Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Kẻ tội đồ “kinh tế thị trường” potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (169.63 KB, 7 trang )

K
ẻ tội đồ “kinh tế thị
trường”


Khủng hoảng kinh tế đã buộc con người phải xem lại mô hình
phát triển kinh tế theo quy luật thị trường tự do từng đư
ợc ca tụng
như phương thức duy nhất đưa loài người thoát cảnh đói nghèo.
Tuy nhiên, con đường thay thế đòi hỏi phải gạt bỏ những điều đã
thuộc về bản chất con người – lòng tham và sự ganh đua “mạnh
được yếu thua”.
Người ta từng định nghĩa giàu có nghĩa là thu nhập của bạn chỉ
cần cao hơn thu nhập của ông chồng cô em vợ chừng 100 đô la.
Sự ghen tị, sự cạnh tranh ở từng cá nhân và rộng ra của cả xã
hội là động lực thúc đẩy sự phát triển của kinh tế thị trường.
Một nhà kinh tế nhận xét, mọi hệ thống kinh t
ế tồn tại cho đến nay
đều lợi dụng những động lực có vấn đề về đạo đức hay nói cách
khác, chúng phát triển là nhờ tận dụng bản tính xấu của con
người chứ không phải là phát huy bản tính tốt.
Từ thập niên 1980, hai nền kinh tế lớn trên thế giới là Anh và Mỹ
đã chủ trương tháo gỡ hết mọi ràng buộc chính trị, luật pháp để
kinh tế thị trường tự do phát triển mạnh nhất theo hướng nói tr
ên.
Hệ quả là cuộc khủng hoảng như chúng ta đang chứng kiến. Nếu
kinh tế thị trường được mệnh danh là “sự huỷ diệt mang tính
sáng tạo” (ý nói đến việc cạnh tranh dù có thể dẫn đến sự phá
sản nhiều doanh nghiệp nhưng s
ẽ đẻ ra những doanh nghiệp mới
mạnh hơn), điều này chỉ đúng với các ngành sản xuất.



(Ảnh minh họa)
Khi thị trường tài chính đưa ra những “phát kiến” mới như các
công cụ tài chính để làm giàu nhanh chóng, chúng chính là “sự
sáng tạo mang tính huỷ diệt”. Kèm theo đó là những đợt đầu cơ
ngắn hạn tầm cỡ quốc gia, gây hết sốt giá dầu đến sốt giá lương
thực – tất cả dồn lên đầu người dân nghèo nhất của thế giới.
Quan trọng hơn cả, kinh tế thị trường làm ra của cải và tiền bạc
nhưng chúng không đồng nghĩa với sự thịnh vượng. Những nhà
máy khổng lồ sản xuất hàng hoá tiêu dùng khắp thế giới không
đồng nghĩa người dân nơi đặt nhà máy hưởng đồng lương cao
như lẽ ra họ phải được hưởng.
Bởi lợi nhuận làm ra phần lớn bị hút vào những công đoạn vẫn
được duy trì ở nước giàu. Điều làm cho người dân ở nhiều nước
phẫn nộ là trong khi các tập đoàn tài chính phải nhận tiền đóng
thuế của họ để tiếp tục tồn tại, các tay điều hành từng dẫn dắt
chúng đến con người nguy khốn hiện nay lại vẫn hưởng những
khoản lương kếch sù.
Ai cũng nói, phải thay đổi mô hình đó đi – nhưng thay như thế
nào thì chưa ai có câu trả lời hoàn chỉnh. Có người chỉ ra rằng
thực tế có nhiều mô hình kinh tế thị trường khác nhau. Ở những
nước nào, chính phủ từng đóng vai trò can thiệp, hoặc ở hình
thức ra quy định khắt khe hơn hoặc bằng cách phân phối thu
nhập công bằng hơn như ở các nước Bắc Âu thì tình hình khủng
hoảng dịu hơn những nước khác.
Thực tế, sự can thiệp của chính phủ các nước đã bắt đầu mạnh,
ngành tài chính hầu như đã được quốc hữu hoá ở nhiều quốc
gia. Chắc chắn thị trường tài chính sẽ phải chịu những ràng buộc
chặt chẽ hơn trước bội phần như những nỗ lực đã khởi động ở
châu Âu. Nhưng đó chỉ là các biện pháp tình thế – chưa phải sự

thay đổi mô hình kinh tế.
Các biện pháp từng được áp dụng để giảm nhẹ tính khốc liệt của
kinh tế thị trường như đề cao trách nhiệm xã hội của doanh
nghiệp, quy định điều kiện lao động tại nước gia công… cũng chỉ
mang tính hình thức hay mang tính “giảm nhẹ gánh nặng lương
tâm”.
Một cuộc cải cách thật sự phải bắt đầu từ việc đề ra những quy
định toàn diện như đánh thuế lên dòng chảy đầu tư tài chính, ép
khối ngân hàng chịu trách nhiệm cao hơn trước đồng tiền tiết
kiệm của người dân cho dù lợi nhuận của họ sẽ giảm mạnh so
với trước. Nói rộng ra, nếu trước đây chính trị “xê ra một bên” để
thị trường tự điều tiết (vì suy nghĩ thị trường luôn luôn đúng) nay
quy luật thị trường phải nhường bước cho sự đồng thuận của xã
hội áp đặt lên nền kinh tế những chiếc phanh kiềm chế lòng tham
hay sự cạnh tranh lôi nhau xuống đáy.
Vấn đề là ở chỗ, những biện pháp này sẽ không bao giờ hữu
hiệu nếu chỉ áp dụng ở một nước hay một khu vực. Doanh
nghiệp với phương châm tối đa hoá lợi nhuận sẽ chuyển dịch
sang nơi khác và vì quán tính cạnh tranh, sẽ có nước tự buông
thả quy định để hút dòng vốn đầu tư về mình. Đấy là hạn chế của
cạnh tranh xuống đáy ở mức độ quốc gia.
Thế giới cần một sự đồng thuận, một ý chí chung để giải quyết
vấn đề mô hình trên bình diện toàn cầu. Đã có một Liên hiệp
quốc lo chuyện chính trị, tại sao không nghĩ đến một liên hiệp
quốc lo chuyện kinh tế, ít ra để cấm các hành vi lũng đoạn thị
trường, các nơi là thiên đường trốn thuế. Nếu các quốc gia ngồi
lại với nhau để cùng tìm ra nh
ững biện pháp hạn chế tính huỷ diệt
hay ít ra, tính suy thoái chu kỳ của kinh tế thị trường, trái đất này
mới có hy vọng cùng tìm ra một mô hình phát triển lành mạnh

hơn bây giờ.

×