Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Cuộc Đại Khủng Hoảng và Giải Pháp của Keynes-PHẦN4 ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (125.44 KB, 10 trang )

Cuộc Đại Khủng Hoảng và Giải
Pháp của Keynes-PHẦN4
Tình hình suy thoái nghiêm trọng vào những năm 1930 là thời kỳ
có những thay đổi lớn cả về nền kinh tế lẫn lý thuyết kinh tế.
Trong suốt thời gian đó, những cơ chế cũ vốn điều hoà nền kinh
tế, đặc biệt là chu kỳ kinh tế, nhưng nay chúng lại phải chịu sức
ép lớn từ những thuyết kinh tế mới và những phương pháp điều
hành mới, và sau cùng bị thay thế bởi những thuyết và phương
pháp mới này. Kinh tế học cổ điển với quan điểm để mặc tư nhân
kinh doanh (theo họ thị trường sẽ tự điều tiết nếu thấy cần thiết)
và kinh tế học tân cổ điển với quan điểm là một vài loại thị trường
đặc biệt sẽ tự động điều tiết, cả hai đều đã không còn phù hợp
với tình hình xã hội hiện tại nữa và phải nhường lại cho kinh tế
học vĩ mô "Keynes" với trọng tâm chính là nêu bật vai trò tăng
trưởng tiền lương (để tăng tổng cầu) và vai trò của nhà nước
trong việc quản lý nền kinh tế.
Chu kỳ kinh tế hay cơ chế quản lý cũ chưa hoàn toàn mất đi vào
những năm 1930. Nhưng nền kinh tế suy kém do giai đoạn suy
sụp tài chính lớn vào năm 1929 bắt nguồn từ cơn khủng hoảng
kinh tế, chu kỳ này đã đi xuống và không phát triển lên được nữa.
Và nó vẫn giữ nguyên như thế. Suy sụp tài chính này đã làm cho
nền kinh tế suy thoái, và vẫn chưa có biện pháp nào phục hồi.
Những nhà kinh tế cổ điển thời đó chỉ có thể đưa ra những giải
pháp lỗi thời không hiệu quả. Những nhà kinh tế như Lionel
Robbins tiếp tục kiến nghị giải pháp giảm lương khi lao động gia
tăng. Nhưng những cơ chế thị trường - bao gồm cả những cơ
chế của thị trường lao động - mà những nhà kinh tế rất tin tưởng
nay đã không còn hoạt động nữa. Họ thi hành biện pháp giảm
lương, nhưng thay vì nền kinh tế phục hồi và phát triển thì nó
càng bị khủng hoảng trầm trọng hơn.
Điều này không chỉ đúng với nền kinh tế của Mỹ mà còn đối với


nhiều nước khác nữa, nó cũng đúng với các mối quan hệ kinh tế
giữa chúng với nhau. Sự sụp đổ của các cơ chế tăng trưởng nội
tại là bắt nguồn từ sự sụp đổ của các cơ chế điều chỉnh kinh tế
thế giới. Thay vì có thể giúp giải quyết được những vấn đề suy
thoái thì chế độ kim bảng vị lại làm cho tình trạng suy thoái từ
nước này sang nước khác diễn ra nhanh hơn. Tình trạng thâm
hụt mậu dịch đã làm nổi bật lên mối quan hệ mâu thuẫn giữa một
bên là việc phát hành tiền (mức cung tiền) (do phải xuất vàng trả
cho phần nhập siêu) và một bên là áp lực hạ giá (bao gồm cả tiền
lương), từ đó mâu thuẫn này càng làm cho nhà sản xuất cắt giảm
sản lượng và công nhân. Nạn thất nghiệp gia tăng vùn vụt. Trong
tình hình khủng hoảng trầm trọng này, bởi không một ai muốn
chấp nhận quy tắc của chế độ kim bảng vị nên cơ chế này đã bị
bãi bỏ. Kết quả là để bảo vệ nền kinh tế nước mình khỏi cuộc đại
khủng hoảng, các nước nhanh chóng ban hành chính sách cấm
vận mậu dịch tự do, chính sách thuế quan, hạn ngạch, nhằm bảo
vệ quyền lợi sản xuất cũng như lao động trong nước. Giai cấp tư
sản các nước đều muốn bảo vệ thị trường của họ khỏi sự cạnh
tranh của nước ngoài và họ thiết lập nên hàng rào ngăn nhập
khẩu và công nhân của họ cho đây là một giải pháp hữu hiệu có
thể giúp họ bảo vệ được việc làm của mình. Kết quả là dấy lên
hàng loạt biện pháp bảo hộ mang tính cạnh tranh với nhau giữa
các quốc gia bằng cách thiết lập ngày càng nhiều vành đai chắn
hàng nhập khẩu.
Hậu quả là ngành mậu dịch quốc tế bị suy giảm nghiêm trọng,
làm đóng băng thị trường hàng xuất, làm cho thị trường lao động
và đầu ra sản phẩm ngày càng tệ hại hơn. Đối với nước Mỹ là
một nước có thị trường nội địa rất rộng lớn thì vấn đề này cũng
đủ nghiêm trọng rồi. Còn đối với các nước Đông Âu, giai cấp tư
bản lại càng lệ thuộc vào thị trường ngoài nước, cho nên tình

hình này thật sự tệ hại đối với họ. Sự suy sụp ngành mậu dịch
quốc tế là nhân tố chính gây ra cuộc đại suy thoái một hiện
tượng mang tính toàn cầu và cũng là nguyên nhân làm kéo dài
cuộc khủng hoảng và khiến nó trở nên nghiêm trọng hơn. Nó dẫn
đến việc bãi bỏ chế độ kim bảng vị.
Để hiểu vì sao mà sau suy thoái, kinh tế lại không phục hồi và
tăng trưởng, ta có thể bắt đầu xét đến mối quan hệ giữa tiền
lương và lợi nhuận, giữa tiêu thụ và thặng dư sẵn có. Vào thời kỳ
trước đó, khi chu kỳ kinh tế giảm và nhiều người bị thất nghiệp,
trong tình hình như vậy thì hầu như những ai đang có việc đều
chấp nhận mức lương thấp, từ mức lương thấp này, giai cấp tư
sản có thể hạ chi phí, tăng cao lợi nhuận, cũng như giúp họ có
nhiều kỳ vọng lạc quan hơn và mở rộng đầu tư. Thế trong cuộc
đại suy thoái này tỷ lệ thất nghiệp cũng rất cao, mức lương lại
giảm - nhưng điều này lại không đủ kích thích mở rộng đầu tư.
Tại sao như vậy? Nếu bạn trở lại lịch sử thực tiễn một tí, thì bạn
sẽ hiểu ngay. Đây chính là giai đoạn mà công nhân huởng ứng
thành lập công đoàn theo mô hình của Taylor-Ford. Họ đấu tranh
từ nhận thức công nhân, từ sự đồng lòng tập thể, đòi tăng lương
và phúc lợi xã hội từ nhà nước - còn gọi là thù lao thất nghiệp.
Frederick Taylor chịu trách nhiệm phân chia công việc của người
công nhân thành những loại công việc đơn giản và không đòi hỏi
kỹ năng tay nghề, còn Henry Ford thì chịu trách nhiệm tổ chức
những công việc đó thành một dây chuyền sản xuất, những công
này thường làm cho công nhân thấy nhàm chán, bị hạn chế, cảm
thấy đây là một công việc đơn điệu và chỉ là một phần nhỏ trong
tổng thể cả dây chuyền (có một bộ phim nói về loại công việc thế
này ảnh hưởng đến công nhân - bộ Modern Time do Charlie
Chapline thủ diễn, bạn không nên bỏ qua)
Khi áp dụng loại hình công việc này đã dẫn đến cả lực lượng lao

động suy giảm tay nghề và tạo lợi thế cho những công đoàn thủ
công lớp già - những công đoàn chủ yếu dựa vào tay nghề là
chính. Điều này có nghĩa là những công đoàn thủ công thuộc Liên
Đoàn Lao Động của Mỹ này (AFL - American Federation of
Labor) không còn thích hợp với thế hệ công nhân sản xuất mới
nữa. "Những người công nhân sản xuất hàng loạt" - người ta vẫn
thường gọi họ như thế - đã phát triển thành công đoàn công
nghiệp rộng lớn, đây là những công đoàn được tổ chức theo
nhóm những ai có cùng ngành sản xuất.
Do đó, vào thập kỷ 30, chúng ta thấy nhiều công đoàn được hình
thành như Liên Hiệp Công Nhân Ngành Ôtô (UAW - United
Automobile Workers), Liên Hiệp Công Nhân Ngành Mỏ (UMW -
United Mine Workers), và vân vân… đây là những công đoàn
này liên kết lại thành Hội Công Đoàn (CIO - Congress of Industrial
Unions).
Những cuộc đấu tranh dẫn đến sự hình thành các tổ chức công
đoàn này đã vướng phải sự đối kháng mạnh mẽ từ những nhà
kinh doanh. Công nhân họ đã chống trả lại, thế là bạo động đối
chọi với bạo động, và làn sóng chống đối vào thập kỷ 30 đã làm
hạn chế tình trạng giảm lương trong giai đoạn thất nghiệp xảy ra.
(Những bộ phim nói về sự ra đời của những kẻ đánh thuê (the
Teamsters) như bộ Fist - do Sylvester Stallone thủ diễn và gần
đây là bộ Hoffa của Jack Nickolson, những bộ phim này khá hay
một phần do có nói về vấn đề dùng vũ lực trong kinh doanh và
cách làm đó đã khiến cho công nhân phải chống trả lại, và đôi khi
công nhân cũng dùng bạo lực chống lại, họ làm giống như những
gì mà chủ của họ làm với họ, cũng có nghĩa là phía người chủ lợi
dụng sức mạnh của Pinkertons, còn phía công nhân dựa vào lợi
thế đám đông của mình. Do vậy, điều này cho ta một cái nhìn sơ
lượt về lịch sử và hiểu rõ hơn về mối liên hệ đáng tiếc giữa một

số công đoàn và những tổ chức tội phạm. Trong bộ phim
Matewan gần đây của John Sayles cũng có đề cặp đến tình trạng
bạo động mà công nhân gặp phải trong suốt thời kỳ này, đây là
trường hợp của những mỏ than Appalachia.)
Những xung đột này đã làm cho mức lương giảm trầm trọng. Nói
cách khác, mức lương cũng có thể gia tăng nhưng thậm chí trong
trường hợp tỷ lệ thất nghiệp rất cao, thì mức lương này cho dù có
giảm tới đâu cũng không thể khôi phục lại lợi nhuận. Do đó ta
không thể dùng những chiến lượt kinh tế lỗi thời trong tình trạng
kinh tế suy sụp như thế này để giải quyết các vấn đề giữa kinh
doanh và công nhân cũng như để đạt được mức tiêu thụ thặng
dư.
Nhắc lại một lần nữa , đây là một thời kỳ lịch sử có ý nghĩa. Đây
chính là lúc viễn cảnh cả hệ thống kinh tế xã hội tương lai vẫn
còn là một ẩn số. Những giải pháp cổ hủ không thể áp dụng được
nữa và do đó phải tìm những giải pháp mới nếu không nền kinh
tế-xã hội có thể suy sụp hoặc có thể xãy ra một cuộc cách mạng.
Đây là giai đoạn khủng hoảng tại Mỹ và tình trạng này cũng diễn
ra tương tự ở nhiều khu vực khác trên thế giới.
Giai đoạn khủng hoảng này đã bắt đầu từ một thập kỷ trước đó.
Ở Liên Xô (cũ) vào năm 1917 sau cuộc nội chiến cũng như
những biến động kinh tế-xã hội trầm trọng thì đã nổ ra một cuộc
cách mạng. Ở Đông Âu cũng đã có một thời kỳ khủng hoảng có
lẽ là nghiêm trọng nhất, mà những biến động của cuộc khủng
hoảng này có liên đới với Cách Mạng Đức năm 1918-1919.
Tuỳ vào tình hình chính trị kinh tế, lịch sử của mỗi nước mà các
nhà lãnh đạo của các nước đã có những giải pháp khác nhau để
đối phó với thử thách này. Stalin cố gắng giải quyết vấn đề gia
tăng thặng dư thông qua lực lượng lao động bị ép buộc của
Gulag, dùng lực lượng quân đội đàn áp, thi hành chính sách tập

thể hoá nông dân (thu gom hoa màu của họ). Vào khoảng giữa
cuộc khủng hoảng nổ ra tại nước Cộng Hoà Weimar, thì Hitler đã
lên nắm quyền và giải quyết các vấn đề như cuộc nổi loạn của
công nhân và vấn đề tích luỹ tư bản bằng cách thành lập nên Đế
Chế Phát Xít, Chủ Nghĩa Nghiệp Đoàn, và những lực lượng lao
động. Ở Mỹ và những nước phương tây khác, thì giải pháp của
họ xuất hiện khá chậm, đó là chính sách kinh tế-xã hội mới của
Franklin Roosevelt mà ngày nay chúng ta gọi là chủ nghĩa
Keynes - John Maynard Keynes (1883-1946) ông là một kinh tế
gia người Anh, ông đã đưa ra những lý thuyết cũng như lập luận
của mình về những vấn đề phân tích và chính sách hoàn toàn
mới. Đây là một giải pháp mang lại hiệu quả cao nhất. Năm 1945,
chiến tranh đã dẹp trừ Đức Quốc Xã. Năm 1953, Stalin mất, Liên
Xô lại bắt đầu một quá trình kéo dài và không hiệu quả khi cải
sửa lại giải pháp của họ một giải pháp thất bại do Gorbachev
kết thúc.

×