Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Khủng hoảng tài chính trong khu vực và tác động của nó trước Việt Nam ( 35 trang)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (255.34 KB, 25 trang )

KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH TRONG KHU VỰC
VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ TRƯỚC VIỆT NAM.
Lời mở đầu
Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực Châu á - cuộc khủng hoảng lớn nhất
trong khu vực kể từ sau chiến tranh thế giới thứ hai - đã gây ra những hậu quả nghiêm
trọng đối với nền kinh tế trong khu vực và sự tăng trưởng kinh tế thế giới.
Kể từ khi cơn lốc của cuôc khủng hoảng tài chính tiền tệ cuốn theo rất nhiều quốc
gia vào vòng xoáy của nó, đến bây giờ cuộc khủng hoảng đã tạm qua đi, tình trạng thị
trường đã trở nên ổn định hơn, quá trình khôi phục diễn ra mạnh mẽ. Mặc dù vậy các
nước vẫn còn phải tiếp tục lịch trình tái cơ cấu.
Đã có rất nhiều sách báo, các cuộc hội thảo quốc tế và khu vực đã viết và bàn về
cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ, dường như vẫn chưa đủ và người ta vẫn buộc phải
nghĩ về nó, viết về nó vì nó vẫn đang ảnh hưởng và tác động mạnh mẽ đến đời sống
kinh tế xã hội và chính trị của mỗi quốc gia, mỗi khu vực và thế giới. Các tổ chức tài
chính, các trung tâm nghiên cứu quốc tế cũng đưa ra các bài học và dự báo về nguy cơ
của các cuộc khủng hoảng có thể xảy ra trong tương lai.
Tuy không nằm trong tiểu điểm của cơn lốc khủng hoảng, nhưng những ảnh hưởng
và tác động của nó ngày càng được cảm nhận rõ rệt ở Việt Nam, thể hiện qua những
chỉ số giảm đi cụ thể về thương mại, đầu tư, tốc độ phát triển kinh tế và du lịch…
Hiện nay, chúng ta ngày càng nhận thức rõ được tầm quan trọng của việc nghiên
cứu khủng hoảng, triển vọng và tác động của nó trong bối cảnh đất nước đang tham gia
ngày càng sâu rộng hơn và liên kết khu vực, hội nhập với quốc tế. Đó là chính là động
lực thúc đẩy nhóm chúng tôi chọn đề tài nghiên cứu: “Khủng hoảng tài chính trong khu
vực và ảnh hưởng của nó tới Việt Nam”. Đề tài đã đặt vấn đề nghiên cứu cuộc khủng
hoảng và chiều hướng diễn biến của nó, nhóm nghiên cứu đề tài tập trung vào phân tích
những táac động của cuộc khủng hoảng đến nền kinh tế thế giới nói chung và Việt Nam
nói riêng, những nguyên nhân dẫn đến cuộc khủng hoảng, đề từ đó rút ra những bài học
kinh nghiệm cho Việt Nam về chính sách phát triển kinh tế và chính sách kinh tế đối
ngoại.
Nội dung đề tài gồm ba phần:Phần 1: Lý thuyết về khủng hoảng tài chính.
Phần 2: Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở Châu Á


Phần 3: Tác động của cuộc khủng hoảng tài chính khu
vực đến Việt Nam và các biện pháp đối phó của
chính phủ.
Sau một thời gian nghiên cứu và nỗ lực hoàn thành nhóm chúng tôi đã cố
gắng phác thảo một bức tranh toàn cảnh về cuộc khủng hoảng và nêu ra một số đánh
giá và ý kiến đóng góp của mình dựa trên cơ sở những nghiên cứu tiến hành trong đề
tài. Song với kiến thức và thời gian có hạn, đề tài của chúng tôi vẫn còn nhiều thiếu sót.
Rất mong được sự đóng góp của thầy giáo và các bạn để đề tài của chúng tôi ngày càng
hoàn thiện hơn.
I/ LÝ THUYẾT VỀ KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH:
1. Tổng quan về thị trường tài chính:
Khủng hoảng tài chính – tiền tệ có một lịch sử khá dài gắn với sự ra đời và phát triển
của hệ thống tài chính trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa (TBCN) và phát triển của hệ
thống tài chính trong nền kinh tế TBCN. Để tìm hiểu về khủng hoảng tài chính
(KHTC) ta cần bắt đầu từ các luồng vốn (tiền và giống như tiền). Trên con đường đó
hình thành vô số các quỹ (Nhà nuớc, doanh nghiệp), trung gian tài chính và tổ chức, gia
đình , cá nhân hay nói cách khác dòng luân chuyển đó là tập hợp của vô số quỹ với các
mối quan hệ chằng chịt giữa các quỹ này tạo nên một hệ thống tài chính. Vậy ta có thể
định nghĩa tài chính là tập hợp các quỹ tiền và giống như tiền cùng với các mối quan hệ
giữa chúng bao gồm cả nội tệ, ngoại tệ với ba chức năng chủ yếu là thước đo giá trị,
phương tiện thanh toán và phương tiện cất trữ. Giống như tiền tức là những thứ có đủ
ba chức năng chủ yếu của tiền đồng thời phải có khả năng chuyển thành tiền dễ dàng
(có tính thanh khoản). Tóm lại ta có:

F= Tổng (Fs, Fif, Fe, Fp, Fo) x K
Trong đó: F: Tài chính hay hệ thống tài chính
Fs: Quỹ tài chính Nhà nước
Fif: Quỹ trung gian tài chính gồm quỹ ngân hàng và tài chính phi
ngân hàng
Fe: Quỹ tài chính doanh nghiệp

Fp: Quỹ cá nhân và hộ gia đình
Fo: Các quỹ khác
K: hệ số biểu hiện năng lực hệ thống tài chính
K được quy định bởi trình độ quản lý của nhà nước, luật pháp, năng lực quản lý của
quỹ, mức độ (số lượng và chất lượng) quan hệ giữa các quỹ, môi trường tự nhiên - xã
hội, nhận thức của nhân dân và nhiều yếu tố khác nữa. Bản thân K cũng trở thành một
hàm số phức tạp chưa kể yếu tố tham gia của bên ngoài vào tài chính của mỗi quốc gia
và sự tham gia đó biểu hiện ngay trong từng quỹ cấu thành nên hệ thống tài chính quốc
gia, vì hệ số K biến động theo từng giai đoạn nên ta chỉ có thể xác định giá trị tương
đối của nó từ đó có thể viết:

F= Tổng (Fs x Ks, Fif x Kif, Fe x Ke, Fp x Kp, Fo x Ko) x Tổng K
Trong đó: (0<F (k<=1 hay 0<=C<K(k)<=S<=1)
K(k)= 0 hay K(k)=1, là hai trường hợp tuyệt đối không tồn tại trong thực tế biểu thị hệ
thống tài chính hoàn toàn đổ vỡ hay hoạt động trong trạng thái hoàn hảo lý tưởng.
K(k) C (S,1) cho thấy tình trạng ổn định tài chính
K(k) C (0,C) tương ứng với trạng thái KHTC
K(k) C (C, S) chứng tỏ tình hình tài chính mất ổn định, thiếu vững chắc và xuất hiện
các dấu hiệu có thể xảy ra khủng hoảng.
Vậy khủng hoảng tài chính là gì? Khủng hoảng tài chính là tình trạng tài chính
(quỹ) mất cân đối nghiêm trọng dẫn đến sụp đổ quỹ.
Đặc trưng của mỗi quỹ và cấu thành hệ thống tài chính là các dòng tiền hay giống như
tiền vào trừ đi tiền ra, nhận trừ đi thanh toán… hình thành tài sản nợ trừ có khi xảy ra
hiện tượng mất cân đối nghiêm trọng giữa tài sản có và nghĩa vụ phải thanh toán về số
lượng thời hạn, chủng loại tiền (giống như tiền) thì có thể xảy ra khủng hoảng tài
chính. Như vậy KHTC là khái niệm bao trùm được sử dụng chung cho mọi loại khủng
hoảng gắn với mất cân đối về tài chính và thường là gắn với nghĩa vụ phải thanh toán
lớn hơn nhiều phương tiện dùng để thanh toán tại một thời điểm nào đó. Chính vì vậy
KHTC có đặc điểm của khủng hoảng “thiếu” chứ không giống khủng hoảng thừa diễn
ra trong nền kinh tế thị trường từ nhiều năm nay.

2. Các khái niệm về khủng hoảng tài chính:
- Khủng hoảng tài chính là việc mất niềm tin vào giá trị của đồng tiền hoặc những tài
sản tài chính khác khiến cho các nhà đầu tư quốc tế thu hồi quỹ đầu tư của họ ra khỏi
quốc gia bị khủng hoảng. (Nguồn: Các khái niệm trên mạng)
- Khủng hoảng tài chính là tình trạng mà trong đó một bộ phận của nền tài chính có
những khoản nợ lớn hơn giá trị tài sản thực có trên thị trường gây ảnh hưởng tới các
cán cân đầu tư khác, dẫn tới sự sụp đổ của không ít công ty tài chính, dẫn tới việc
chính phủ bắt buộc phải có những can thiệp. (Định nghĩa của Sundarajan và Balino
năm 1991)
- Khủng hoảng tài chính là sự đổ vỡ của thị trường tài chính mà trong đó do những lựa
chọn bất lợi và tâm lý hoang mang đã trở nên xấu đi, dẫn đến hậu quả thị trường tài
chính không thể có những quỹ hiệu quả cũng như cơ hội đầu tư tốt nhất. (Định nghĩa
của Mishkin)
3. Một số dạng khủng hoảng đặc thù:
Khủng hoảng ngân hàng: rất hay gặp do ngân hàng là trung gian tài chính nhận tiền
gửi của các thể nhân và pháp nhân để cho vay nên rủi ro dồn cả về mặt số lượng, thừoi
hạn cũng như chủng loại tiền. Ngân hàng có thể lâm vào khủng hoảng do cho vay quá
mức và không thu hồi lại được dẫn đến tỷ lệ nợ quá hạn cao làm ngân hàng không thể
thanh toán các nghĩa vụ khi đến hạn. Ngân hàng là một hệ thống chặt chẽ nên khủng
hoảng rất dễ lây lan và tạo khủng hoảng cả hệ thống ngân hàng. Trong trường hợp
khủng hoảng các Ngân hàng thương mại thường có xu hướng siết chặt các điều kiện tín
dụng hay nâng lãi suất để bù đắp rủi ro và kết quả là đẩy các doanh nghiệp – bạn hàng
chủ yếu của ngân hàng vào tình thế khó khăn do thiếu nguồn tài chính để hoạt động.
Khủng hoảng nợ quốc gia: trường hợp một quốc gia vay nợ nước ngoài (vay chính
thức, vay thương mại) qua nhiều, sử dụng không hiểu quả vốn nên không trả được nợ
đúng hạn, lâm vào khủng hoảng nợ buộc phải xin hoãn nợ, xoá nợ thậm chí phải tuyên
bố vỡ nợ (như trường hợp của CHDCND Triều Tiên). Khủng hoảng nợ xảy ra khá
nhiều ( Argentina mới đây hay nhiều nước Châu Phi vừa qua) cùng với tiến trình toàn
cầu hoá kinh tế do các điều kiện vay nợ nước ngoài trở nên dễ dàng hơn.
Khủng hoảng tiền tệ: là hiện tượng không đủ ngoại tệ để thanh toán các nghĩa vụ đến

hạn hay đáp ứng nhu cầu cả thực tế và giả tạo do đầu cơ buộc chính phủ phải dùng quỹ
dự trữ ngoại tệ để duy trì tỷ giá hối đoái hoặc phá giá nội tệ cho nội tệ mất uy tín nhanh
chóng.
Khủng hoảng thị trường chứng khoán: với tư cách là đỉnh cao của kinh tế thị trường,
thị trường chứng khoán rất nhạy cảm và phức tạp nên cũng dễ đổ vỡ. Khủng hoảng thị
trường chứng khoán xảy ra khi giá chứng khoán biến động mạnh (“tuột dốc” hay
“không thang” quá nhanh) ngoài tầm kiểm soát và do hiệu ứng “bầy đàn” làm cho
chứng khoán bị “bán đổ, bán tháo” hay thị trường bị “đông cứng” vì không có giao
dịch tạo ra sự thâm hụt giữa tiền (chứng khoán) vào so với tiền ra thị trường chứng
khoán (quỹ chứng khoán)
Khủng hoảng cán cân thanh toán (cán cân vãng lai), cán cân vốn (còn được gọi là
tài khoản) là cấu thành quan trọng nhất của tài khoản quốc gia: khủng hoảng xảy
ra khi cán cân này thâm hụt quá nặng trong thời gian dài và không có nguồn bù đắp.
Khủng hoảng cán cân vãng lai thường xảy ra khi cán cân thương mại (nhập trừ đi
xuất) bị thâm hụt và khủng hoảng cán cân thanh toán khi tổng cácluồng ngoại tệ ra lớn
hơn ngoại tệ vào (cán cân vãng lai, tài khoản vốn) gây nên thâm hụt nặng nề.
Khủng hoảng khả năng tính thanh khoản: nếu các loại khủng hoảng tài chính ở trên
liên quan tới cả ba mặt số lượng, thời hạn và chủng loại tiền (và giống như tiền) thì
khủng hoảng tình thanh khoản là sự mất cân đối chủ yếu liên quan tới thời hạn và
chủng loại của “giống như tiền” và một số loại tài sản đặc thù.
Khủng hoảng ngân sách: NSNN thâm hụt nặng và kéo dài trong khi các nguồn thu bù
đắp thâm hụt (in tiền, vay nợ trong và ngoài nước) bị hạn chế hay không thể lạm dụng
hơn nữa nếu muốn tránh hậu quả như vỡ nợ hay bùng nổ lạm phát.
Trên đây là những dạng khủng hoảng tài chính cơ bản và trong tương lai có thể xuất
hiện nhiều dạng nữa cùng với sự phát triển của tài chính trong tiến trình phát triển và
hội nhập kinh tế quốc tế.
4. Các phương pháp dự báo khủng hoảng tài chính:

4.1.Phương pháp chỉ tiêu:
Từ những kết quả phân tích nói trên ta có thể rút ra được một số kết luận rằng: diễn

biến của tỉ giá thực, cán cân thương mại hoặc cán cân vãng lai, tiền lương thực tế và lãi
suất là những chỉ số quan trọng cảnh báo về một cuộc khủng hoảng.
Ví dụ: Thái Lan – Một số chỉ tiêu kinh tế vĩ mô
Chỉ tiêu 1992 1993 1994 1995 1996
Tốc độ tăng GDP (%) 8.1 8.3 8.7 8.7 6.7
Chỉ số giá CPI (%) 4.1 3.4 5.2 5.7 5.8
Thâm hụt cán cân thương mại (tỉ USD) -6.3 -6.4 -8.1 -13.6 -15.3
Tốc độ tăng xuất khẩu (%) 13.7 13.4 22.2 24.7 -1.8
Tốc độ tăng nhập khẩu (%) 6.0 12.2 18.5 31.6 3.1
Nợ nước ngoài (tỉ USD) 39.6 45.8 60.1 75.6 83.0
4.2. Phương pháp dự báo dựa trên các nguy cơ:
Dựa trên thực tế cuộc khủng hoảng diễn ra năm 1997 ảnh hưởng nặng nề tới Thái Lan
và Hàn Quốc các nhà kinh tế học đã xây dựng mô hình “Các nguy cơ khủng hoảng và
cơ chế phát sinh khủng hoảng kinh tế – tài chính”.
Bốn nguy cơ tích luỹ khủng hoảng:
- Sự kém hiệu quả của các doanh nghiệp.
- Sự kém hiệu quả của các ngân hàng, công ty tài chính.
- Sự lên giá của đồng nội tệ
- Nguy cơ quốc gia mất khả năng thanh toán.
Tác động mang tính quyết định từ bên ngoài đó là sự rút vốn tài chính của các nhà đầu
tư nước ngoài.
a. Phương pháp xác định các chỉ số cảnh báo chủ chốt:
Theo ý kiến của Kaminsky, Lizondo và Reinhart đã chọn ra những chỉ số có khả năng
cảnh báo tốt nhất. Cả ba người đều cho rằng:
- Một hệ thống cảnh báo tin cậy cần cần bao quát nhiều chỉ số khác nhau bởi lẽ
khủng hoảng tiền tệ thường là hậu quả của nhiều vấn đề kinh tế – xã hội, tâm lý và
đôi khi còn mang tính chất chính trị phức tạp.
- Những biến số thường được sử dụng với danh nghĩa là những chỉ số cảnh báo về
một cuộc khủng hoảng tiền tệ có thể là: dự trữ ngoại tệ giảm dần, nội tệ lên giá,
tăng trưởng tín dụng quá mức và lạm phát gia tăng, tình trạng tồi tệ của cán cân

thương mại kết quả của xuất khẩu và tốc độ tăng trưởng của GDP thực tế cũng như
sự gia tăng trong lượng tiền cung ứng, tỉ lệ khối tiền tệ mở rộng (M2 hoặc M3) so
với tổng dự trữ quốc gia và thâm hụt ngân sách cũng là những chỉ số quan trọng
cần được tính đến.
- Đối với các chỉ số khác những kết luận mang tính chất thử nghiệm vì chúng chỉ
được rút ra chủ yếu từ một hoặc hai công trình nghiên cứu trên lĩnh vực này. Như
vậy một biên số tài chính, thể chế và chính trị cũng ít nhiều hiệu lực trong dự báo
các cuộc khủng hoảng tài chính.
- Các biến số liên quan tới nợ nước ngoài không có ý nghĩa nhiều lắm. Mặt khác trái
với thông lệ cán cân vãng lai không nhận được nhiều sự đồng tình trong vai trò một
chỉ số cảnh báo tin cậy về một cuộc khủng hoảng. Điều này có thể là do những thay
đổi của tỷ giá hối đoái đã phản ánh diễn biến của cán cân vãng lai trong phần lớn
của các công trình nghiên cứu, người ta thấy rằng khi mà ảnh hưởng của cán cân
vãng lai không nhiều lắm thì ở đó các tỷ giá hối đoái thực cũng không có tác dụng.
5. Một số phương pháp ngăn ngừa cơ bản:
Tại cuộc họp các bộ trưởng tài chính tại Washington tháng 5 năm 1999, người ta thông
qua bản kế hoạch ngăn ngừa khủng hoảng như sau:
- Tránh sự tác động qua lại giữa mất cân đối bảng cân đối tài chính của ngân hàng
với tỷ giá cố định.
- Nhiều ý kiến cho ràng chính ngân hàng ở các thị trường mới nổi có thể và cần phải
ngăn cản những khoản vay ngoại tệ ngắn hạn nhiều rủi ro.
- Tránh áp dụng chế độ tỷ giá cố định là một biệnpháp quan trọng làm cho rủi ro tiền
tệ không được bảo hiểm trở nên rõ ràng và đơn giản hơn, song vẫn chưa đủ về
những biến động tiền tệ vẫn xảy ra cả khi đã áp dụng chế độ tỷ giá thả nổi.
- Áp dụng biện pháp kiểm soát vốn nghĩa là sử dụng các hình thức cấm đoán song
phải đặc biệt chú ý để không dẫn tới sự lạm dụng,tham nhũng hay tạo những khe
hở.
- Thuế có vẻ như là biện pháp được ưa chuộng, chẳng hạn Chilê đã thành công đánh
thuế những khoản vay bằng ngoại tệ mặc dù biện pháp này khá thô bạo.
Nhiều nhà kinh tế đề xuất các giải pháp ngăn ngừa như sau:

- Nền kinh tế quốc gia không thể dựa chủ yếu vào vốn bên ngoài đặc biệt là vốn vay
ngắn hạn và đầu tư vào thị trường cổ phiều. Nhà nước cần theo dõi và có chính
sách hạn chế vay mượn nước ngoài dù tư nhân hay Nhà nước ở mức độ nền kinh tế
có thể chịu đựng được.
- Xác định đúng tỷ giá hối đoái nhằm tạo tính cạnh trạnh cho xuất khẩu, tăng hiệu
quả sử dụng hàng nhập khẩu. Cân bằng cán cân thương mại đồng thời có biện pháp
ngăn chặn dòng vốn ngắn hạn có tính chất đầu cơ.
- Cần có biện pháp giảm áp lực tăng giá bất động sản tránh tình trạng nền kinh tế
“bong bóng” nhằm tạo môi trường ổn định cho đầu tư và đời sống nhân dân. Tăng
thuế thu nhập do mua đi bán lại trong thời gian ngắn là biện pháp hữu hiệu nhằm
giảm bớt nhu cầu đầu cơ.
- Ngăn chặn tình trạng “bong bóng” trên thị trường cổ phiếu, cần hạn chế người
nước ngoài mua cổ phiếu và vay tín dụng ngân hàng để mua cổ phiếu cũng như
dùng chứng khoán để thế chấp vay mượn.
Kết luận: Theo như trên thì kiểm soát vốn là công cụ ngăn ngừa khủng hoảng tài
chính – tiền tệ hữu hiệu nhất vì:
- Kiểm soát vốn có thể được sử dụng như một phương pháp để đảm bảo sự độc lập
của chính sách tiền tệ.
- Kiểm soát vốn có thể được biện minh như một công cụ nhằm cải thiện an ninh kinh
tế. Sự đảm bảo tuyệt đối của Chính phủ đối với các khoản nợ nước ngoài đi kèm
với hệ thống thông tin tương xứng giữa ngân hàng và các cổ đông (những người
gửi tiết kiệm) cũng đưa đến an sinh xã hội.
- Tự do hoá tài chính là tất yếu khách quan với một quốc gia mong muốn có được lợi
ích đầu tư tăng lên, tăng trưởng nhanh hơn, mức sống cao hơn. Tuy nhiên với các
thị trường tài chính chưa hoàn thiện, các dòng chuyển dịch vốn không ổn định thì
việc kiểm soát vốn sẽ giảm bớt những rủi ro đạo đức, lựa chọn sai, đối xử không
công bằng… nếu có các chính sách hợp lý như thuế, giám sát ngân hàng sự đảm
bảo của chính phủ và pháp luật…
II/ CUỘC KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH TIỀN TỆ Ở CHÂU Á:
Khủng hoảng tài chính châu Á bắt đầu diễn ra vào tháng 7-1997 tại Thái Lan và ảnh

hưởng tới hệ thống tiền tệ thị trường chứng khoán và giá trị các tài sản khác của một vài
quốc gia Châu Á, trong đó có nhiều nước đang được coi là những “chú hổ” châu Á.
Inđônêxia, Hàn Quốc và Thái Lan là những quốc gia bị ảnh hưởng nặng nề nhất bởi cuộc
khủng hoảng này. Hồng Kông, Malayxia, Lào và Philippines cũng bị ảnh hưởng ít nhiều.
Trung Quốc, Ấn Độ, Đài Loan và Singapore thì tương đối không bị ảnh hưởng, Nhật Bản
tuy được cho rằng không bị ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng nhưng cũng gặp phải những
khó khăn về kinh tế trong dài hạn và ngày nay dang dần vượt qua.
1. Tính chất và nguyên nhân của cuộc khủng hoảng:
1.1. .Tính chất:
-Thứ nhất, cuộc khủng hoảng Châu Á mang tính cơ cấu với sắc thái tài chính-tiền tệ rất
đậm nét chứ không phải khủng hoảng chu kì hay sự đổ vỡ của một mô hình phát triển nào.
-Thứ hai, cuộc khủng hoảng mang tính quốc tế sâu sắc cả về những nguyên nhân, các tác
động lan truyền lẫn những nổ lực nhằm vượt qua khủng hoảng.
-Thứ ba, cuộc khủng hoảng diễn ra theo tính chất lan sóng, ảnh hưởng định chế lẫn nhau
như “Hiệu ứng Đôminô”. Bùng nổ từ cú sốc tỷ giá ngày 2-7-1997 tại Thái Lan, qua
Philippins rồi Inđônêxia, sang Hàn Quốc và Nhật Bản, xu hướng lan truyền còn rộng hơn
và tác động mạnh mẽ hơn, gây ra những tổn thất lớn hơn đối với các nước lâm vào tình
trạng khủng hoảng.
1.2. Các nguyên nhân:
Cuộc khủng hoảng tài chính tiên tệ châu Á, xét theo cả cấp độ quốc gia lẫn khu vực, chính
là kết quả “hợp lực” của sự tác động qua lại giữa ba nhóm nguyên nhân chủ yếu: từ phía
các chính sách vĩ mô của chính phủ, các nhà đầu tư trong nước và các nhân tố bên ngoài
vượt khỏi tầm kiểm soát của các nước khu vực.
*Nhóm nguyên nhân thứ nhất: Sự bất cập trong chíng sách quản lý vĩ mô của Chính phủ.
Trong một thời gian dài, các nước Châu Á đã đạt được những thành tựu kinh tế mà các nhà
kinh tế đã gọi là hiện tượng Châu Á hay một “Châu Á diệu kỳ”. Từ giữa những năm 1960
đến giữa nhũng năm 1990, thu nhập bình quân đầu người tăng lên hơn gần bốn lần ở
Malaixia, Inđônêxia và Thái Lan, 7 lần ở Hàn Quốc. Nhìn chung trong giai đoạn này cho
đến trước khủng hoảng, chúng ta thấy một Đông Nam Á, một Đông Bắc Á được quản lý
tốt, tốc độ tăng trưởng cao liên tục, lạm phát thấp, ngân sách cân đối về cơ bản, nền kinh tế

được tự do hoá ở một mức độ cao. Không có gì cho ta thấy là các nước này sẽ trượt ra khỏi
quỹ đạo tăng trưỏng mạnh trong suốt những thập kỷ đó.
Các chỉ số kinh tế Vĩ mô năm 1996
Các nước Mức tăng
GDP
Lạm phát Thặng dư tài
khoản vãng
lai(%GDP)
Thặng dư khối
hànhchính(%GDP)
Hàn Quốc 7,1 4,5 -4,7 +0,0
Inđônêxia 8,0 6,6 -3,4 +0,6
Thái Lan 5,5 4,8 -8,1 +2,2
Malayxia 8,6 3,3 -4,9 +4,0
(Theo Tính bất ổn của hệ thống tài chính quốc tế-tr.68)
Song đằng sau những thành công mà cả thế giới đều phải ghi nhận là những “tảng đá
ngầm” chứa đựng những nguy cơ tiềm tàng dẫn đến sự bất ổn. Có thể thấy rõ, đó là:
- Sự chậm trễ và cứng nhắc trong điều hành chính sách tỷ giá khiến các đồng bản tệ bị định
giá cao giả tạo trong một thời gian dài so với đông đôla Mỹ. Tỷ giá được giữ ổn định quá
lâu và sự gia tăng một khối lượng lớn vốn nước ngoài ngắn hạn vào trong nước do chính
sách lãi suất cao đã kích thích sự gia tăng giá trị tài sản và cổ phiếu.Nền kinh tế trở nên
nóng hơn, sự tăng giá tài sản, bất động sản và cổ phiếu đã tiềm ẩn trong lòng nó nguy cơ
làm phát sinh một nền kinh tế ảo.
Từ năm 1995-1997, đồng USD đổi chiều liên tục, tăng giá tới 50% so với đồng yên,với
Trung Quốc phá giá đồng nhân dân tệ hơn 30% vào cuối năm 1994 cùng chính sách neo
giữ tỷ giá vào USD nói trên khiến các đồng bản tệ tăng giá giả tạo.
- Chính sách tự do hoá các hoạt động kinh tế không được tiến hành đồng bộ đi đôi với việc
tăng cường giám sát hoạt động của các cơ sở kinh doanh và các tổ chức tài chính ngân
hàng. Tình trạng chung của các nước châu Á lúc bấy giờ là:
+ Nền kinh tế thị trường chưa hoàn hảo.

+ Sự can thiệp khá sâu vào nền kinh tế thông qua chính sách công nghiệp dẫn đến tình
trạng bao cấp và cắt giảm thuế cho một số nghành Công nghiệp trong khu vực.
+Tình trạng thị trường lao động kém linh hoạt ( Hàn Quốc); hệ thống giám sát ngân hàng
không hợp lý, thiếu minh bạch.
Thiếu đồng bộ và tính minh bạch trong hệ thống pháp luật, tình trạng tham nhũng và kinh
tế ngầm phát triển.
- Có sự mất cân đối lớn trong nền kinh tế như là kết qủa của nhưng sai lầm nêu trên. Mất
cân đối lớn nhất và đe doạ trực tiếp đến sự ổn định của hệ thống tài chính-tiền tệ mỗi nước
là sự thâm hụt tài khoản vãng lai và cơ cấu vốn nước ngoài đổ vào trong nước. Ngoài ra
còn có sự kém phát triển của hệ thống giáo dục cộng với tình trạng thiếu lao động lành
nghề, từ đó đẩy giá mức lương lao động lên nhanh hơn so với tốc độ tăng sản lượng, làm
hao mòn sức cạnh tranh quốc tế và gây khó khăn cho viẹc pháat triển những ngành công
nghệ cao.
* Nhóm nguyên nhân thứ hai: Sai lầm của các nhà đầu tư trong nước.
Trước hết phải khẳng định rằng một trong những nguyên nhân hàng đầu gây ra cơn bùng
phát khủng hoảng tài chính tiền tệ hiện nay ở châu Á là do sự “nóng lên” dẫn đến “ khủng
hoảng nợ” ở khu vực kinh tế tư nhân. Sự tăng lên ồ ạt của các khoản nợ đã làm cho nền
kinh tế trở nên khó kiểm soát cộng thêm sự kiểm soát hết sức lỏng lẻo của chính phủ đã
làm méo mó cơ chế thị trường dẫn đến sự sút giảm kim ngạch xuất khẩu đồng thời cơ hội
kinh doanh của các doanh nghiệp cũng giảm sút đáng kể.
Trên khía cạnh cơ bản nhất, lý do chủ yếu của cuộc khủng hoảng Châu Á là việc không
làm chủ được quá trình mở cửa tiếp nhận vốn nước ngoài.
Kindleberger đã nhận xét rằng là chi phí sử dụng đồng tiền quá thấp dường như là một yếu
tố quan trọng trong sự bùng nổ của nhiều cuộc khủng hoảng tài chính: yếu tố này khiến các
nhà đầu tư tìm cách lao vào các hoạt động rủi ro hơn để nhằm kiếm được những khoản lợi
nhuận khá hơn.
* Nhóm nguyên nhân thứ ba: Các nhân tố bên ngoài vượt khỏi tầm kiểm soát của các nước
trong khu vực.
- Trước hết, chính sách tiền tệ tín dụng của các nước lớn trong và ngoài khu vực châu Á,
đặc biệt là Mỹ.

- Ảnh hưởng của những hoạt động tiền tệ tín dụng nước ngoài có tính đầu cơ đã thổi phồng
các cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ và làm tăng khả năng lây nhiễm. Chính phủ cũng
đưa lượng cung bản tệ lên quá cao.Theo tính toán của IMF, hầu hết các nước Đông Nam Á
và Đông Bắc Á đều có mức tăng lượng cung tiền hàng năm từ 2-5 lần tốc độ tăng truởng
GDP.
- Sự tham gia của một số nước mới đặc biệt là Trung Quốc và Ấn Độ vào thị trường xuất
khẩu của các nước Đông nam Á. Điều đó làm cho hàng hoá của những nước này mất đi lợi
thế cạnh tranh trên trường quốc tế, xuất khẩu đình trệ.
- Cuối cùng là sự biến đổi nhanh chóng của tương quan cung cầu và vòng đời sản phẩm
trên thị trường thế giới mà trình độ phát triển năng lực sản xuất hiện tại của các nước Châu
Á chưa thể thích ứng kịp trong ngày một ngày hai.
Tóm lại ,xét cho cùng thì những nguyên nhân từ phía bản thân các nước đang chịu khủng
hoảng nặng nề mới là lýdo chính yếu gây nên cuộc khủng hoảng này.
2. Những tác động hai mặt của cuộc khủng hoảng:
Không cần nói nhiều thì chúng ta cũng đã thấy được hậu quả nặng nề mà cuộc khủng
hoảng đã để lại cho các nước Châu Á. Tuỳ theo tình hình thực tế ở mỗi nước, mỗi khu vực
khác nhau mà hậu quả để lại cũng khác nhau. Song nhìn chung, cuộc khủng hoảng đã tác
động đến các nước, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế theo hai hướng khác nhau: các tác
động tích cực và các tác động tiêu cực.
2.1. Các tác động tiêu cực:
Trước hết, hậu quả dễ nhận thấy nhất và phổ biến nhất mà hầu như nước nào nẳm trong
khu vực chịu khủng hoảng cũng gặp phải đó chính là sự mất ổn định của đồng tiền và của
các thị trường tiền tệ ở mỗi nước và khu vực: là sự giảm sút các luồng vốn nước ngoài đổ
vào mỗi nước và toàn khu vực, là sự giảm sút ngay cả nguồn vốn trong nước do lãi suất
cao và yếu tố lòng tin. Tất cả những điều đó đã làm cho giảm sút tốc độ tăng trưởng của
các nước, giảm sức cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu và tăng tài khoản thâm hụt vãng lai.
Sự gắng gỏi giữ giá bản tệ đã làm hao kiệt nhanh chóng lượng dự trữ ngoại tệ của nhà
nước, đồng bản tệ bị phá giá nhanh chóng. Cùng với điều đó là tình trạng thất nghiệp tăng
nhanh, lạm phát cao.
Cuộc khủng hoảng cũng đánh dấu sự kết thúc một giai đoan tăng trưởng kinh tế nhanh,

kéo dài hàng mấy thập kỷ trước đó và dựa vào các nguồn vốn nước ngoài của các nước
đang phát triển khu vực, để chuyển sang một giai đoạn phát triển mới với nhịp độ tăng
trưởng ôn hoà hơn.
Cuộc khủng hoảng đã gây thiệt hại cho các nước châu Á ít nhất là 300 tỷ USD, bằng
khoảng 20% GDP của các nước bị khủng hoảng và thiệt hại chung toàn thế giới khoảng
500 tỷ. Qua đây chúng ta thấy được nhưng tác động có tính chất toàn cầu của cuộc khủng
hoảng này. Lượng đầu tư tài chính ở châu Á giảm mạnh, theo tính toán khoảng 150 tỷ
USD đã bị rút khỏi Đông nam Á. Các nhà đầu tư nước ngoai giảm niềm tin. Đầu tư trực
tiếp nước ngoài FDI bị sút giảm mạnh mẽ và tiếp tục giảm ở mức thấp trong những năm
tiếp theo, kéo theo đó là tình trạng thiếu vốn đầu tư sẽ xảy ra.
Sự phá giá bản tệ đã làm tăng các chi phí dịch vụ nợ và chất thêm gánh nặng nợ nần lên
vai các công ty - con nợ, làm tăng tình trạng mất khả năng thanh toán, phá sản của chúng,
nhất là đối với các Công ty phục vụ thị trường trong nước mà nhu cầu đang giảm sút nhanh
chóng. Ở Inđônêxia, do phá giá tiền tệ, tỷ lệ nợ ngân hàng nước ngoài /GDP đã nhảy từ
35% lên đến 140%, hầu hết các ngân hàng bị coi là phá sản. Tình hình “bong bóng bất
động sản” vỡ tung, các ngân hàng rơi vào tình trạng gánh chịu một đống nợ khó đòi hoặc
giữ gìn bất đắc dĩ một lượng tài sản thế chấp ngày càng mất giá và khó bán.
Khủng hoảng cũng góp phần làm tăng lên nhanh chóng tình trạng thất nghiệp ở các nước
trong khu vực(gấp đôi trong năm 1998 so với năm 1997 ở Thái Lan, Hàn Quốc và

×