tài chính.
Cổ tức phải trả: Tiền cổ tức đã được tuyên bố nhưng
chưa trả.
Các khoản thuế phải nộp: Số tiền mà công ty còn nợ
Chính phủ.
Lãi phải trả: Số tiền lãi công ty nợ đối với các khoản vay
nợ dài hạn.

Nợ dài hạn:

Nợ dài hạn là khoản nợ có thời hạn từ một năm trở lên mà
công ty phải trả. Ví dụ trái phiếu và các khoản vay nợ dài
hạn của ngân hàng.

Ví dụ: Nợ dài hạn

Giấy nợ 9% hạn 2015: $300.000

=>Giấy nợ 9% hạn 2015: $300.000

PHẦN VỐN CỦA CÁC CỔ ĐÔNG

Phần vốn của các cổ đông thể hiện các giá trị thực của
công ty. Nó chỉ ra mức độ quan tâm về sở hữu của các cổ
đông. Bảng dưới đây phân biệt các loại cổ phiếu khác
nhau:

Cổ phiếu ưu đãi phản ánh trên bảng tổng kết tài sản dựa
trên mệnh giá. Thường mệnh giá của cổ phiếu ưu đãi là
$100. Trong một số trường hợp, cổ tức của các cổ phiếu
ưu đãi được tính bằng tỷ lệ phần trăm so với mệnh giá.
Trong ví dụ trên, cổ tức hàng năm cho cổ phiếu ưu đãi là
$6 ($100 x 6%)

Cổ phiếu thường được phản ánh trong bảng tổng kết tài
sản dựa trên mệnh giá của các cổ phiếu thường của công
ty. Mệnh giá chỉ để sử dụng cho mục đích ghi số sách.
Mệnh giá cổ phiếu thường không ảnh hưởng đến gía thị
trường của cổ phiếu. Giá thị trường của cổ phiếu phản
ánh yếu tố cung cầu của cổ phiếu cũng như trình độ quản
trị công ty và khả năng tạo ra lợi nhuận.

Thặng dư về vốn là số tiền các cổ đông trả theo mệnh giá
cho các cổ phiếu công ty bán cho công chúng. Nó cũng
được xem như là vốn góp. Nó không bao gồm vốn mà
công ty nhận được từ lợi nhuận kinh doanh.


Thu nhập giữ lại thể hiện lợi nhuận ròng được dành lại sử
dụng cho tương lai. Cổ tức thường được trả từ thu nhập
giữ lại ./.

×