Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

Chính sách tài chính và tiền tệ pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (323.13 KB, 15 trang )

Chính sách tài chính và tiền tệ
Bây giờ chúng ta đã có mô hình cơ bản IS-LM, đây là lúc chúng
ta sử dụng mô hình này để xem xét xem nó vận hành như thế
nào và sử dụng nó để giải thích các hiện tượng trong thực tế.
- Sự tập trung chủ yếu của chúng ta trong chương này là sử dụng
mô hình này để tìm hiểu chính sách tài chính và tiền tệ ảnh
hưởng đến kinh tế vĩ mô như thế nào.
- Nhớ lại trong Chương 1 rằng chính sách tài chính được thực
ban hành bởi chính phủ liên bang (và chính quyền cấp tỉnh), và
bao gồm các mức độ khác nhau trong mua sắm chính phủ các
hàng hoá và dịch vụ và các mức độ của thuế để ảnh hưởng đến
trạng thái của nền kinh tế.
- Chính sách tiền tệ được ban hành bởi Ngân hàng Canada, và
bao gồm việc quy định mức độ cung ứng tiền và mức lãi suất để
tác động lên nền kinh tế.
- Chúng ta cũng thấy trong Chương I rằng chính sách kinh tế vĩ
mô có hai mục tiêu cơ bản:
+ Giảm sự biến động của GDP thực tế và thất nghiệp do chu kỳ
kinh tế.
+ Giảm mức lạm phát.
- Chúng ta cũng sẽ tìm hiểu chính sách tài chính và tiền tệ có thể
được sử dụng trong lý thuyết để đạt được những mục tiêu này,
và chúng ta sẽ tìm hiểu tại sao trên thực tế việc đạt được những
mục tiêu này có những khó khăn nhất định.
CHÚ Ý: Tôi sẽ bỏ qua nhiều yếu tố trong chương này, và đưa vào
những tài liệu không có trong bài này. Tập trung vào những lưu ý
này!
1) Chính sách tiền tệ trong mô hình IS-LM
Trong phần này, chúng tôi muốn trả lời bốn câu hỏi cơ bản:
- Ngân hàng trung ương của một nước thay đổi việc cung ứng
tiền như thế nào?


- Những thay đổi về cung ứng tiền ảnh hưởng đến các biến kinh
tế vĩ mô chủ yếu của một nước như thế nào?
- Mục tiêu của chính sách tiền tệ là gì ? Và ngân hàng trung ương
sẽ cố gắng làm gì?
- Những khó khăn gặp phải trong thực tế thực hiện chính sách
tiền tệ?
Ngân hàng Trung ương tác động đến Cung ứng tiền như thế
nào
Trong Chương 5, chúng ta bàn qua về việc tại sao chúng ta có
thể định nghĩa tiền là tiền mặt + một số loại tiền gửi của các hộ
gia đình và doanh nghiệp.
- Trước hết chúng ta cần giải thích tại sao ngân hàng trung ương
có thể tác động đến mức độ cung ứng tiền.
- Nếu tiền chỉ là tiền mặt, họ chỉ cần điều chỉnh bằng cách in thêm
các hoá đơn, mua máy bay, và phân phát chúng khắp cả nước.
- Tuy nhiên, chúng ta biết rằng thực tế phức tạp hơn nhiều khi
chúng ta nhận ra rằng phần chủ yếu của tiền cung ứng là các
khoản tiền gửi, chứ không phải là mặt.
- Nhớ lại rằng một phương pháp của cung ứng tiền là M2+ = tiền
trong lưu thông + các khoản tiền gửi tại ngân hàng và những tổ
chứng tín dụng khác.
- Giá trị thực tế của tiền mặt trong lưu thông ở Canada là $34.3
tỷ, nhưng giá trị thực tế của các tài khoản tiền gửi tại ngân hàng
là $683 tỷ, cao gấp 20 lần.
- Vậy điều quan trọng là phải điều chỉnh được mức tiền gửi trong
hệ thống ngân hàng.
- Chúng ta sẽ đưa ra những ý tưởng cơ bản, còn phần chi tiết sẽ
ở trong Kinh tế học 331.
Các khoản tiền gửi trong hệ thống ngân hàng bị tác động bởi các
quyết định của những người gửi tiền (các hộ gia đình và doanh

nghiệp), và quyết định của ngân hàng.
- Ngân hàng tạo ra các khoản tiền gửi mỗi khi họ vay vốn của các
cá nhân và doanh nghiệp, và họ giảm các khoản tiền gửi mỗi khi
họ giảm các khoản tiền vay.
- Các ngân hàng tồn tại để hoạt động sinh lợi, do đó họ sẽ điều
chỉnh các khoản vốn vay để tạo ra lợi nhuận.
- Các ngân hàng cần so sánh chi phí của việc cho vay đối với lợi
nhuận của việc cho vay khi họ quyết định vay bao nhiêu tiền.
- Các ngân hàng cho vay với các mức lãi suất khác nhau, và
chúng thường là tăng lên từ một mức lại suất, Mức lãi suất cơ
bản đối với những doanh nghiệp đi vay của các doanh nghiệp ít
rủi ro nhất.
- Ngân hàng Canada, Ngân hàng trung ương của Chính phủ
Canada, cố gắng điều chỉnh quyết định cho vay của các ngân
hàng tư nhân bằng cách thay đổi những chi phí mà các ngân
hàng tư nhân gặp phải mỗi khi họ vay tiền từ ngân hàng trung
ương, và những lợi nhuận các ngân hàng tư nhân có được từ
việc duy trì các khoản tiền gửi dự trữ tại ngân hàng trung ương.
Các ngân hàng tư nhân không cần thiết phải giữ lại 100% khoản
tiền gửi trong kho của mình.
- Thực tế, các ngân hàng tư nhân duy trì 1% các khoản tiền gửi
như là một khoản dự trữ.
- Một phần của khoản tiền này được duy trì dưới dạng tiền mặt
trong kho, nhưng một phần trong số này là số tiền gửi tại ngân
hàng trung ương, Ngân hàng Canada.
- Đây là một khoản dự trữ đặc biệt mà chỉ các ngân hàng tư nhân
và những ngân hàng bù trừ trực tiếp? có thể có.
- Cuối mỗi ngày, các ngân hàng sử dụng khoản tiền gửi này để
bù trừ những khoản séc liên ngân hàng ? thay vì chuyển tiền mặt
trực tiếp từ ngân hàng này sang ngân hàng khác, họ điều chỉnh

tài khoản của mình tại ngân hàng trung ương.
- Các ngân hàng tư nhân hưởng lãi suất từ khoản tiền gửi của họ
tại ngân hàng trung ương ? Lãi suất tiền gửi của Ngân hàng.
- Mặt khác, nếu ngân hàng tư nhân cạn tiền trong tài khoản dự
trữ vào cuối ngày khi các khoản séc đã được bù trừ, họ phải
mượn tiền từ ngân hàng trung ương với một mức lãi suất gọi là
Lãi suất chiết khấu Ngân hàng = Lãi suất tiền gửi của ngân
hàng +0.5%.
- Ngân hàng Canada thay đổi những lãi suất đặc biệt này đồng
thời mỗi khi Ngân hàng Canada muốn tác động đến mức cung
ứng tiền và mức lãi suất trong nền kinh tế.
Để hiểu được hoạt động của nó, chúng ta tìm hiểu xem điều gì
xảy ra khi Ngân hàng Canada muốn giảm cung ứng tiền, và tăng
lãi suất.
- Giả sử rằng Ngân hàng Canada tăng hai mức lãi suất này theo
sự kiểm soát của mình.
- Sự tăng lên Lãi suất Chiết khấu ngân hàng làm các chi phí trở
nên cao hơn khi sử dụng hết khoản tiền gửi dự trữ tại ngân hàng
trung ương, và sự tăng lên Lãi suất Tiền gửi của Ngân hàng có
nghĩa là bạn có thể có được mức lãi suất cao hơn đối với những
khoản tiền gửi.
- Hai thay đổi này cùng nhau tạo ra sự khuyến khích mạnh mẽ
cho các ngân hàng tư nhân tăng khoản tiền gửi dự trữ của họ.
- Khi các ngân hàng tư nhân tăng khoản tiền gửi dự trữ, vốn cho
vay sẵn có của họ sẽ thấp hơn, do đó họ sẽ giảm vốn cho vay và
dẫn đến giảm các khoản tiền gửi.
- Bên cạnh đó, khi các ngân hàng tư nhân giảm số tiền cho vay
của họ, họ thường thực hiện điều này bằng cách tăng mức lãi
suất cho vay đối với các hộ gia đình và doanh nghiệp ? ví dụ, họ
tăng mức lãi suất cơ bản doanh nghiệp lên.

- Kết quả của những hành động này là giảm lượng tiền gửi trong
hệ thống ngân hàng, và giảm mức cung ứng tiền.
- Tất cả những điều vừa nói ở trên được tóm tắt lại trong Hình
dưới đây.
Hình 1

Bảng dưới đây trình bày Lãi suất Chiết khấu Ngân hàng và Lãi
suất cơ bản từ năm 1986.
- Lưu ý về mối liên hệ của chúng ? tăng Lãi suất Chiết khấu dẫn
đến tăng Lãi suất Cơ bản, giảm Lãi suất Chiết khấu dẫn đến giảm
Lãi suất Cơ bản.
- Chúng ta cũng chú ý rằng mức lãi suất dễ biến đổi, đặc biệt là
trong những năm 80.
Năm

86

87

88

89

90

91

92

93


94

95

96

97

98

Lãi
suất

Chiết

khấu

9.21

8.4

9.69

12.29

13.04

9.03


6.78

5.09

5.77

7.31

4.53

3.52

5.1

4.92
Lãi
suất


bản

9.16

8.37

9.67

12.21

13.03


8.91

6.74

4.97

5.66

7.22

4.53

3.61

5.05

4.94
Chính sách Tiền tệ mở rộng trong Mô hình IS-LM
Hình 2 dưới đây mô tả ảnh hưởng của chính sách tiền tệ mở
rộng trong mô hình IS-LM.
Hình 2

Sự tăng lên ban đầu của cung ứng tiền làm dịch chuyển đường
LM sang phải đến LM
A
, mức giá vẫn giữ nguyên.
- Sự tăng lên cung ứng tiền danh nghĩa làm tăng cung ứng tiền
thực tế , và làm giảm lãi suất (rút một lượng tiền thể hiện
điều này).

- Lãi suất giảm đi làm cho việc đầu tư tiền vào các dự án trở nên
được xem trọng hơn, do đó các doanh nghiệp tăng nhu cầu đầu
tư, điều này làm tăng tổng chi tiêu - điều này được thể hiện bằng
sự di chuyển xuống dọc theo đường IS.
- Bởi vì chúng ta vẫn giữ nguyên mức giá trong thí nghiệm này,
chúng ta thể hiện sự thay đổi này ở phần dưới cùng của hình
minh hoạ bằng sự dịch chuyển sang phải của đường AD đến
AD
1
, mức giá vẫn giữ nguyên, với tổng cầu hàng hoá và dịch vụ
tăng lên đến Y
A
.
- Tuy nhiên, sự dịch chuyển sang phải của đường AD sẽ làm tăng
áp lực tăng lên đối với mức giá.
- Như chúng ta có thể thấy, mức giá tăng lên làm giảm cung ứng
tiền thực tế , và hạn chế một phần sự tăng lên ban đầu,
điều này tạo ra một sự dịch chuyển sang trái của đường LM, từ
LM
A
đến LM
1
.
- Kết quả cuối cùng là của chính sách cung ứng tiền mở rộng làm
giảm mức lãi suất, và làm tăng GDP thực tế và tăng mức giá cả
như đã chỉ ra.
Chúng ta có thể thấy rằng ngân hàng trung ương có thể sử dụng
chính sách tiền tệ mở rộng để tăng GDP thực tế và giảm mức
thất nghiệp - nếu nền kinh té độ hẫng hụt suy thoái, ngân
hàng trung ương có thể cải thiện bằng cách tăng cung ứng

tiền.
- Trang 179-181 mô tả chính sách tiền tệ co hẹp hoạt động như
thế nào.
- Tôi sẽ không đi vào chi tiết ở đây, mặc dù tôi sẽ nói về chúng
trong phần tiếp theo về Sự thực thi của Chính sách Tiền tệ.
Mục tiêu của Chính sách Tiền tệ
Rõ ràng là ngân hàng trung ương có thể điều chỉnh đến việc cung
ứng tiền để tác động đến tổng cầu và do đó tác động một cách
tiềm tàng đến mức tăng trưởng GDP thực tế, mức thất nghiệp, và
mức tăng của giá cả.
- Do đó, về mặt lý thuyết, ngân hàng trung ương có thể dùng
chính sách tiền tệ để ngăn chặn sự biến động của nền kinh tế
trong chu kỳ kinh tế.
- Chính sách như vậy được gọi là chính sách ngược chu kỳ -
chính sách này được sử dụng để cưỡng lại chu kỳ kinh tế.
- Khi nền kinh tế ở dưới mức tăng trưởng tự nhiên, về mặt lý
thuyết ngân hàng trung ương có thể tăng cung ứng tiền để cố
gắng tăng AD và tăng mức tăng trưởng GDP thực tế.
- Khi nền kinh tế ở trên mức tăng trưởng tự nhiên, nó gây ra
những áp lực lạm phát, và về mặt lý thuyết ngân hàng trung ương
có thể giảm tăng trưởng tiền tệ để giảm AD, và giảm áp lực lạm
phát.
- Tuy nhiên, trên thực tế ngân hàng trung ương không phải bao
giờ cũng kiểm soát hoàn toàn tình huống.

×