Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Tiểu luận "Khủng hoảng tài chính trong khu vực và tác động của nó trước Việt Nam" pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (273.07 KB, 28 trang )


Tiểu luận "Khủng hoảng tài chính trong
khu vực và tác động của nó trước Việt
Nam"
Mục Lục

Lời mở đầu
Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực Châu á - cuộc khủng hoảng lớn nhất
trong khu vực kể từ sau chiến tranh thế giới thứ hai - đã gây ra những hậu quả nghiêm
trọng đối với nền kinh tế trong khu vực và sự tăng trưởng kinh tế thế giới.
Kể từ khi cơn lốc của cuôc khủng hoảng tài chính tiền tệ cuốn theo rất nhiều quốc
gia vào vòng xoáy của nó, đến bây giờ cuộc khủng hoảng đã tạm qua đi, tình trạng thị
trường đã trở nên ổn định hơn, quá trình khôi phục diễn ra mạnh mẽ. Mặc dù vậy các
nước vẫn còn phải tiếp tục lịch trình tái cơ cấu.
Đã có rất nhiều sách báo, các cuộc hội thảo quốc tế và khu vực đã viết và bàn về
cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ, dường như vẫn chưa đủ và người ta vẫn buộc phải
nghĩ về nó, viết về nó vì nó vẫn đang ảnh hưởng và tác động mạnh mẽ đến đời sống
kinh tế xã hội và chính trị của mỗi quốc gia, mỗi khu vực và thế giới. Các tổ chức tài
chính, các trung tâm nghiên cứu quốc tế cũng đưa ra các bài học và dự báo về nguy cơ
của các cuộc khủng hoảng có thể xảy ra trong tương lai.
Tuy không nằm trong tiểu điểm của cơn lốc khủng hoảng, nhưng những ảnh
hưởng và tác động của nó ngày càng được cảm nhận rõ rệt ở Việt Nam, thể hiện qua
những chỉ số giảm đi cụ thể về thương mại, đầu tư, tốc độ phát triển kinh tế và du
lịch…
Hiện nay, chúng ta ngày càng nhận thức rõ được tầm quan trọng của việc nghiên
cứu khủng hoảng, triển vọng và tác động của nó trong bối cảnh đất nước đang tham
gia ngày càng sâu rộng hơn và liên kết khu vực, hội nhập với quốc tế. Đó là chính là
động lực thúc đẩy nhóm chúng tôi chọn đề tài nghiên cứu: “Khủng hoảng tài chính
trong khu vực và ảnh hưởng của nó tới Việt Nam”. Đề tài đã đặt vấn đề nghiên cứu
cuộc khủng hoảng và chiều hướng diễn biến của nó, nhóm nghiên cứu đề tài tập trung
vào phân tích những táac động của cuộc khủng hoảng đến nền kinh tế thế giới nói


chung và Việt Nam nói riêng, những nguyên nhân dẫn đến cuộc khủng hoảng, đề từ
đó rút ra những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam về chính sách phát triển kinh tế và
chính sách kinh tế đối ngoại.
Nội dung đề tài gồm ba phần:Phần 1: Lý thuyết về khủng hoảng tài chính.
Phần 2: Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở Châu Á
Phần 3: Tác động của cuộc khủng hoảng tài chính khu
vực đến Việt Nam và các biện pháp đối phó của
chính phủ.
Sau một thời gian nghiên cứu và nỗ lực hoàn thành nhóm chúng tôi đã cố
gắng phác thảo một bức tranh toàn cảnh về cuộc khủng hoảng và nêu ra một số đánh
giá và ý kiến đóng góp của mình dựa trên cơ sở những nghiên cứu tiến hành trong đề
tài. Song với kiến thức và thời gian có hạn, đề tài của chúng tôi vẫn còn nhiều thiếu
sót. Rất mong được sự đóng góp của thầy giáo và các bạn để đề tài của chúng tôi ngày
càng hoàn thiện hơn.
I/ LÝ THUYẾT VỀ KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH:
Tổng quan về thị trường tài chính:
Khủng hoảng tài chính – tiền tệ có một lịch sử khá dài gắn với sự ra đời và phát triển
của hệ thống tài chính trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa (TBCN) và phát triển của hệ
thống tài chính trong nền kinh tế TBCN. Để tìm hiểu về khủng hoảng tài chính
(KHTC) ta cần bắt đầu từ các luồng vốn (tiền và giống như tiền). Trên con đường đó
hình thành vô số các quỹ (Nhà nuớc, doanh nghiệp), trung gian tài chính và tổ chức,
gia đình , cá nhân hay nói cách khác dòng luân chuyển đó là tập hợp của vô số quỹ
với các mối quan hệ chằng chịt giữa các quỹ này tạo nên một hệ thống tài chính. Vậy
ta có thể định nghĩa tài chính là tập hợp các quỹ tiền và giống như tiền cùng với các
mối quan hệ giữa chúng bao gồm cả nội tệ, ngoại tệ với ba chức năng chủ yếu là
thước đo giá trị, phương tiện thanh toán và phương tiện cất trữ. Giống như tiền tức là
những thứ có đủ ba chức năng chủ yếu của tiền đồng thời phải có khả năng chuyển
thành tiền dễ dàng (có tính thanh khoản). Tóm lại ta có:

F= Tổng (Fs, Fif, Fe, Fp, Fo) x K

Trong đó: F: Tài chính hay hệ thống tài chính
Fs: Quỹ tài chính Nhà nước
Fif: Quỹ trung gian tài chính gồm quỹ ngân hàng và tài chính phi
ngân hàng
Fe: Quỹ tài chính doanh nghiệp
Fp: Quỹ cá nhân và hộ gia đình
Fo: Các quỹ khác
K: hệ số biểu hiện năng lực hệ thống tài chính
K được quy định bởi trình độ quản lý của nhà nước, luật pháp, năng lực quản lý của
quỹ, mức độ (số lượng và chất lượng) quan hệ giữa các quỹ, môi trường tự nhiên - xã
hội, nhận thức của nhân dân và nhiều yếu tố khác nữa. Bản thân K cũng trở thành một
hàm số phức tạp chưa kể yếu tố tham gia của bên ngoài vào tài chính của mỗi quốc
gia và sự tham gia đó biểu hiện ngay trong từng quỹ cấu thành nên hệ thống tài chính
quốc gia, vì hệ số K biến động theo từng giai đoạn nên ta chỉ có thể xác định giá trị
tương đối của nó từ đó có thể viết:

F= Tổng (Fs x Ks, Fif x Kif, Fe x Ke, Fp x Kp, Fo x Ko) x Tổng K
Trong đó: (0<F (k<=1 hay 0<=C<K(k)<=S<=1)
K(k)= 0 hay K(k)=1, là hai trường hợp tuyệt đối không tồn tại trong thực tế biểu thị
hệ thống tài chính hoàn toàn đổ vỡ hay hoạt động trong trạng thái hoàn hảo lý tưởng.
K(k) C (S,1) cho thấy tình trạng ổn định tài chính
K(k) C (0,C) tương ứng với trạng thái KHTC
K(k) C (C, S) chứng tỏ tình hình tài chính mất ổn định, thiếu vững chắc và xuất hiện
các dấu hiệu có thể xảy ra khủng hoảng.
Vậy khủng hoảng tài chính là gì? Khủng hoảng tài chính là tình trạng tài chính
(quỹ) mất cân đối nghiêm trọng dẫn đến sụp đổ quỹ.
Đặc trưng của mỗi quỹ và cấu thành hệ thống tài chính là các dòng tiền hay giống
như tiền vào trừ đi tiền ra, nhận trừ đi thanh toán… hình thành tài sản nợ trừ có khi
xảy ra hiện tượng mất cân đối nghiêm trọng giữa tài sản có và nghĩa vụ phải thanh
toán về số lượng thời hạn, chủng loại tiền (giống như tiền) thì có thể xảy ra khủng

hoảng tài chính. Như vậy KHTC là khái niệm bao trùm được sử dụng chung cho mọi
loại khủng hoảng gắn với mất cân đối về tài chính và thường là gắn với nghĩa vụ phải
thanh toán lớn hơn nhiều phương tiện dùng để thanh toán tại một thời điểm nào đó.
Chính vì vậy KHTC có đặc điểm của khủng hoảng “thiếu” chứ không giống khủng
hoảng thừa diễn ra trong nền kinh tế thị trường từ nhiều năm nay.
Các khái niệm về khủng hoảng tài chính:
- Khủng hoảng tài chính là việc mất niềm tin vào giá trị của đồng tiền hoặc những tài
sản tài chính khác khiến cho các nhà đầu tư quốc tế thu hồi quỹ đầu tư của họ ra khỏi
quốc gia bị khủng hoảng. (Nguồn: Các khái niệm trên mạng)
- Khủng hoảng tài chính là tình trạng mà trong đó một bộ phận của nền tài chính có
những khoản nợ lớn hơn giá trị tài sản thực có trên thị trường gây ảnh hưởng tới các
cán cân đầu tư khác, dẫn tới sự sụp đổ của không ít công ty tài chính, dẫn tới việc
chính phủ bắt buộc phải có những can thiệp. (Định nghĩa của Sundarajan và Balino
năm 1991)
- Khủng hoảng tài chính là sự đổ vỡ của thị trường tài chính mà trong đó do những
lựa chọn bất lợi và tâm lý hoang mang đã trở nên xấu đi, dẫn đến hậu quả thị trường
tài chính không thể có những quỹ hiệu quả cũng như cơ hội đầu tư tốt nhất. (Định
nghĩa của Mishkin)
Một số dạng khủng hoảng đặc thù:
Khủng hoảng ngân hàng: rất hay gặp do ngân hàng là trung gian tài chính nhận tiền
gửi của các thể nhân và pháp nhân để cho vay nên rủi ro dồn cả về mặt số lượng,
thừoi hạn cũng như chủng loại tiền. Ngân hàng có thể lâm vào khủng hoảng do cho
vay quá mức và không thu hồi lại được dẫn đến tỷ lệ nợ quá hạn cao làm ngân hàng
không thể thanh toán các nghĩa vụ khi đến hạn. Ngân hàng là một hệ thống chặt chẽ
nên khủng hoảng rất dễ lây lan và tạo khủng hoảng cả hệ thống ngân hàng. Trong
trường hợp khủng hoảng các Ngân hàng thương mại thường có xu hướng siết chặt các
điều kiện tín dụng hay nâng lãi suất để bù đắp rủi ro và kết quả là đẩy các doanh
nghiệp – bạn hàng chủ yếu của ngân hàng vào tình thế khó khăn do thiếu nguồn tài
chính để hoạt động.
Khủng hoảng nợ quốc gia: trường hợp một quốc gia vay nợ nước ngoài (vay chính

thức, vay thương mại) qua nhiều, sử dụng không hiểu quả vốn nên không trả được nợ
đúng hạn, lâm vào khủng hoảng nợ buộc phải xin hoãn nợ, xoá nợ thậm chí phải
tuyên bố vỡ nợ (như trường hợp của CHDCND Triều Tiên). Khủng hoảng nợ xảy ra
khá nhiều ( Argentina mới đây hay nhiều nước Châu Phi vừa qua) cùng với tiến trình
toàn cầu hoá kinh tế do các điều kiện vay nợ nước ngoài trở nên dễ dàng hơn.
Khủng hoảng tiền tệ: là hiện tượng không đủ ngoại tệ để thanh toán các nghĩa vụ
đến hạn hay đáp ứng nhu cầu cả thực tế và giả tạo do đầu cơ buộc chính phủ phải
dùng quỹ dự trữ ngoại tệ để duy trì tỷ giá hối đoái hoặc phá giá nội tệ cho nội tệ mất
uy tín nhanh chóng.
Khủng hoảng thị trường chứng khoán: với tư cách là đỉnh cao của kinh tế thị
trường, thị trường chứng khoán rất nhạy cảm và phức tạp nên cũng dễ đổ vỡ. Khủng
hoảng thị trường chứng khoán xảy ra khi giá chứng khoán biến động mạnh (“tuột
dốc” hay “không thang” quá nhanh) ngoài tầm kiểm soát và do hiệu ứng “bầy đàn”
làm cho chứng khoán bị “bán đổ, bán tháo” hay thị trường bị “đông cứng” vì không
có giao dịch tạo ra sự thâm hụt giữa tiền (chứng khoán) vào so với tiền ra thị trường
chứng khoán (quỹ chứng khoán)
Khủng hoảng cán cân thanh toán (cán cân vãng lai), cán cân vốn (còn được gọi
là tài khoản) là cấu thành quan trọng nhất của tài khoản quốc gia: khủng hoảng
xảy ra khi cán cân này thâm hụt quá nặng trong thời gian dài và không có nguồn bù
đắp. Khủng hoảng cán cân vãng lai thường xảy ra khi cán cân thương mại (nhập trừ
đi xuất) bị thâm hụt và khủng hoảng cán cân thanh toán khi tổng cácluồng ngoại tệ ra
lớn hơn ngoại tệ vào (cán cân vãng lai, tài khoản vốn) gây nên thâm hụt nặng nề.
Khủng hoảng khả năng tính thanh khoản: nếu các loại khủng hoảng tài chính ở
trên liên quan tới cả ba mặt số lượng, thời hạn và chủng loại tiền (và giống như tiền)
thì khủng hoảng tình thanh khoản là sự mất cân đối chủ yếu liên quan tới thời hạn và
chủng loại của “giống như tiền” và một số loại tài sản đặc thù.
Khủng hoảng ngân sách: NSNN thâm hụt nặng và kéo dài trong khi các nguồn thu
bù đắp thâm hụt (in tiền, vay nợ trong và ngoài nước) bị hạn chế hay không thể lạm
dụng hơn nữa nếu muốn tránh hậu quả như vỡ nợ hay bùng nổ lạm phát.
Trên đây là những dạng khủng hoảng tài chính cơ bản và trong tương lai có thể xuất

hiện nhiều dạng nữa cùng với sự phát triển của tài chính trong tiến trình phát triển và
hội nhập kinh tế quốc tế.
1. Các phương pháp dự báo khủng hoảng tài chính:

4.1.Phương pháp chỉ tiêu:
Từ những kết quả phân tích nói trên ta có thể rút ra được một số kết luận rằng: diễn
biến của tỉ giá thực, cán cân thương mại hoặc cán cân vãng lai, tiền lương thực tế và
lãi suất là những chỉ số quan trọng cảnh báo về một cuộc khủng hoảng.
Ví dụ: Thái Lan – Một số chỉ tiêu kinh tế vĩ mô
Chỉ tiêu 1992 1993 1994 1995 1996
Tốc độ tăng GDP (%) 8.1 8.3 8.7 8.7 6.7
Chỉ số giá CPI (%) 4.1 3.4 5.2 5.7 5.8
Thâm hụt cán cân thương mại (tỉ
USD)
-6.3 -6.4 -8.1 -13.6 -15.3
Tốc độ tăng xuất khẩu (%) 13.7 13.4 22.2 24.7 -1.8
Tốc độ tăng nhập khẩu (%) 6.0 12.2 18.5 31.6 3.1
Nợ nước ngoài (tỉ USD) 39.6 45.8 60.1 75.6 83.0
4.2. Phương pháp dự báo dựa trên các nguy cơ:
Dựa trên thực tế cuộc khủng hoảng diễn ra năm 1997 ảnh hưởng nặng nề tới Thái Lan
và Hàn Quốc các nhà kinh tế học đã xây dựng mô hình “Các nguy cơ khủng hoảng và
cơ chế phát sinh khủng hoảng kinh tế – tài chính”.
Bốn nguy cơ tích luỹ khủng hoảng:
- Sự kém hiệu quả của các doanh nghiệp.
- Sự kém hiệu quả của các ngân hàng, công ty tài chính.
- Sự lên giá của đồng nội tệ
- Nguy cơ quốc gia mất khả năng thanh toán.
Tác động mang tính quyết định từ bên ngoài đó là sự rút vốn tài chính của các nhà
đầu tư nước ngoài.
a. Phương pháp xác định các chỉ số cảnh báo chủ chốt:

Theo ý kiến của Kaminsky, Lizondo và Reinhart đã chọn ra những chỉ số có khả năng
cảnh báo tốt nhất. Cả ba người đều cho rằng:
- Một hệ thống cảnh báo tin cậy cần cần bao quát nhiều chỉ số khác nhau bởi lẽ
khủng hoảng tiền tệ thường là hậu quả của nhiều vấn đề kinh tế – xã hội, tâm lý
và đôi khi còn mang tính chất chính trị phức tạp.
- Những biến số thường được sử dụng với danh nghĩa là những chỉ số cảnh báo về
một cuộc khủng hoảng tiền tệ có thể là: dự trữ ngoại tệ giảm dần, nội tệ lên giá,
tăng trưởng tín dụng quá mức và lạm phát gia tăng, tình trạng tồi tệ của cán cân
thương mại kết quả của xuất khẩu và tốc độ tăng trưởng của GDP thực tế cũng
như sự gia tăng trong lượng tiền cung ứng, tỉ lệ khối tiền tệ mở rộng (M2 hoặc
M3) so với tổng dự trữ quốc gia và thâm hụt ngân sách cũng là những chỉ số quan
trọng cần được tính đến.
- Đối với các chỉ số khác những kết luận mang tính chất thử nghiệm vì chúng chỉ
được rút ra chủ yếu từ một hoặc hai công trình nghiên cứu trên lĩnh vực này. Như
vậy một biên số tài chính, thể chế và chính trị cũng ít nhiều hiệu lực trong dự báo
các cuộc khủng hoảng tài chính.
- Các biến số liên quan tới nợ nước ngoài không có ý nghĩa nhiều lắm. Mặt khác
trái với thông lệ cán cân vãng lai không nhận được nhiều sự đồng tình trong vai
trò một chỉ số cảnh báo tin cậy về một cuộc khủng hoảng. Điều này có thể là do
những thay đổi của tỷ giá hối đoái đã phản ánh diễn biến của cán cân vãng lai
trong phần lớn của các công trình nghiên cứu, người ta thấy rằng khi mà ảnh
hưởng của cán cân vãng lai không nhiều lắm thì ở đó các tỷ giá hối đoái thực
cũng không có tác dụng.
Một số phương pháp ngăn ngừa cơ bản:
Tại cuộc họp các bộ trưởng tài chính tại Washington tháng 5 năm 1999, người ta
thông qua bản kế hoạch ngăn ngừa khủng hoảng như sau:
- Tránh sự tác động qua lại giữa mất cân đối bảng cân đối tài chính của ngân hàng
với tỷ giá cố định.
- Nhiều ý kiến cho ràng chính ngân hàng ở các thị trường mới nổi có thể và cần
phải ngăn cản những khoản vay ngoại tệ ngắn hạn nhiều rủi ro.

- Tránh áp dụng chế độ tỷ giá cố định là một biệnpháp quan trọng làm cho rủi ro
tiền tệ không được bảo hiểm trở nên rõ ràng và đơn giản hơn, song vẫn chưa đủ
về những biến động tiền tệ vẫn xảy ra cả khi đã áp dụng chế độ tỷ giá thả nổi.
- Áp dụng biện pháp kiểm soát vốn nghĩa là sử dụng các hình thức cấm đoán song
phải đặc biệt chú ý để không dẫn tới sự lạm dụng,tham nhũng hay tạo những khe
hở.
- Thuế có vẻ như là biện pháp được ưa chuộng, chẳng hạn Chilê đã thành công
đánh thuế những khoản vay bằng ngoại tệ mặc dù biện pháp này khá thô bạo.
Nhiều nhà kinh tế đề xuất các giải pháp ngăn ngừa như sau:
- Nền kinh tế quốc gia không thể dựa chủ yếu vào vốn bên ngoài đặc biệt là vốn
vay ngắn hạn và đầu tư vào thị trường cổ phiều. Nhà nước cần theo dõi và có
chính sách hạn chế vay mượn nước ngoài dù tư nhân hay Nhà nước ở mức độ nền
kinh tế có thể chịu đựng được.
- Xác định đúng tỷ giá hối đoái nhằm tạo tính cạnh trạnh cho xuất khẩu, tăng hiệu
quả sử dụng hàng nhập khẩu. Cân bằng cán cân thương mại đồng thời có biện
pháp ngăn chặn dòng vốn ngắn hạn có tính chất đầu cơ.
- Cần có biện pháp giảm áp lực tăng giá bất động sản tránh tình trạng nền kinh tế
“bong bóng” nhằm tạo môi trường ổn định cho đầu tư và đời sống nhân dân. Tăng
thuế thu nhập do mua đi bán lại trong thời gian ngắn là biện pháp hữu hiệu nhằm
giảm bớt nhu cầu đầu cơ.
- Ngăn chặn tình trạng “bong bóng” trên thị trường cổ phiếu, cần hạn chế người
nước ngoài mua cổ phiếu và vay tín dụng ngân hàng để mua cổ phiếu cũng như
dùng chứng khoán để thế chấp vay mượn.
Kết luận: Theo như trên thì kiểm soát vốn là công cụ ngăn ngừa khủng hoảng tài
chính – tiền tệ hữu hiệu nhất vì:
- Kiểm soát vốn có thể được sử dụng như một phương pháp để đảm bảo sự độc lập
của chính sách tiền tệ.
- Kiểm soát vốn có thể được biện minh như một công cụ nhằm cải thiện an ninh
kinh tế. Sự đảm bảo tuyệt đối của Chính phủ đối với các khoản nợ nước ngoài đi
kèm với hệ thống thông tin tương xứng giữa ngân hàng và các cổ đông (những

người gửi tiết kiệm) cũng đưa đến an sinh xã hội.
- Tự do hoá tài chính là tất yếu khách quan với một quốc gia mong muốn có được
lợi ích đầu tư tăng lên, tăng trưởng nhanh hơn, mức sống cao hơn. Tuy nhiên với
các thị trường tài chính chưa hoàn thiện, các dòng chuyển dịch vốn không ổn định
thì việc kiểm soát vốn sẽ giảm bớt những rủi ro đạo đức, lựa chọn sai, đối xử
không công bằng… nếu có các chính sách hợp lý như thuế, giám sát ngân hàng
sự đảm bảo của chính phủ và pháp luật…
II/ CUỘC KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH TIỀN TỆ Ở CHÂU Á:
Khủng hoảng tài chính châu Á bắt đầu diễn ra vào tháng 7-1997 tại Thái Lan và ảnh
hưởng tới hệ thống tiền tệ thị trường chứng khoán và giá trị các tài sản khác của một vài
quốc gia Châu Á, trong đó có nhiều nước đang được coi là những “chú hổ” châu Á.
Inđônêxia, Hàn Quốc và Thái Lan là những quốc gia bị ảnh hưởng nặng nề nhất bởi cuộc
khủng hoảng này. Hồng Kông, Malayxia, Lào và Philippines cũng bị ảnh hưởng ít nhiều.
Trung Quốc, Ấn Độ, Đài Loan và Singapore thì tương đối không bị ảnh hưởng, Nhật Bản
tuy được cho rằng không bị ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng nhưng cũng gặp phải
những khó khăn về kinh tế trong dài hạn và ngày nay dang dần vượt qua.
1. Tính chất và nguyên nhân của cuộc khủng hoảng:
1.1. .Tính chất:
-Thứ nhất, cuộc khủng hoảng Châu Á mang tính cơ cấu với sắc thái tài chính-tiền tệ rất
đậm nét chứ không phải khủng hoảng chu kì hay sự đổ vỡ của một mô hình phát triển
nào.
-Thứ hai, cuộc khủng hoảng mang tính quốc tế sâu sắc cả về những nguyên nhân, các
tác động lan truyền lẫn những nổ lực nhằm vượt qua khủng hoảng.
-Thứ ba, cuộc khủng hoảng diễn ra theo tính chất lan sóng, ảnh hưởng định chế lẫn
nhau như “Hiệu ứng Đôminô”. Bùng nổ từ cú sốc tỷ giá ngày 2-7-1997 tại Thái Lan, qua
Philippins rồi Inđônêxia, sang Hàn Quốc và Nhật Bản, xu hướng lan truyền còn rộng hơn
và tác động mạnh mẽ hơn, gây ra những tổn thất lớn hơn đối với các nước lâm vào tình
trạng khủng hoảng.
1.2. Các nguyên nhân:
Cuộc khủng hoảng tài chính tiên tệ châu Á, xét theo cả cấp độ quốc gia lẫn khu vực,

chính là kết quả “hợp lực” của sự tác động qua lại giữa ba nhóm nguyên nhân chủ yếu: từ
phía các chính sách vĩ mô của chính phủ, các nhà đầu tư trong nước và các nhân tố bên
ngoài vượt khỏi tầm kiểm soát của các nước khu vực.
*Nhóm nguyên nhân thứ nhất: Sự bất cập trong chíng sách quản lý vĩ mô của Chính phủ.
Trong một thời gian dài, các nước Châu Á đã đạt được những thành tựu kinh tế mà các
nhà kinh tế đã gọi là hiện tượng Châu Á hay một “Châu Á diệu kỳ”. Từ giữa những năm
1960 đến giữa nhũng năm 1990, thu nhập bình quân đầu người tăng lên hơn gần bốn lần
ở Malaixia, Inđônêxia và Thái Lan, 7 lần ở Hàn Quốc. Nhìn chung trong giai đoạn này
cho đến trước khủng hoảng, chúng ta thấy một Đông Nam Á, một Đông Bắc Á được
quản lý tốt, tốc độ tăng trưởng cao liên tục, lạm phát thấp, ngân sách cân đối về cơ bản,
nền kinh tế được tự do hoá ở một mức độ cao. Không có gì cho ta thấy là các nước này sẽ
trượt ra khỏi quỹ đạo tăng trưỏng mạnh trong suốt những thập kỷ đó.
Các chỉ số kinh tế Vĩ mô năm 1996
Các nước Mức tăng
GDP
Lạm phát Thặng dư tài
khoản vãng
lai(%GDP)
Thặng dư khối
hànhchính(%GDP)
Hàn Quốc 7,1 4,5 -4,7 +0,0
Inđônêxia 8,0 6,6 -3,4 +0,6
Thái Lan 5,5 4,8 -8,1 +2,2
Malayxia 8,6 3,3 -4,9 +4,0
(Theo Tính bất ổn của hệ thống tài chính quốc tế-tr.68)
Song đằng sau những thành công mà cả thế giới đều phải ghi nhận là những “tảng đá
ngầm” chứa đựng những nguy cơ tiềm tàng dẫn đến sự bất ổn. Có thể thấy rõ, đó là:
- Sự chậm trễ và cứng nhắc trong điều hành chính sách tỷ giá khiến các đồng bản tệ bị
định giá cao giả tạo trong một thời gian dài so với đông đôla Mỹ. Tỷ giá được giữ ổn
định quá lâu và sự gia tăng một khối lượng lớn vốn nước ngoài ngắn hạn vào trong nước

do chính sách lãi suất cao đã kích thích sự gia tăng giá trị tài sản và cổ phiếu.Nền kinh tế
trở nên nóng hơn, sự tăng giá tài sản, bất động sản và cổ phiếu đã tiềm ẩn trong lòng nó
nguy cơ làm phát sinh một nền kinh tế ảo.
Từ năm 1995-1997, đồng USD đổi chiều liên tục, tăng giá tới 50% so với đồng yên,với
Trung Quốc phá giá đồng nhân dân tệ hơn 30% vào cuối năm 1994 cùng chính sách neo
giữ tỷ giá vào USD nói trên khiến các đồng bản tệ tăng giá giả tạo.
- Chính sách tự do hoá các hoạt động kinh tế không được tiến hành đồng bộ đi đôi với
việc tăng cường giám sát hoạt động của các cơ sở kinh doanh và các tổ chức tài chính
ngân hàng. Tình trạng chung của các nước châu Á lúc bấy giờ là:
+ Nền kinh tế thị trường chưa hoàn hảo.
+ Sự can thiệp khá sâu vào nền kinh tế thông qua chính sách công nghiệp dẫn đến tình
trạng bao cấp và cắt giảm thuế cho một số nghành Công nghiệp trong khu vực.
+Tình trạng thị trường lao động kém linh hoạt ( Hàn Quốc); hệ thống giám sát ngân hàng
không hợp lý, thiếu minh bạch.
Thiếu đồng bộ và tính minh bạch trong hệ thống pháp luật, tình trạng tham nhũng và kinh
tế ngầm phát triển.
- Có sự mất cân đối lớn trong nền kinh tế như là kết qủa của nhưng sai lầm nêu trên. Mất
cân đối lớn nhất và đe doạ trực tiếp đến sự ổn định của hệ thống tài chính-tiền tệ mỗi
nước là sự thâm hụt tài khoản vãng lai và cơ cấu vốn nước ngoài đổ vào trong nước.
Ngoài ra còn có sự kém phát triển của hệ thống giáo dục cộng với tình trạng thiếu lao
động lành nghề, từ đó đẩy giá mức lương lao động lên nhanh hơn so với tốc độ tăng sản
lượng, làm hao mòn sức cạnh tranh quốc tế và gây khó khăn cho viẹc pháat triển những
ngành công nghệ cao.
* Nhóm nguyên nhân thứ hai: Sai lầm của các nhà đầu tư trong nước.
Trước hết phải khẳng định rằng một trong những nguyên nhân hàng đầu gây ra cơn bùng
phát khủng hoảng tài chính tiền tệ hiện nay ở châu Á là do sự “nóng lên” dẫn đến “
khủng hoảng nợ” ở khu vực kinh tế tư nhân. Sự tăng lên ồ ạt của các khoản nợ đã làm
cho nền kinh tế trở nên khó kiểm soát cộng thêm sự kiểm soát hết sức lỏng lẻo của chính
phủ đã làm méo mó cơ chế thị trường dẫn đến sự sút giảm kim ngạch xuất khẩu đồng thời
cơ hội kinh doanh của các doanh nghiệp cũng giảm sút đáng kể.

Trên khía cạnh cơ bản nhất, lý do chủ yếu của cuộc khủng hoảng Châu Á là việc không
làm chủ được quá trình mở cửa tiếp nhận vốn nước ngoài.
Kindleberger đã nhận xét rằng là chi phí sử dụng đồng tiền quá thấp dường như là một
yếu tố quan trọng trong sự bùng nổ của nhiều cuộc khủng hoảng tài chính: yếu tố này
khiến các nhà đầu tư tìm cách lao vào các hoạt động rủi ro hơn để nhằm kiếm được
những khoản lợi nhuận khá hơn.
* Nhóm nguyên nhân thứ ba: Các nhân tố bên ngoài vượt khỏi tầm kiểm soát của các
nước trong khu vực.
- Trước hết, chính sách tiền tệ tín dụng của các nước lớn trong và ngoài khu vực châu Á,
đặc biệt là Mỹ.
- Ảnh hưởng của những hoạt động tiền tệ tín dụng nước ngoài có tính đầu cơ đã thổi
phồng các cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ và làm tăng khả năng lây nhiễm. Chính phủ
cũng đưa lượng cung bản tệ lên quá cao.Theo tính toán của IMF, hầu hết các nước Đông
Nam Á và Đông Bắc Á đều có mức tăng lượng cung tiền hàng năm từ 2-5 lần tốc độ tăng
truởng GDP.
- Sự tham gia của một số nước mới đặc biệt là Trung Quốc và Ấn Độ vào thị trường xuất
khẩu của các nước Đông nam Á. Điều đó làm cho hàng hoá của những nước này mất đi
lợi thế cạnh tranh trên trường quốc tế, xuất khẩu đình trệ.
- Cuối cùng là sự biến đổi nhanh chóng của tương quan cung cầu và vòng đời sản phẩm
trên thị trường thế giới mà trình độ phát triển năng lực sản xuất hiện tại của các nước
Châu Á chưa thể thích ứng kịp trong ngày một ngày hai.
Tóm lại ,xét cho cùng thì những nguyên nhân từ phía bản thân các nước đang chịu khủng
hoảng nặng nề mới là lýdo chính yếu gây nên cuộc khủng hoảng này.
2. Những tác động hai mặt của cuộc khủng hoảng:
Không cần nói nhiều thì chúng ta cũng đã thấy được hậu quả nặng nề mà cuộc khủng
hoảng đã để lại cho các nước Châu Á. Tuỳ theo tình hình thực tế ở mỗi nước, mỗi khu
vực khác nhau mà hậu quả để lại cũng khác nhau. Song nhìn chung, cuộc khủng hoảng đã
tác động đến các nước, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế theo hai hướng khác nhau: các
tác động tích cực và các tác động tiêu cực.
2.1. Các tác động tiêu cực:

Trước hết, hậu quả dễ nhận thấy nhất và phổ biến nhất mà hầu như nước nào nẳm trong
khu vực chịu khủng hoảng cũng gặp phải đó chính là sự mất ổn định của đồng tiền và của
các thị trường tiền tệ ở mỗi nước và khu vực: là sự giảm sút các luồng vốn nước ngoài đổ
vào mỗi nước và toàn khu vực, là sự giảm sút ngay cả nguồn vốn trong nước do lãi suất
cao và yếu tố lòng tin. Tất cả những điều đó đã làm cho giảm sút tốc độ tăng trưởng của
các nước, giảm sức cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu và tăng tài khoản thâm hụt vãng
lai. Sự gắng gỏi giữ giá bản tệ đã làm hao kiệt nhanh chóng lượng dự trữ ngoại tệ của nhà
nước, đồng bản tệ bị phá giá nhanh chóng. Cùng với điều đó là tình trạng thất nghiệp tăng
nhanh, lạm phát cao.
Cuộc khủng hoảng cũng đánh dấu sự kết thúc một giai đoan tăng trưởng kinh tế nhanh,
kéo dài hàng mấy thập kỷ trước đó và dựa vào các nguồn vốn nước ngoài của các nước
đang phát triển khu vực, để chuyển sang một giai đoạn phát triển mới với nhịp độ tăng
trưởng ôn hoà hơn.
Cuộc khủng hoảng đã gây thiệt hại cho các nước châu Á ít nhất là 300 tỷ USD, bằng
khoảng 20% GDP của các nước bị khủng hoảng và thiệt hại chung toàn thế giới khoảng
500 tỷ. Qua đây chúng ta thấy được nhưng tác động có tính chất toàn cầu của cuộc khủng
hoảng này. Lượng đầu tư tài chính ở châu Á giảm mạnh, theo tính toán khoảng 150 tỷ
USD đã bị rút khỏi Đông nam Á. Các nhà đầu tư nước ngoai giảm niềm tin. Đầu tư trực
tiếp nước ngoài FDI bị sút giảm mạnh mẽ và tiếp tục giảm ở mức thấp trong những năm
tiếp theo, kéo theo đó là tình trạng thiếu vốn đầu tư sẽ xảy ra.
Sự phá giá bản tệ đã làm tăng các chi phí dịch vụ nợ và chất thêm gánh nặng nợ nần
lên vai các công ty - con nợ, làm tăng tình trạng mất khả năng thanh toán, phá sản của
chúng, nhất là đối với các Công ty phục vụ thị trường trong nước mà nhu cầu đang giảm
sút nhanh chóng. Ở Inđônêxia, do phá giá tiền tệ, tỷ lệ nợ ngân hàng nước ngoài /GDP đã
nhảy từ 35% lên đến 140%, hầu hết các ngân hàng bị coi là phá sản. Tình hình “bong
bóng bất động sản” vỡ tung, các ngân hàng rơi vào tình trạng gánh chịu một đống nợ khó
đòi hoặc giữ gìn bất đắc dĩ một lượng tài sản thế chấp ngày càng mất giá và khó bán.
Khủng hoảng cũng góp phần làm tăng lên nhanh chóng tình trạng thất nghiệp ở các
nước trong khu vực(gấp đôi trong năm 1998 so với năm 1997 ở Thái Lan, Hàn Quốc và
Inđônxia …) mà còn ở các nước bạn hàng của họ do đó thu hẹp quy mô nhập khẩu vì

khủng hoảng.
2. 2. Các tác động tích cực:
Nhìn một cách khách quan thì cuộc khủng hoảng tài chính bên cạnh gây ra một loạt
các tác động xấu vô cùng sâu sắc kể trên thì trong một chừng mực nào đó,nó cũng mang
lại những tác động tích cực. Đó là đem toàn bộ nền kinh tế châu á nói chung và Đông
Nam Á, Đông Bắc Á nói riêng sang một giai đoạn phát triển mới, thoát khỏi tình trạng
nóng trước đó.
Thứ nhất, việc chuyển sang chính sách tỷ giá linh hoạt sẽ giúp các chính phủ giảm thiểu
được lượng ngoại tệ can thiệp để giữ giá bản tệ như thời gian trước đó, giúp tăng dự trữ
quốc gia về lâu dài, với đồng bản tệ rẻ sẽ khuyến khích và tăng khả năng cạnh tranh xuất
khẩu, từ đó cải thiện những cân đối tài chính của đất nước.
Thứ hai, nhiều nước sẽ nhận được nguồn tín dụng quốc tế chính thức để phục vụ cho
mục tiêu cải cách và phát triển kinh tế sau khủng hoảng. Cuộc khủng hoảng cũng giúp
định hướng lại và cải thiện cơ cấu đầu tư, lành mạnh hoá hơn nền tài chính quốc gia. Có
thể nói cuộc khủng hoảng sẽ như một cú “động” mạnh để xốc lại nền kinh tế cho cân
bằng, hợp lý và hiệu quả. Toàn bộ nền kinh tế sau khi vượt qua giai đoạn khó khăn nhất
của khủng hoảng sẽ có định hướng thị trường nhiều hơn, đầy đủ, sâu sắc và hoàn thiện
hơn, do đó hiệu quả và sức cạnh tranh cao hơn.
Thứ ba, cuộc khủng hoảng ít nhiều góp phần và là dịp để chính phủ và nhân dân mỗi
nước thuộc khu vực cũng như các tổ chức tài chính - tiền tệ quốc tế bổ khuyết những
thiếu sót cả về chính sách, thể chế lẫn về những yếu tố thuộc con người… từ đó tạo ra
những xung lực tích cực mới cho sự phát triển kinh tế.
Ngoài ra, tác động của cuộc khủng hoảng cũng chuyển dịch vị thế về kinh tế chính trị
truyền thống của các cường quốc tại khu vực như Nhật Bản, Trung Quốc, các nước
Asean vầ Mỹ, châu Âu.
3. Diễn biến ở một số nước
3.1. Thái Lan – Ngòi nổ của cuộc khủng hoảng:
Trước cuộc khủng hoảng Thái Lan có một nền kinh tế dường như rất mạnh, với tốc
độ tăng trưởng ổn định và được coi là tấm gương về quản lí kinh tế hiệu quả. Thái
Lan được xếp vào nhóm các nền kinh tế đạt thành tựu cao của Châu Á, lạm phát thấp

ngân sách chính phủ luôn dư thừa, cán cân thanh toán có thể kiểm soát được, đầu tư
tăng vọt, tình trạng thất nghiệp hầu như không có.
Thực tế của hình ảnh mạnh mẽ này lại che giấu nhiều vấn đề nghiêm trọng bên trong.
Do nhận thức muộn mằn, thiếu một sự quản lý tốt kể cả sự quản lý ở cấp chính phủ
lẫn cấp công ty, việc tự do hoá về tài chính các thị trường vốn trở nên dễ bị tác động
bởi các cuộc tấn công của hoạt động đầu cơ khi những yếu tố căn bản của thị trường
còn yếu.
Các doanh nghiệp kinh doanh ngày càng kém phát triển và hiểu quả. Một đặc điểm
đặc biệt ở Thái Lan là trong giai đoạn 1991-1996 đầu tư nước ngoài vào Thái Lan
chiếm tỷ trọng rất nhỏ so với đầu tư tài chính và sử dụng vốn vay ngắn hạn của nước
ngoài. Việc sử dụng gần 90% vốn nước ngoài ở dạng đầu tư tài chính và tín dụng
ngắn hạn sẽ tạo áp lực tài chính rất lớn lên các công ty vì phải trả lãi thường xuyên và
bằng ngoại tệ (với tín dụng ngắn hạn). Hậu quả là nếu quản lý kinh doanh không tốt
thì hiệu quả sản xuất kinh doanh của các công ty sẽ thấp. Tỷ suất lợi nhuận trên tài
sản bình quân của các doanh nghiệp đã giảm từ 8%/ năm vào năm 1991 xuống chỉ
còn 1%/năm vào năm 1996. Trong nền kinh tế mà lãi suất cho vay là 16.3%/năm còn
hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp là 1%/năm thì rõ ràng đã và đang tích luỹ
nguy cơ khủng hoảng “phá sản doanh nghiệp”.
Ngân hàng kinh doanh ngày càng kém hiệu quả, các ngân hàng và công ty tài chính
Thái Lan đã rất tích cực vay nợ từ nước ngoài để tài trợ cho doanh nghiệp trong nước.
Trong cùng thời gian này, tỷ lệ lợi nhuận trên tài sản (ROA) của hệ thống ngân hàng
Thái Lan giảm còn 0,09%/ năm. Rõ ràng Thái đang tích luỹ nguy cơ khủng hoảng
“phá sản các ngân hàng”.
Quốc gia tiến đến bờ vực mất khả năng thanh toán trong suốt các năm 91-96, cán cân
thương mại thâm hụt liên tục tổng cộng là 35,26 tỷ đôla. Thâm hụt tài khoản vãng lai
năm 96 tới 4,7 tỷ đôla. Lý do của tình trạng này là xuất khẩu bị kìm hãm, nhập khẩu
được khuyến khích, lạm phát cao, đồng baht lên giá. Để bù đắp thâm hụt thương mại,
Thái Lan phải vay nợ nước ngoài , nợ nước ngoài tăng 35,99 tỷ đôla (năm 91) lên
89tỷ (năm 96), gấp 2,47 lằn trong 5 năm. Nợ ngắn hạn năm 95 và 96 gấp gần 1,18 lần
dự trữ ngoại tệ quốc gia. Tức là Thái Lan thực tế đã mất khả năng thanh toán nợ nước

ngoài từ năm 95. Kết quả tỷ giá hối đoái tăng, dự trữ ngoại tệ cạn kiệt, nguy cơ mất
khả năng thanh toán của quốc gia này càng cao.
Tóm lại cuối năm 96 và đầu 97 ở Thái Lan đã xuất hiện 4 nguy cơ khủng hoảng ở
mức cao. Khi xuất hiện 4 nguy cơ khủng hoảng, những người có đủ thông tin sẽ lo
lắng, lo sợ ngân hàng và các tổ chức tài chính phá sản sẽ thúc đẩy họ rút tiền ra khỏi
các tổ chức này. Lo sợ tỷ giá hối đoái tăng, đồng baht mất giá khiến họ đổ xô đi mua
ngoại tệ làm cầu ngoại tệ tăng.
- Ngày 4 và 5tháng 3 năm 97 hơn 21, 4 tỷ baht đã được rút khỏi các ngân hàng và
công ty tài chính.
- Sau đó ngày 9 tháng 4 năm 97 chính phủ ra lệnh đóng cửa 16 công ty tài chính,
nâng tổng số công ty tài chính bị đóng cửa lên 58/91 (chiếm 64% toàn quốc). Chính
phủ bán ngoại tệ làm dự trữ ngoại tệ giảm.
- Thấy trước nguy cơ ngày 2/7/1997 chính phủ Thái Lan thả nổi đồng baht. Cùng với
sự phá giá đồng baht là các ngân hàng, các công ty tài chính sụp đổ, tỷ giá hối đoái
tăng cao các doanh nghiệp phá sản hàng loạt là bùng nổ khủng hoảng kinh tế tài chính
ở Thái khởi đầu cho khủng hoảng kinh tế tài chính ở Châu Á.
3.2. Inđônêxia-Hiệu ứng lan truyền của cuộc khủng hoảng:
Inđônêxia là nước đông dân nhất khu vực Đông Nam Á -202 triệu người. Inđônêxia
phát triển liên tục trong suốt 30 năm với nhịp độ tăng trưởng trung bình 6%
GDP/năm. Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ đã bùng nổ ở Thái lan và
nhanh chóng lan tràn vào Inđônêxia. Cũng giống như Thái Lan, cuộc khủng hoảng
mang đầy đủ những nguy cơ và điểm yếu như đã đề cập.
Khủng hoảng tài chính tiền tệ được khởi đầu bằng việc mất giá của đồng Rupiah.
Tháng 7 khi Thái Lan thả nổi đồng baht thì In đônêxia buộc phải nới lỏng khoảng
giao động của tỷ giá từ 8% lên tới 12%. Đến tháng 8 thì đồng Rupiah bắt đầu bị tấn
công. Ngày 14-8 cơ chế ấn định tỷ giá hối đoái bị thaythế bởi tỷ giá hối đoái được thả
nổi tự do. Đồng Rupiah rớt giá mạnh hơn. Mặc dù IMF đã hỗ trợ 23 tỷ USD để giải
quyết hậu quả nhưng đồng Rupiah vẫn rớt giá không cứu vãn được, thời điểm rớt giá
cao nhất lên tới trên 625%. Đồng Rupiah và thị trường chứng khoán Jakarta thấp kỷ
lục trong lịch sử vào tháng 9.

Cuộc khủng hoảng làm cho mức sống người dân giảm xuống rất nhanh. Tỷ lệ thất
nghiệp tăng 4 lần, tỷ lệ người sống dưới mức nghèo khổ tăng 3 lần so với trước khủng
hoảng. Dự trữ ngoại tệ giảm xuống mức thấp nhất từ trước đến nay. Do thời gian ủ
bệnh quá lâu, mức độ khá trầm trọng nên nét đặc trưng của khủng hoảng ở Inđônêxia
là diễn biến của cuộc khủng hoảng với tốc độ cao và những hậu quả nặng nề, kéo dài
hơn so với các nước khác.
3.3. Hàn Quốc-Sự sụp đổ của các tập đoàn kinh tế (Chaebol):
Sau một thời gian hoành hành ở các nước Đông Nam Á như Thái Lan , Inđônêxia,
Malaixia,Philippines… đến tháng 10-1997 khủng hoảng tài chính bắt đầu xảy ra ở
Hàn Quốc. Nhiều nhà kinh té nói, thực chất sự suy thoái kinh tế ở Hàn Quốc là sự
sụp đổ một loạt các tập đoàn kinh tế lớn.
Các tập đoàn kinh tế lớn (chaebol) được coi là những trụ cột của nền kinh tế Hàn
Quốc. Thế nhưng chưa đầy 10 tháng, 7 trong 30 tập đoàn lớn nhất đã gục ngã. Phải
đến khi tập đoàn thép Hanbo-tập đoàn lớn thứ 14 của hàn Quốc gục ngã vì không đủ
sức thanh toán tổng số vốn nợ thì nền kinh tế Hàn Quốc mới thực sự bị chấn động.
Như một bênh dịch có khả năng lan truyền cao, hàng loạt tập đoàn khác lần lượt gục
ngã. Sự đổ vỡ của một loạt tập đoàn lớn đã giáng một đòn nặng nề vào hệ thống tài
chính ngân hàng của nước này vốn vẫn được coi là tụt hậu nhiều so với nền kinh tế.
Mối lo ngại cho ngành tài chính ngân hàng là khả năng trả nợ nước ngoài, và việc
đồng won mất giá.
Ngày 17/11/1997 đồng won giảm quá mức dự đoán là 1000 won/USD và tiếp tục
giảm nhiều trong nhiều ngày sau đó. Ngày 22/11/1997 đồng won giảm xuống mức kỷ
lục là 1153 won/USD, tức là giảm 36,6% so với cuối năm 1996 và 19,5% so với mức
cuối tháng 10/1997. Thị truờng tiền tệ ở Hàn Quốc trở nên náo loạn. Rõ ràng những
gì đang xảy ra ở Hàn Quốc là một cuộc khủng hoảng.
3.4. Nhật Bản - Sự sụt giá của đồng yên:
Vượt qua Hàn Quốc, cơn bão khủng hoảng tài chính tiền tệ tràn vào đất nước mặt trời
mọc - Nhật Bản. Một số công ty chứng khoán ở Nhật Bản bị phá sản, hàng ngàn
nguời lao động mất việc và buộc thủ tướng Hashimoto phải từ chức.
Khủng hoảng tài chính tiền tệ ở Nhật bản khởi đầu bằng việc sụt giá của đồng yên từ

tháng 5/1998 có lúc lên cao 146,5 yên/ USD vào cuối tháng 8/1998 ở mức 145,5
yên/1USD. Tốc độ tăng trưởng chậm một cách đáng nhớ trong năm 1997, từ năm 5%
xuống còn 1,6% và chìm đắm trong suy thoái 1998.
Như vậy sự yếu kém và mức độ bất ổn cao của đồng yên đã làm thay đổi tính chất
của cuộc khủng hoảng. Không còn đơn thuần là cuộc khủng hoảng tài chính mà nó
biến thành cuộc khủng hoảng kép ( khủng hoảng tài chính tiền tệ), kèm theo nguy cơ
của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn diện.
Trên phạm vi toàn cầu, cơn bão tiền tệ Nhật Bản cũng đang chứng tỏ sức mạnh tàn
phá của mình. Thị trường chứng khoán khắp nơi rung lên theo động thái lên xuỗng
thất thường của đồng yên. Số phận của đồng USD và thị trường chứng khoán Hồng
Kông đang đứng trước một thử thách mới gay gắt. Thực tế là tháng10/1997 thị trường
chứng khoán Hồng Kông sụp đổ. 27/10/1997 chỉ số công nghiệp Dow Jones giảm
mạnh 554 điểm, thị trường chứng khoán New York tạm thời đóng băng.
3.5. Trung Quốc – một bức tường thành:
Kể từ khi biến động tài chính nổ ra ở Thái Lan tháng 7 năm 1997 và đã gây ra cuộc
khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực Châu Á, đến nay Trung Quốc là nước duy nhất
đứng ngoài cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á và luôn là điểm sáng là đầu tầu tăng
trưởng của khu vực này.
Do cuộc khủng hoảng, kim ngạch xuất nhập khẩu của Trung Quốc bắt đầu giảm từ
tháng 7/1997, xong mức giảm sút không nghiêm trọng lắm. Tỷ giá hối đoái của đồng
yuan về cơ bản vẫn giữ được ổn định. Chỉ số tháng 1, tháng 6 và tháng 12 năm 1996
tương ứng là 105,82%; 107,16%; 109,08%. Như vậy sự biến động ở mức khá ổn định
trong năm này. Do tỷ giá hối đoái của các đồng tiền Đông Nam Á và đồng Won nối
đuôi nhau giảm xuống làm cho thị trường Trung Quốc có thể bị ảnh hưởng chút ít bởi
cuộc khủng hoảng nhưng có một điều chắc chắn rằng thị trường tài chính của Trung
Quốc sẽ vẫn ổn định và đồng yuan sẽ được duy trì một cách an toàn.
3.6. Phillipnes:
Ngân hàng trung ương tăng lãi suất lên 1, 75% vào tháng 5 năm 1997, tiếp tục tăng
lên 2% vào ngày 19 tháng 6. Ngay khi Thái Lan bị khủng hoảng vào ngày 2 tháng 7
thì một ngày sau đó ngân hàng trung ương Phillipines bị buộc phải can thiệp để bảo

vệ đồng peso tuy vậy đồng peso vẫn rớt giá một cách không ngờ, từ 26 peso/ USD tại
thời điểm bắt đầu khủng hoảng, xuống mức 38 peso/ USD vào năm 2000, tại thời
điểm cuối cuộc khủng hoảng thì con số này là 40 peso/ USD. Tại thị trường chứng
khoán Phillipines, chỉ số PSE giảm xuống còn 1000 điểm từ mức 3000 điểm vào năm
1997. Cuộc khủng hoảng này đã dẫn tới sự ra đi của tổng thống Joseph Estrada, thay
thế vị trí của ông là bà Gloria Macapagal-Arroyo, bà là người đưa đất nước
Phillipines ra khỏi cuộc khủng hoảng này.
3.7. Malaysia:
Năm 1997, quốc gia này có một lượng lớn tài khoản vãng lai thâm hụt 6% GDP.
Tháng 7, đồng Ringgit bị tấn công bởi những kẻ đầu cơ bằng việc bán đi một cách bất
hợp pháp các cổ phần có nguồn gốc Malaysia ở Singapore. 4 ngày sau, Standard &
Poor’s đánh giá thấp tỷ lệ nợ của Malaysia. 1 tuần sau, thị trường chứng khoán Kuala
Lumpur sụt xuống còn 856 điểm, thấp nhất kể từ 1993. Mùng 2 tháng 10, đồng
Ringgit lại một lần nữa rớt giá, thủ tướng Mahathir bin Mohamad ngay lập tức đưa ra
chương trình kiểm soát vốn. Tuy nhiên, hệ thống tiền tệ vẫn không tránh khỏi sự sụp
đổ vào cuối năm 1997 khi thủ tướng tuyên bố sẽ sử dụng 10 tỷ Ringgit vào các kế
hoạch đường bộ, tàu điện và ống dẫn dầu. Năm 1998, sản lượng đầu ra của nền kinh
tế bị suy giảm. Sản lượng của khu vực xây dựng rút xuống 23,5%, ngành công nghiệp
thu hẹp 9% còn nông nghiệp là 5,9%. Xét tổng thể thì GDP của Malaysia giảm mạnh
6,2% năm 1998.
3.8. Singapore:
Luôn được coi là một nền kinh tế tương đối khoẻ mạnh so với các nước trong khu
vực trong suốt thời kì khủng hoảng nhưng đương nhiên là quốc gia này vẫn bị ảnh
hưởng ít nhiều. Tuy nhiên, xét về tổng thể thì khả năng chèo lái đất nước ra khỏi cuộc
khủng hoảng vẫn được chú ý rộng rãi, chính sách tài khoá của Singapore rất đáng để
cho các quốc gia láng giềng học tập. Là một nền kinh tế mở, đồng đôla Singapore
cũng được mở tự do cho thị trường đầu cơ ngay từ 1985. Nền kinh tế đủ năng động
để khiến Singapore trở thành một quốc gia có chỗ đứng độc lập, chính phủ Sing quản
lý tỉ giá hối đoái để tránh khả năng tấn công của đầu cơ. Tuy đồng tiền của quốc gia
này được coi là đồng tiền mạnh nhất ASEAN vậy mà vẫn bị rớt giá 10% so với đồng

đôla Mỹ trong suốt thời kì khủng hoảng.
4. Vai trò của IMF và bài học rút ra:
IMF chịu trách nhiệm bảo vệ sự ổn định của hệ thống tiền tệ quốc tế. Vì vậy, vai trò
trung tâm của IMF trong việc giải quyết cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á là rất rõ
ràng và đã được tái khẳng định bởi cộng đồng quốc tế trên nhiều diễn đàn đa phương.
Ưu tiên của IMF cũng rất rõ ràng: Khôi phục lòng tin vào các nền kinh tế bị khủng
hoảng tác động.
Phản ứng tức thì của IMF với cuộc khủng hoảng nhằm khôi phục lòng tin vào các
quốc gia bị ảnh hưởng gồm các hoạt động cụ thể như sau:
Áp dụng phương thức tỷ giá hối đoái linh hoạt ở những nơi chưa sử dụng phương
thức này:
- Tạm thời thắt chặt chính sách tiền tệ để hạn chế áp lực đối với cán cân thanh toán.
- Hành động tức thì để khắc phục những đặc điểm dễ thấy trong hệ thống tài chính,
đã cấu thành những yếu tố chính gây nên khủng hoảng.
- Cải cách cơ cấu nhằm xoá bỏ những đặc điểm yếu kém của nền kinh tế gây cản
trở cho sự phát triển (như độc quyền, hàng rào mậu dịch, thông lệ không minh
bạch trong hoạt động của doanh nghiệp) và cải thiện hiệu quả của các định chế tài
chính trung gian cũng như tính lành mạnh của hệ thống tài chính tương lai.
- Nỗ lực khai thông hoặc duy trì những kênh tài trợ từ nước ngoài.
- Duy trì chính sách tài chính lành mạnh, bao gồm chính sách tăng ngân sách chi
cho cơ cấu lại ngành tài chính, trong khi vẫn đảm bảo chi tiêu xã hội.
- Cải cách cơ cấu mạnh mẽ, sâu rộng và hạt nhân cuả tất cả các chương trình, đánh
dấu bước phát triển quan trọng trong những chương trình mà IMF đã tài trợ trong
quá khứ, những vấn đề tồn tại trong các quốc gia là sự mất cân bằng, phản ánh
chính sách kinh tế vĩ mô không phù hợp.
- Dù được thiết kế phù hợp với hoàn cảnh đặc thù từng quốc gia, trong mọi trường
họp chương trình vẫn nhằm thực hiện các mục tiêu:
+ Đóng cửa các tổ chức tài chính không còn khả năng tồn tại, cùng với điều chỉnh
dòng vốn của các cổ đông.
+ Tái cơ cấu nguồn vốn cho các định chế thiếu vốn.

+ Tăng cường sự tham gia của nước ngoài vào hệ thống tài chính trong nước nhằm
giải quyết các vấn đề về quản lí nhà nước đã góp phần gây nên khủng hoảng. Việc
cải cách hệ thống tài chính đang được củng cố bằng các biện pháp được thiết kế
nhằm cải thiện hiệu quả của các thị trường, phá vỡ mối liên hệ chặt chẽ giữa các
doanh nghiệp và chính phủ, triệt để tự do hoá thị trường. Tính công khai phải
được tăng cường, cả trong việc công bố các dữ liệu kinh tế (cụ thể là về dự trữ
ngoại tệ và nợ) lẫn trong hoạt động tiết lộ thông tin của khu vực tài chính, doanh
nghiệp và khu vực ngân hàng.
Các biện pháp bổ sung do IMF thực hiện dể đối phó với cuộc khủng hoảng:
Ngoài các biện pháp đã nêu, IMF còn bổ sung thêm vào các biện pháp như thiết kế
chương trình và cung cấp nguồn tài chính để hỗ trợ với các bước đã thực hiện sau
đây:
- Hội đồng quản trị tự quản lý đã sử dụng trình tự quản lý nhanh được thiết lập theo
cơ chế tài trợ khẩn cấp và điều khoản về tình trạng đặc biệt, để đáp ứng nhu cầu
ngoại tệ của các nước thành viên về thời gian phê duyệt và khối lượng tài trợ.
- Chương trình dự trữ bổ sung đã được tạo lập để phục vụ các quốc gia thành viên
trong tình trạng đặc biệt đang gặp khó khăn nghiêm trọng về cán cân thanh toán do
nhu cầu lớn về tài chính ngắn hạn phát sinh từ việc mất lòng tin của thị trường.
- Sự phối hợp giữa IMF với các định chế tài chính quốc tế khác, đặc biệt là ngân hàng
thế giới và ADB cũng như với các nhà tài trợ song phương, nhằm tập trung sự giúp
đỡ thực sự của cộng đồng quốc tế đối với chương trình cải cách kinh tế ở các quốc gia
chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính.
- Tăng cường cấp độ đối thoại giữa IMF với cử tri ở các quốc gia, tham gia chương
trình đã được khởi xướng, bao gồm cả việc tham khảo ý kiến của các nhóm lao động
và những mối liên hệ rộng mở với giới báo chí và công chúng .
- Các chương trình của IMF đã được tiếp tục bằng các nỗ lực hợp tác giữa các ngân
hàng, chủ nợ quốc tế và các con nợ ở các quốc gia bị ảnh hưởng nhằm giải quyết
những khó khăn nghiêm trọng trong việc tài trợ cho khu vực tài chính tư nhân vốn là
trung tâm của cuộc khủng hoảng.
- Các biện pháp tạm thời đã được thực hiện khi cần thiết, bao gồm việc bổ nhiệm phó

tổng giám đốc điều hành IMF - Prabhakar Narvekar làm cố vấn đặc biệt của tổng
thống Inđônêxia, thành lập các văn phòng đại diện tại Hàn Quốc và Thái Lan và hàng
loạt các hoạt động thông qua văn phòng khu vực Châu Á Thái Bình Dương của IMF
mới được thành lập.
Trước nhu cầu cấp thiết đối với việc phối hợp cộng đồng quốc tế đối phó với khủng
hoảng và sự bất ổn lớn ở Châu Á, các chương trình IMF trợ giúp, đã gặp phải sự dò
xét của nhiều bình luận viên. Tuy nhiên, một số ý kiến phê phán là dựa trên những
nhìn nhận sai lầm về phản ứng của IMF đối với những sự kiện ở Châu Á.
Những bài học từ cuộc khủng hoảng:
IMF đã xác định 6 khu vực chính mà những sáng kiến đã được đưa ra cần phải được
tăng cường:
- Giám sát có hiệu quả hơn chính sách và thực thi chính sách kinh tế của các quốc
gia, hỗ trợ bằng quá trình công khai hoá đầy đủ hơn tất cả dữ liệu kinh tế và tài chính
quan trọng. IMF đã lập và sẽ tiếp tục cải tiến các chuẩn mực dữ liệu để hướng dẫn các
quốc gia thành viên công bố dữ liệu một cách đáng tin cậy và kịp thời.
- Cải cách lĩnh vực tài chính, kể cả việc ban hành các quy định an toàn và giám sát
cao hơn.
- Việc nuôi dưỡng quá trình tự do hoá tài khản vốn được tiến hành từng bước có trật
tự và bài bản để tối đa hoá lợi nhuận, giảm thiểu rủi ro của sự tự do di chuyển vốn.
- Thúc đẩy quá trình giám sát trong khu vực.
- Nỗ lực trên khắp thế giới để thúc đẩy quản lý nhà nước để chống tham nhũng.
- Những cơ cấu hữu hiệu hơn để giải quyết nợ một cách tuần tự,kể cả luật phá sản tốt
hơn ở cấp độ quốc gia và các giải pháp tốt hơn ở cấp độ quốc tế,để liên hiệp các chủ
nợ và các nhà đầu tư của lĩnh vực tư nhân với các nỗ lực chính thức để giải quyết các
vấn đề nợ quốc gia và nợ tư nhân.
Tất cả các bước ở trên nhằm phục vụ cho mục tiêu dài hạn trong giải pháp của IMF
đối với cuộc khủng hoảng Châu Á, cho phép nền kinh tế bị tác động ở Châu Á phát
triển mạnh mẽ hơn, nhanh chóng phục hồi tăng trưởng và giúp tăng cường hệ thống
tiền tệ quốc tế, đương đầu với những thử thách trong thế kỷ tới.
III. TÁC ĐỘNG CỦA CUỘC KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH KHU VỰC TỚI VIỆT

NAM VÀ CÁC BIỆN PHÁP ĐỐI PHÓ VỚI KHỦNG HOẢNG CỦA CHÍNH PHỦ:
Quá trình phát triển kinh tế Việt Nam được chia thành hai giai đoạn trước “đổi mới”
và sau “đổi mới”. Trước đổi mới là thời kì từ năm 1976 đến năm 1985, sau đổi mới là
giai đoạn từ năm 1986 đến nay. Hiện tại nền kinh tế Việt Nam đang chuyển đổi từ
nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế mở. Từ khi “đổi mới” Việt Nam
ngày càng mở rộng cửa hướng tới khu vực và thị trường thế giới, do đó cũng đã phải
chịu những ảnh hưởng nhất định từ cuộc khủng hoảng tài chính khu vực 1997. Trên
con đường chuyển đổi cơ chế và hội nhập Việt Nam đã đạt được không ít thành tựu
cũng như phải đối đầu với không ít thách thức.Trong tiểu luận này chúng ta chỉ xét
đến nền kinh tế Việt Nam kể từ thời kì mở cửa, khi mà đất nước ta có những ảnh
hưởng bởi cuộc khủng hoảng tài chính ở Châu Á.
Tác động tiêu cực:
Xét về lĩnh vực thương mại, dưới thời kì kế hoạch hoá, Việt Nam kiểm soát chặt chẽ
việc giao dịch thương mại nước ngoài. Tại thời điểm đó, Liên Xô cũ và Đông Âu là
những đối tác thương mại chính của Việt Nam. Tất cả mọi giao dịch đều do các
doanh nghiệp nhà nước thực hiện.
Sau đổi mới năm 1986, xuất khẩu được coi là mục tiêu số một. Rất nhiều chính sách
đã được thi hành. Tự do hoá thương mại bằng việc giảm bớt sự hạn chế của hệ thống
thuế quan và phi thuế quan nhằm khuyến khích người xuất khẩu. Năm 1990, tỷ lệ
tăng trưởng của xuất khẩu đạt 23,5%. Năm 1991, tỷ lệ này giảm xuống -13,2% bởi sự
tan rã của Liên bang Xô viết và Đông Âu, những đối tác thương mại chính của Việt
Nam. Những năm sau, Việt Nam đã tìm kiếm nhiều thị trường xuất khẩu mới, đó là
các quốc gia Đông Á như Singapore, Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc. Tốc độ tăng
trưởng thương mại tăng nhanh vượt 30% năm 94, 95, 96. Những con số này có xu
hướng giảm từ năm 94 và giảm mạnh vào năm 97 và 98 do bị ảnh hưởng bởi khủng
hoảng ở Châu Á vì nước ta chủ yếu dựa vào thị trường này để phát triển xuất khẩu.
Về nhập khẩu, tỷ lệ này là 7,3% năm 1990, sau đó giảm xuống -15,1% năm 1991, sau
sự tan rã của Liên Xô cũ và Đông Âu. Tỷ lệ tăng trưởng xuất khẩu đã tăng lại và đạt
tới 54,4% năm 93. Nhập khẩu tăng mạnh như vậy bởi quá trình phát triển công
nghiệp cần nhiều nguyên liệu và trang thiết bị. Đến năm 94 thì con số nhập khẩu lại

giảm xuống vì nên kinh tế bị ảnh hưởng bởi khủng hoảng tài chính khu vực, giảm
xuống 4% năm 97 và -0,8% năm 98.
Nguồn vốn FDI, nói chung nguồn vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài vào Việt Nam
phát triển qua 3 giai đoạn khác nhau, từ 1988 đến 1990, từ 1991 đến 1995 và từ 1996
đến nay. Trong giai đoạn đầu từ 1988 đến 1990, nguồn vốn FDI chảy vào Việt Nam
không đáng kể. Chỉ có 37 dự án được cấp phép vào năm 1988 với mức vốn 371,8
triệu đôla, con số này tiếp tục tăng trong những năm sau, tốc độ tăng trưởng từ 56,6%
năm 1989 giảm xuống 44% năm 1990. Giai đoạn hai, được đánh dấu bởi sự tăng lên
vượt bậc của dòng vốn FDI. So với thời kì trước, năm 1991 dòng vốn đạt con số
1322,3 triệu đôla, tốc độ tăng trưởng của FDI tăng mạnh từ 57,5% lên 63,7% rồi lần
lượt là 33,9%; 29,8% và 73,4% trong các năm 1992, 1993, 1994, 1995. Đây là dấu
hiệu tích cực cho thấy những nhà đầu tư nước ngoài ngày càng tin tưởng viễn cảnh
kinh tế Việt Nam. Nhưng đến giai đoạn ba, từ 1996 đến 1998, dòng vốn FDI chảy vào
Việt Nam ngày càng giảm. Khoản tiền cho các dự án giảm 16% năm 1996, 45,3%
năm 1997, 16,1% năm 1998. Cuộc khủng hoảng tài chính ở Châu Á năm 1997 ảnh
hưởng lớn đến dòng vốn chảy vào Việt Nam và nguồn vốn FDI ở Việt Nam giảm
mạnh trong 2 năm 97 – 98. Từ khi cuộc khủng hoảng nổ ra, các nhà đầu tư nước
ngoài phải đối mặt với nhiều khó khăn tài chính, nhiều người đã phải thu hồi những
khoản đầu tư ở nước ngoài, nhiều người khác không thể đầu tư thêm ra hải ngoại.
Việt Nam đã phải chịu ảnh hưởng nghiêm trọng khi FDI bị rút khỏi đất nước vì
chúng ta phụ thuộc nhiều vào các nhà đầu tư Châu Á. 60% nguồn vốn FDI tới từ các
quốc gia Châu Á, 1/4 trong số đó là từ các nước ASEAN, nơi mà cuộc khủng hoảng
tài chính xuất hiện đầu tiên và tiếp tục ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế.
Trong một nghiên cứu gần đây của Bộ Lao động thương binh và xã hội chỉ ra rằng
lượng thất nghiệp trên toàn quốc tăng lên 6,6% trong lực lượng lao động năm 98. Lực
lượng lao động nước ta tăng 1,1 triệu người hàng năm. Việc rút vốn FDI khiến cho
càng có nhiều hơn những người thất nghiệp bởi các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoại tạm ngừng sản xuất, càng làm cho vấn đề việc làm khó giải quyết hơn.
Lượng khách du lịch tới Việt Nam trong năm 98 giảm 10% so với năm trước đó,
giảm 1,5 triệu và còn giảm hơn trong năm 99. Các khách sạn ở Tp. HCM phải đối

mặt với khó khăn vì thiếu khách. Mặc dù giá phòng cho thuê đã giảm từ 30% tới 50%
nhung tỷ lệ phòng có người đặt ở các khách sạn Tp. HCM chỉ đạt 35% và các công ty
du lịch bị ảnh hưởng mạnh bởi việc khách hàng giảm đáng kể. Lý do của việc này là
do sự giảm đáng kể của lượng khách đến từ Châu Á, nơi mà chiếm tới 70% tổng
lượng khách du lịch vào Việt Nam. Lý do thứ hai là bởi việc sụt giảm trong nguồn
vốn FDI khiến cho một lượng lớn doanh nhân nước ngoài không tới Việt Nam nữa.
Tác động tích cực:
Bên cạnh không ít ảnh hưởng tiêu cực, Việt Nam vẫn thu được những tác động tích
cực. Vì lạc hậu về công nghệ và trang thiết bị mà sản phẩm làm từ Việt Nam không
thể cạnh tranh nổi với những sản phẩm tương tự tại các quốc gia láng giềng không chỉ
trên thị trường thế giới mà còn ở ngay cả thị trường khu vực. Công nghệ mới trở nên
cấp thiết. Khi cuộc khủng hoảng khu vực xảy ra, máy móc, trang thiết bị trở nên rẻ
hơn, khuyến khích các doanh nhân Việt Nam đầu tư và trang bị mới các xí nghiệp của
họ sao cho hiệu quả nhất có thể như trường hợp nhà máy nhựa và dệt may.
Việt Nam giờ đây có thể tranh thủ thêm một số bài học rút ra từ khu vực và điều
chỉnh chính sách nhằm ngăn chặn khủng hoảng. Thực tế từ khi nổ ra cuộc khủng
hoảng khu vực đến này, đã có một loạt các chủ trương chính sách và chương trình
mới theo hướng cải cách nhận thức rõ sự cần thiết phải đạt được những tiến bộ lớn
hơn về những biện pháp cải cách cụ thể như Nghị quyết 4 của Trung Ương Đảng
tháng 12/1997, chính thức kêu gọi đẩy nhanh tốc độ cổ phần hoá các doanh nghiệp
nhà nước, thái độ thận trọng hơn của nhà nước khi bảo lãnh vay nợ của các doanh
nghiệp, những cải tiến trong quy định về đầu tư nước ngoài trực tiếp.v.v. Vấn đề là
làm sao cho những chủ trương chính sách này đi vào hoạt động.
Khả năng đầu tư tài chính từ các nước trong và ngoài khu vực giảm xuống có nghĩa
tốc độ tài trợ của nước ngoài vào Việt Nam sẽ được điều chỉnh cho phù hợp hơn với
tốc độ cải cách thực tế, như vậy giảm tình trạng đầu tư có tính rủi ro cao hay quá mức
cần thiết. Trong tương lai, các nhà đầu tư nước ngoài sẽ chú ý nhiều hơn tới tính hợp
lý của môi trường đầu tư tổng thể và khả năng thương mại của từng khoản đầu tư cụ
thể.
Việc tăng cường sự cạnh tranh giữa các nước trong khu vực để giành được vốn đầu tư

nước ngoài mà giờ đây trở nên khan hiếm hơn cuối cùng sẽ tác dụng thúc đẩy Việt
Nam tiến hành các biện pháp cải cách cụ thể hơn nhằm thu hút được một phần đầu tư
nước ngoài này và tránh bị tụt hậu quá nhiều so với các nước khác trong khu vực.
Tại sao cuộc khủng hoảng lại ít ảnh hưởng đến Việt
Nam:
Tốc độ tăng trưởng kinh tế tương đối cao trong những năm gần đây chủ yếu dựa vào
xuất khẩu và vốn nước ngoài (FDI và ODA), nay các nguồn này đang có chiều hướng
giảm sút. Tỷ lệ tiết kiệm và đầu tư trong nước thấp, bởi vậy sẽ dễ gây ra những ảnh
hưởng tiêu cực đối với nền kinh tế.
Cán cân thanh toán vãng lai và cán cân thương mại thâm hụt kéo dài ở mức cao so
với GDP gây sức ép với tỷ giá hối đoái và tăng số dư nợ nước ngoài của Việt Nam.
Bội chi ngân sách nhà nước kéo dài và ở mức cao gây sức ép tăng vay nợ và làm hao
hụt dự trữ ngoại tệ vốn đã nhỏ bé của nước ta.
Nợ nước ngoài của Việt Nam tăng khá nhanh từ sau khi nước ta bình thường hoá
quan hệ với cộng đồng tài chính quốc tế.
Cơ cấu vốn đầu tư còn nhiều bất hợp lý, hệ thống tài chính ngân hàng chưa đáp ứng
yêu cầu còn non yếu trong quản lý, kinh doanh, đặc biệt trong khâu phòng ngừa rủi
ro.
Những nguyên nhân trên là lí do chính tại sao Việt Nam bị ảnh hưởng bởi cuộc khủng
hoảng tài chính khu vực tuy vậy không nặng nề như các quốc gia khác do:
- Thị trường tài chính tiền tệ Việt Nam mới ở giai đoạn sơ khai, chưa nhập sâu vào thị
trường tài chính khu vực, tại thời điểm khủng hoảng thị trường chứng khoán chưa
hình thành. Đồng tiền Việt Nam chưa phải là đồng tiền chuyển đổi tự do nên ít chịu
tác động trực tiếp của cuộc khủng hoảng.
- Vốn đầu tư nước ngoài chủ yếu là đầu tư trực tiếp, dài hạn (chiếm trên 80%).
- Nợ nước ngoài chủ yếu là nợ chính phủ từ nguồn ODAvà chủ yếu là nợ trung, dài
hạn (chiếm 90%) nên sức ép đột biến của viêc thanh toán nợ không mạnh. Việc vay
trả nợ của các doanh nghiệp được quản lý chặt chẽ thông qua ngân hàng nhà nước.
- Chính sách tỷ giá được điều chỉnh từng bước linh hoạt. Cụ thể từ năm 1986 đến
1990 tỷ giá đồng Việt Nam so với USD tăng từ 80 VND/USD lên 6.500 VND/USD.

Năm 1991 lên 12.000 VND/USD.
- Việc giảm đáng kể cán cân thâm hụt thương mại (nhập siêu năm 97 giảm 37,5% so
với năm 96, 8 tháng đầu năm 98 giảm 9,2% so với cùng kì năm 97). Tiến bộ trong
giải ngân ODA và FDI so với các năm trước đã góp phần làm giảm sức ép về cán cân
thanh toán của Việt Nam.
3.4. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam:
Câu hỏi đặt ra sau một loạt những nhìn nhận đánh giá về cuộc khủng hoảng chính là
bài học nào đáng để cho nền kinh tế Việt Nam học tập từ cuộc khủng hoảng tài chính
khu vực năm 1997?
Trong một thời gian dài, nhiều nền kinh tế trong khu vực có thể phát triển nhanh nhờ
việc đi vay của nước ngoài, thu hút nhiều hơn các nhà đầu tư nước ngoài để duy trì
tốc độ tăng trưởng cao. Điều này thực chất vượt quá tiềm năng nội lực của các quốc
gia này. Tốc độ tăng trưởng cao thì kết quả là nợ nước ngoài cũng tăng cao, trong đó
các khoản nợ ngắn hạn cũng chiếm vai trò quan trọng dẫn tới kết cục như trên.
Việc đầu tư không thích hợp và hiệu quả, đầu tư bất động sản tiếp tục bùng nổ trong
khi thực tế thì các văn phòng, khách sạn và căn hộ đang phải nếm trải sự thiếu vắng
khách hàng và phần lớn các khoản đầu tư tài chính đều bằng tiền đôla vì lãi suất của
các khoản vay loại này thấp hơn so với vay bằng đồng nội tệ. Không có bất kì một sự
quan tâm nào tới tính nguy hiểm của tỷ giá hối đoái trong tương lai.
Ấn định tỷ giá hối đoái trong một thời gian dài dẫn tới nâng giá trị tiền tệ và cạnh
tranh không hiệu quả.
Hệ thống ngân hàng yếu kém, tín dụng bị tiêu dùng cạn kiệt tới mức chúng trở nên
không thể quản lý nổi và các khoản vay xấu tăng lên.
Xuất khẩu – chiến lược này đã giúp cho các quốc gia Đông Nam Á đạt được tốc độ
tăng trưởng cao trong một thời gian dài. Nhưng khi phải đối mặt với sự không ổn
định của thị trường quốc tế thì nó lại trở nên rất dễ bị tấn công.
Trường hợp của Việt Nam thì sao? Có thể nói rằng tình trạng hiện thời cho thấy nguy
cơ khủng hoảng đang ngày càng nổi lên trong nền kinh tế Việt Nam. Ngân hàng và hệ
thống pháp lý tương đối yếu. Lĩnh vực bất động sản, cả trong và ngoài nước gặp phải
những rắc rối liên quan đến việc một lượng lớn bất động sản đang ách tắc không có

người mua hay thuê. Sự xây dựng các căn hộ cao cấp và các khách sạn vượt quá nhu
cầu. FDI đang giảm nhanh. Trong thời gian ngắn, sự vắng mặt các thị trường vốn và
tiền tệ không dễ dàng chuyển đổi, Việt Nam vẫn có thể tiến lên. Nhưng trong dài hạn
Việt Nam cần tái cơ cấu hệ thống ngân hàng và tài chính để đảm bảo sự ổn định của
nền kinh tế vĩ mô. Thủ tục đầu tư được khuyến khích và đơn giản hoá là thực sự cần
thiết để thu hút vốn đầu tư trong nước cũng như nước ngoài nhằm duy trì và mở rộng
các hoạt động kinh tế trong tương lai.
Trên cơ sở đó ta tóm lược được ba bài học chính sau:
Bài học 1: Hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp và hiệu quả kinh té quốc gia là
cơ sở quan trọng nhất đảm bảo cho phát triển bền vững và phải trở thành một mục
tiêu và chỉ tiêu của quản lý kinh tế đất nước, quản lý ngành, quản lý doanh nghiệp. Để
khắc phục sự thiếu chú ý đúng mức đến hiệu quả sản xuất kinh doanh và phát triển,
cần đưa vào hệ thống chỉ tiêu kinh tế phải báo cáo hàng năm của mỗi địa phương mỗi
ngành và cả nước các chỉ tiêu như tỉ suất lợi nhuận và tỉ suất giá trị gia tăng trên vốn
riêng của doanh nghiệp theo các ngành các thành phần kinh tế, đồng thời theo dõi
chặt chẽ sự biến động của chỉ số ICOR với mỗi địa phương và cả nước.
Bài học 2: Để các doanh nghiệp và nền kinh tế phát triển bền vững thì lãi suất vốn
vay để đầu tư phải tương đương hoặc nhỏ hơn khả năng sinh lời của doanh nghiệp.
Như vậy để phát triển bền vững lãi suất tín dụng chủ yếu hình thành qua hệ thống
cung cầu vốn trên thị trường chứ không phải dựa vào ý chí của nhà nước. Nếu lãi suất
tín dụng nhỏ hơn khả năng sinh lời của doanh nghiệp và sản phẩm doanh nghiệp có
tính cạnh tranh cao thì các doanh nghiệp sẽ càng phát triển nhanh hiệu quả kinh
doanh cao nếu càng vay được nhiều vốn. Tức là vay vốn mà lại phát triển bền vững.
Bài học 3: cần có một tổ chức chuyên trách của chính phủ theo dõi sự biến động của
lạm phát, tỷ giá hối đoái, lãi suất tín dụng trong nước và quốc tế, cán cân tài khoản
vãng lai, nợ quốc gia hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp để đề xuất các chính
sách và điều tiết cần thiết bảo đảm phát triển quốc gia bền vững với tăng trưởng
tương đối cao.
Những gợi ý về chính sách đối với Việt Nam:
(1) Nhu cầu cấp bách đối với Việt Nam là tăng cường hơn nữa tính công khai và

cung cấp những thông tin đáng tin cậy, đặc biệt là về các ngân hàng và doanh
nghiệp Việt Nam nhằm hạn chế nguy cơ thất bại của chính phủ và thị trường.
Xuất phát từ hệ thống kế toán thiếu nhất quán và không đày đủ của Việt Nam trong
những năm trước đây nên thiếu các số liệu đáng tin cậy để đánh giá thực trạng kinh
doanh lỗ lãi và tình hình tài chính của các doanh nghiệp nhà nước. Việc tăng cường
hơn nữa tính công khai và có được những thông tin chính xác sẽ góp phần hạn chế rất
nhiều tình trạng tham nhũng vốn là mối lo ngại ngày càng tăng của Đảng và Chính
phủ bởi tham nhũng đã dẫn đến những khoản đầu tư chi phí cao và không bền vững ở
các nước khủng hoảng.
(2) Hạn chế và phân bổ một cách thận trọng những khoản cho vay mới theo chỉ
đạo của nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước trong lĩnh vực thương mại.
Chỉ nên dành khoản cho vay này cho những doanh nghiệp nhà nước đã chứng tỏ thực
sự có lãi và ổn định. Việc cho vay vồn và đầu tư quá mức vào các doanh nghiệp nhà
nước không hiệu quả sẽ dẫn tới thất bại của chính phủ, khi lên tới mức nguy hiểm thì
sẽ đẩy lùi quá trình phát triển của đất nước. Như vậy, nhà nước nên tránh làm trầm
trọng thêm tình trạng mất cân đối về tài chính hiện nay bằng các khoản nợ khó đòi
tiếp theo.
(3) Cũng cần hết sức cắt giảm, hạn chế tối thiểu và giám sát chặt chẽ việc cho
vay vốn dưới sự bảo lãnh của nhà nước. Để tránh mọi hiểu lầm trên thị trường về
mức độ bảo hộ của nhà nước đối với các khoản đầu tư tư nhân, từ nước ngoài hay từ
các nguồn khác, Nhà nước Việt Nam cần tuyên bố một cách công khai rộng rãi một
chính sách rõ ràng và hết sức hạn chế bảo lãnh của nhà nước, dưới cả hình thức công
khai và ngầm định. Nếu không sẽ có nguy cơ dẫn đến tình trạng nợ quá nhiều với các
khoản đầu tư nước ngoài ở các cơ sở liên doanh của các doanh nghiệp nhà nước, xuất
phát từ sự hiểu lầm về việc nhà nước sẵn sàng hay có khả năng hỗ trợ những khoản
đầu tư đó trong trường hợp khó khăn về tài chính.
(4) Việc tiến tới xác lập một tỷ giá hối đoái của đồng tiền Việt Nam mang tính
cạnh tranh hơn là một điều tất yếu nhằm thúc đẩy xuất khẩu, hạn chế sự tràn ngập
của hàng hoá nhập khẩu rẻ tiền, khuyến khích việc lập kế hoạch tài chính hợp lý cho
mọi khoản vay nước ngoài mới và tránh tình trạng kiệt quệ ngoại tệ nói chung. Vấn

đề là phá giá đồng Việt Nam ở mức độ nào và tốc độ như thế nào cho phù hợp bối

×