CHƯƠNG 4: Vận dụng Giá cả Thị
trường để Định giá Đầu-vào, phần 2
Thật tình cờ, tiền công chi trả cho những người làm việc trong dự
án chỉ là chuyển nhượng từ người đóng thuế sang nhân viên dự
án. Không nên liệt các khoản chuyển nhượng này vào chi phí hay
lợi ích.
Phân tích CBA này sẽ trở nên khó khăn hơn nếu nó được thực
hiện từ quan điểm của nhà nước song tiền lại do chính quyền liên
bang cung cấp thì tiền đó sẽ được tính là lợi ích của dự án.
Cuối cùng, một phân tích có thể lưu ý rằng việc cắt giảm tỷ lệ thất
nghiệp trong một khu vực có thể làm giảm bớt các vấn đề xã hội
thường đi liền với tình trạng thất nghiệp cao mặc dù khó có thể
xác định được giá trị của những lợi ích này.
Trưng dụng đất tư cho mục đích công có đền bù thoả đáng
Có thể phân tích việc một dự án trưng dụng đất theo một cách
khác. Lượng đất dùng trong một vùng thông thường là cố định
nên có thể coi đường cung đất như một đường thẳng đứng. Tuy
nhiên, quỹ đất dành cho tiêu dùng tư bằng lượng đất sẵn có trừ đi
lượng đất được sử dụng trong dự án. Bởi vậy, có thể cho là dự
án làm giảm cung đất cho tiêu dùng tư, khiến đường cung đất
thẳng đứng dịch chuyển sang trái. Kết quả là đẩy giá đất lên cao
và làm giảm lượng đất sẵn có dành cho tiêu dùng tư.
Nếu số đất này được đưa ra bán một cách thẳng thừng bởi
những người thực sự muốn bán thì mức giá thị trường (hay trong
trường hợp những dự án lớn mức trung bình của giá thị trường
trước và sau dự án) phản ánh chính xác giá trị của lượng đất đó
vì mức giá là mức hợp lý mà ở mức giá đó chủ đất tự nguyện
muốn bán đất.
Tuy nhiên, nếu các chính phủ tuyên bố trưng dụng một mảnh đất
nhằm buộc chủ sở hữu phải bán lại đất với "mức giá thị trường
công bằng" thì mức giá đó đánh giá thấp giá trị thực của mảnh
đất. Thật ra, nếu chủ đất chỉ xác định giá trị của mảnh đất hay các
hoạt động nâng cấp thực hiện đối với mảnh đất đó theo mức giá
thị trường phổ biến thì chủ đất ắt hẳn đã bán mảnh đất đó trước
khi tính đến chuyện nhượng lại đất cho dự án. Chủ đất bị buộc
phải bán đất. Có vẻ như họ định giá đất cao hơn giá trị thị trường
chuẩn nếu tính theo độ sẵn sàng chấp nhận (Willing to Accept ~
WTA) bị mất bất động sản của họ. Thường thì giá trị gắn cho một
đơn vị không được cao hơn mức giá của một đơn vị thay thế lân
cận. Song đối với bất động sản, mỗi một địa thế là duy nhất.
Mảnh đất với địa thế độc đáo đó mang những đặc tính với giá trị
riêng có đối với chủ đất. Nó cũng có một ý nghĩa lớn về mặt tình
cảm đối với chủ sở hữu đất khiến cho mức WTA của chủ đất trở
nên rất cao. Giá trị của những đơn vị đất có được bằng biện pháp
trưng dụng nhà nước có thể biến động từ mức giá thị trường cho
đến mức giá kỳ vọng của chủ đất cuối cùng như thể hiện trong
Hình 4-5.
Hình 4-5
Khó có thể xác định xem đâu là chỉ dẫn để có thể gán giá trị đúng
cho đất được trưng dụng nếu nhà nước có đền bù. Các đo lường
thị trường không thể dự tính giá trị của các gói đất chính xác
được lấy đi từ các chủ đất. Ít nhất cũng có thể nói rằng mức giá
chuẩn trên thị trường được trả cho mảnh đất phản ánh thấp giá trị
thực của mảnh đất.
Ví dụ: Vị thế và Trưng dụng đất có đền bù của nhà nước
Một thành phố sắp xây một bể bơi phục vụ cư dân thành phố và
khách thập phương. Diện tích cần để xây bể bơi hiện đã bị chiếm
đóng song sẽ được giải phóng thông qua trưng dụng và đền bù.
Các chủ đất sẽ được trả với mức giá thị trường hợp lý. Tổng chi
phí mà thành phố phải bỏ ra là $800,000. Một số cư dân phản đối
việc trưng dụng đất song thành phố vẫn thắng kiện và nhận được
quyết định phê duyệt việc trưng dụng đất.
Một vấn đề cần phải bàn tới trong một phân tích chi phí lợi ích
của việc xây một bể bơi có thể là chi phí của diện tích đất sẽ
được sử dụng. Nếu phân tích được tiến hành từ góc nhìn của
chính quyền thành phố thì chi phí trả cho diện tích đất đó chỉ đơn
thuần là giá trị thị trường hợp lý phải trả cho chủ đất hay là
$800,000. Tuy nhiên, nếu cư dân của mảnh đất cũng có vị thế thì
giá thị trường hợp lý $800,000 là mức định giá tối thiểu đối với
giá trị của mảnh đất đó. Thực tế là một số cư dân chống lại hành
động trưng dụng đất sẽ cho thấy rằng họ định giá các lô đất cao
hơn so với mức giá thị trường được công bố mặc dù việc xác
định được giá trị thích hợp ở đây là một việc không tưởng.
Tóm lược:
Gắn giá trị cho các đầu-vào sử dụng trong một dự án thường là
một quá trình tương đối dễ hiểu. Nếu các thị trường vận hành với
độ hiệu quả hợp lý thì mức giá trả cho đầu-vào phải là thước đo
chuẩn xác của chi phí cơ hội của việc sử dụng chúng trong dự
án. Đối với phần lớn đầu-vào của phần nhiều các dự án, mức giá
đầu-vào trước dự án là giá trị chuẩn được dùng trong CBA. Nếu
một dự án dùng một lượng đầu-vào lớn và mức giá của đầu-vào
đó dự kiến là sẽ tăng do tác động của dự án thì mức trung bình
của các mức giá trước và sau dự án có thể là hợp lý.
Nếu đánh thuế lên việc mua một đầu-vào, mức độ đưa thuế vào
chi phí phụ thuộc vào việc liệu bộ phận thu thuế có vị thế hay
không cũng như độ chênh lệch giữa tiêu dùng tư suy giảm và sản
lượng gia tăng. Những thiệt hại bên ngoài liên quan đến việc sản
xuất hay tiêu dùng một đầu-vào cần phải được tính đến trong chi
phí của một đầu-vào. Tuy nhiên, khó có thể ước tính được chính
xác các thiệt hại bên ngoài này.
Quy tắc chung trong việc gắn giá trị cho đầu-vào là bất kỳ một
sản xuất tăng thêm nào được tạo ra bởi dự án cần phải được
định giá ở mức chi phí cận biên. Hay bất kỳ một cắt giảm nào
trong tiêu dùng tư cần phải được định giá theo mức sẵn sàng chi
trả của người tiêu dùng hoặc trong một số các trường hợp hạn
chế là độ sẵn sàng chấp nhận.
Các chỉ số về độ co dãn, nếu có thể có được, có thể được sử
dụng để xác định các kích cỡ tương ứng của các suy giảm trong
tiêu dùng tư và tăng trong sản lượng. Nếu độ co dãn là không thể
xác định được, sẽ là an toàn hơn nếu giả định một độ chênh lệch
nào đó giữa hai mức cung trong ngắn hạn và rằng độ co dãn
cung dài hạn là co dãn hoàn toàn đối với phần lớn các loại hàng
hoá. Dù tốt hay xấu thì CBA cũng là một phân tích thiếu độ chính
xác.
Trên các thị trường có thể tồn tại hàng loạt những hoạt động
không hiệu quả và khi chúng kéo dài thì một nhà phân tích sẽ
phải dè chừng khi tính toán giá trị của đầu-vào. Họ phải chữa trị
cho các mức giá thị trường với một liều thuốc hoài nghi liều cao.
Tham khảo
Boardman. "Lựa chọn giữa Than đá và Năng lượng hạt nhân ở
Ấn Độ: Một cách Tiếp cận Chi phí-Lợi ích," Tạp chí Năng lượng
và Phát triển, 1987.
Bài tập
1.Hãy tưởng tượng rằng có một đầu-vào mà đường cung và
đường cầu được cho bởi các phương trình sau:
Cầu: Q
d
= 1000 - 2P
Cung: Q
s
= 3P - 200
Tưởng tượng rằng một dự án sẽ dùng 100 đơn vị hàng hoá này
làm đầu-vào. Hãy tìm giá trị đúng của chi phí đầu-vào này trong
những điều kiện sau:
A. Không có bóp méo thị trường.
B. Phải trả một khoản thuế là $50/đơn vị cho chính phủ và chính
phủ có vị thế
C. Phải trả một khoản thuế là $50/đơn vị cho chính phủ và chính
phủ không có vị thế
D. Việc sản xuất đầu-vào này tạo ra thiệt hại cận biên bên ngoài
là $20/đơn vị.
E. Đầu vào được cung cấp bởi một hãng độc quyền với chi phí
cận biên là $100 (thế nên đường cung cho ở trên không còn thích
hợp nữa).
2. Một dự án sẽ dùng 10,000 galông xăng. Vì đây là một lượng
tương đối nhỏ nên không mong đợi rằng mức giá thị trường của
xăng sẽ thay đổi do tác động của dự án. Với năng lực dư thừa
của các nhà máy lọc dầu địa phương, cung được giả định là co
dãn hoàn toàn. Có hai bóp méo trên thị trường xăng.
A. Thứ nhất, thị trường không phải là cạnh tranh hoàn toàn. Thế
nên trong khi chi phí cận biên của việc cung cấp một galông xăng
là $1.00 thì mức giá là $1.75. Xăng cũng phụ thuộc vào các loại
thuế của chính phủ và chính quyền bang tổng cộng là
$0.40/galông. Đâu là giá trị cần lấy cho chi phí của sản phẩm
xăng được dùng trong dự án.
B. Bây giờ, hãy tưởng tượng rằng thay vì co dãn hoàn toàn thì
đường cung ở đây là co dãn không hoàn toàn. Đây có thể là tình
huống ngắn hạn nếu không có năng lực sản xuất dư thừa. Câu
trả lời của bạn thay đổi như thế nào?
Đáp án
1. Hình dung là có một đầu-vào mà đường cung và đường cầu
được cho bởi các phương trình sau:
Cầu: Q
d
= 1000 - 2P
Cung: Q
s
= 3P - 200
Tưởng tượng rằng một dự án sẽ dùng 100 đơn vị của mặt hàng
nào làm đầu-vào. Tìm giá trị đúng của chi phí của đầu-vào này
trong những điều kiện sau:
A. Không có bóp méo thị trường.
Giá và lượng ban đầu được cho trong đáp số đồng thời của hàm
cầu và cung như sau:
Q
d
=Q
s
1000 - 2P = 3P - 200
1200 = 5P
P = 240, Q
d
= Q
s
= 520
Trong trường hợp này, lượng cầu sẽ tăng lên 100 đơn vị để cho
ta một quan hệ cầu mới Q
d
= 1000 - 2P + 100 = 1100 - 2P
và mức giá cân bằng mới sẽ là
Q
d
=Q
s
1100 - 2P = 3P - 200
1300 = 5P
P = 260, Q
d
= Q
s
= 580
Vì mức giá tăng từ 240 lên 260 do tác động của một dự án thì
250, trung bình của hai mức giá cần được sử dụng như giá trị
của mỗi đơn vị. Tổng chi phí sẽ là $250/đơn vị nhân 100 đơn vị
hoặc là $25,000.
Thật tình cờ, tổng lượng hàng hoá trao đổi trên thị trường tăng từ
mức 520 lên mức 580, tức là tăng lên 60 đơn vị. Tuy nhiên, vì dự
án dùng 100 đơn vị đầu-vào, tiêu dùng tư giảm 40 đơn vị từ 520
xuống còn 480.
B. Đóng một khoản thuế là $50/đơn vị cho chính phủ có vị thế
Thêm một khoản thuế vào thị trường bao hàm việc phải viết lại
phương trình đường cung như sau:
Q
s
= 3P - 200 > P = Q
s
/3 + 66.67
Và thêm thuế để có được
P = Q
s
/3 + 66.67 + 50 > Q
s
= 3P - 350
Mức cân bằng trước dự án là
Q
d
=Q
s
1000 - 2P = 3P - 350
1350 = 5P
P = 270, Q
d
= Q
s
= 460
Và mức giá không bao gồm thuế là 220.
Dự án tăng cầu lên 100 đơn vị và mức cân bằng sau dự án là
Q
d
=Q
s
1100 - 2P = 3P - 350
1450 = 5P
P = 290, Q
d
= Q
s
= 520
Thế nên dự án tăng tổng lượng lên 60 đơn vị. Song vì thực ra dự
án dùng 100 đơn vị nên số lượng dành cho tiêu dùng tư giảm một
lượng là 40 đơn vị. 60 đơn vị tăng trong tổng sản lượng cần phải
được định giá theo chi phí cận biên, mức giá loại trừ thuế trong
khi 40 đơn vị cắt giảm trong tiêu dùng tư cần phải được định giá
ở giá trị cận biên, chi phí bao gồm thuế.
C. Nộp một khoản thuế là 50/đơn vị cho chính phủ không có vị
thế
D. Việc sản xuất đầu-vào gây ra thiệt hại cận biên bên ngoài là
$20/đơn vị.
E. Đầu vào này được cung cấp bởi một hãng độc quyền với chi
phí cận biên là $100 (thế nên đường cung được đưa ra dưới đây
không còn thích hợp nữa).
2. Một dự án sẽ dùng 10,000 galông xăng. Vì đây là một lượng
tương đối nhỏ nên không mong đợi rằng mức giá thị trường của
xăng sẽ thay đổi do tác động của dự án. Vì các công ty lọc dầu có
năng lực dư thừa nên cung được giả định là co dãn hoàn toàn.
Có hai bóp méo trong thị trường xăng.
A. Thứ nhất, thị trường là cạnh tranh không hoàn toàn nên trong
khi chi phí cận biên của việc cung cấp một galông xăng là $1.00
thì mức giá lại là $1.75. Mặt hàng xăng cũng phải chịu mức thuế
của chính phủ và chính quyền bang tổng cộng là $0.40/galông.
Bàn xem đâu là giá trị dành cho chi phí của xăng dùng trong dự
án.
B. Bây giờ, hãy hình dung rằng thay vì co dãn hoàn toàn, cung là
co dãn không hoàn toàn. Đây có thể là tình huống về mặt ngắn
hạn nếu không có năng lực sản xuất dư thừa. Câu trả lời của bạn
sẽ thay đổi như thế nào?
[1] Nếu một dự án yêu cầu lấy đi một số đơn vị hàng hoá từ
người tiêu dùng cá nhân thì việc định giá thiệt hại bằng cách sử
dụng mức sẵn sàng chấp nhận có thể là đúng hay đền bù cần
thiết cho lượng tiêu dùng bị mất. Việc chính phủ trưng dụng đất
tư để dùng vào việc công sau khi đã đền bù thích đáng là một ví
dụ. Ví dụ này sẽ được bàn tới dưới đây.
[2] Công thức này chỉ đúng một cách tuyệt đối khi đường cung
cầu là tuyến tính. Tuy nhiên, trong phần lớn các trường hợp thì
công thức đó là gần đúng.
[3] Đương nhiên giả định rằng cấp thẩm quyền thu thuế có vị thế.
[4] Đương nhiên giả định rằng chính quyền thu thuế có vị thế.
Nếu nhà chức trách thu thuế không có vị thế thì khoản thuế chi
trả cho một đầu ra bổ sung sẽ là một chi phí. Khoản chi phí này
tương đương với vùng nằm trong hình bình hành ở trên chi phí
bổ sung của việc gia tăng sản lượng trong Hình 4-2.
[5] Ở đây có thể vận dụng các quy tắc markup. Các quy tắc này
cụ thể hoá mức giá tối đa hoá lợi nhuận bằng hàm co dãn và chi
phí biên. Một công ty với chi phí biên C và độ co dãn giá cầu ε sẽ
có mức giá tối đa hoá lợi nhuận là
[6] Điều này được dựa trên các công thức thể hiện trong phần B
ở trên:
[7] Mauskopf, J.A., C.J. Bradley và M.J. French, "Phân tích Chi
phí-Lợi ích của Chương trình Tiêm phòng Viêm gan B cho các
Công nhân có Nguy cơ bị Nhiễm bệnh cao do Nghề nghiệp," Tạp
chí Y học Nghề nghiệp, 33, số. 6 (1991), 691-698.
[8] Jimenez, F. Javier et al, "Phân tích Chi phí Lợi ích của
Chương trình Tiêm phòng Cúm Haemophilus B cho Trẻ em ở Tây
Ban Nha" Kinh tế Dược học, 15 (1), T1 1999, tr.75-83.
[9] Điều này có nghĩa là dự án có thể mua đầu vào với mức giá
kiểm soát trước khi người tiêu dùng tư có được cơ hội mua các
đơn vị đầu vào.
[10] Boardman et al (pp. 94-5) coi 100% mức lương hiện đang áp
dụng là cao hơn mức lương chuẩn và 50% mức lương hiện đang
áp dụng là thấp hơn.
[11] Xem ví dụ trong "Lựa chọn giữa Than đá và Năng lượng
nguyên tử ở Ấn Độ: Một cách Tiếp cận Chi phí-Lợi ích" Tạp chí
Năng lượng và Phát triển, 1987.