Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Phân Tích các Thay Đổi Phúc Lợi potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.76 MB, 26 trang )

Phân Tích các Thay Đổi Phúc Lợi-
PHẦN1
3.5 Phân tích các Hàm Thoả dụng
Độ thoả dụng là thước đo kinh tế mức độ sung túc của mỗi
người. Không thể so sánh độ thoả dụng giữa mọi người vì không
thể đo đạc được độ thoả dụng của từng người. Một lý do khác là
kết quả đo lường độ thoả dụng từ các hàm thoả dụng thường ở
dạng thứ tự nhiều hơn là số lượng. Điều này có nghĩa là các kết
quả đo đạc chỉ cho phép xếp loại những tập hợp hàng hoá khác
nhau. Tuy nhiên, nếu có thể đo được độ thoả dụng, có thể so
sánh được độ thoả dụng giữa mọi người với nhau thì chúng ta có
thể thiết lập nên một quy tắc phê duyệt hay từ chối các dự án dựa
trên tác động mà dự án đó có đối với độ thoả dụng tổng hợp của
những người có vị thế. Một quy tắc quyết định như vậy được gọi
là tiêu chuẩn phúc lợi xã hội. Để xây dựng được tiêu chuẩn phúc
lợi xã hội hỗ trợ cho CBA, chúng ta coi độ thoả dụng như có thể
đo đếm được và quyết định xem giả định nào là cần thiết để tạo
ra quy tắc thực tế hũu dụng.
Theo thuật ngữ toán học, phúc lợi xã hội là một hàm của các mức
thoả dụng khác nhau của N người trong một xã hội

Đạo hàm từng phần (patrial derivative) của phúc lợi xã hội liên
quan đến độ thoả dụng của một cá nhân i bất kỳ, , chỉ ra tầm
quan trọng của người đó trong hàm phúc lợi xã hội.
Phần lớn các dự án tạo ra lợi ích ròng cho một số người và mất
mát ròng cho một số người khác. Một hàm phúc lợi xã hội mô tả
cách thức so sánh giữa lợi ích và mất mát. Nếu các thay đổi trong
mức thoả dụng của tất cả các thành viên trong xã hội được biết
đến, tác động biên của một dự án đối với phúc lợi xã hội sẽ có
được từ công thức:


trong đó dUi là thay đổi trong độ thoả dụng đối với người i.
Phúc lợi xã hội là một khái niệm mang tính chủ quan. Trong lý
thuyết, hàm phúc lợi xã hội mô tả mức độ giàu có tổng thể của
toàn xã hội như một hàm của các mức thoả dụng của các thành
viên trong xã hội. Song có nhiều ý kiến khác biệt về mối quan hệ
toán học chính xác và tầm quan trọng tương đối của những
người khác nhau (thanh niên, người già, công dân tuân thủ luật
pháp và tội phạm).
Mục tiêu tốt hơn cả của bất kỳ một dự án công nào là tăng cường
phúc lợi xã hội. Vì thế, tiêu chuẩn đúng đắn để đánh giá một dự
án là liệu dự án có tăng giá trị của hàm phúc lợi xã hội.[6] Thật
không may, điều này là không tưởng về mặt tác nghiệp. Hàm
phúc lợi xã hội hiện không tồn tại. Ngay cả khi có một hàm phúc
lợi xã hội được tất cả mọi người nhất trí thì không dễ gì quan sát
được các hàm thoả dụng cá nhân và không thể đo lường được
thay đổi trong độ thoả dụng cá nhân. Thế nên, không thể đánh
giá các dự án theo tác động của dự án lên độ thoả dụng cá nhân
và phúc lợi xã hội. Tuy nhiên, nếu sửa đổi một chút thì điều kiện
phúc lợi xã hội cũng có thể trở nên thực tế hơn.
Chúng ta bắt đầu bằng cách giả định tối đa hoá độ thoả dụng.
Nếu mỗi cá nhân đang tìm cách tối đa hoá độ thoả dụng (giả định
kinh tế đầu tiên) thì tồn tại một mối quan hệ hữu ích giữa độ thoả
dụng cận biên và lợi ích ròng. Một người tối đa hoá độ thoả dụng
bị hạn chế về ngân sách sẽ giải quyết được vấn đề.

trong đó,
X là một vectơ của các số lượng hàng hoá
U(X) là hàm thoả dụng cá nhân
P là véctơ giá
Y là hàm thu nhập cá nhân

Trong tình huống đơn giản nhất, có thể giải quyết vấn đề này
bằng cách sử dụng phương trình Lagrangian

có các điều kiện đầu tiên
.
Trong trường hợp này, λ được hiểu là độ thoả dụng cận biên của
thu nhập.
Nếu một các nhân đang tối đa hoá độ thoả dụng và thay đổi
lượng hàng hoá tiêu dùng, tổng thay đổi trong độ thoả dụng tạo
ra sẽ là tổng tác động của các thay đổi trong độ thoả dụng.

Thế nên, thay đổi độ thoả dụng do thay đổi trong rổ hàng hoá tiêu
thụ gây ra ngang bằng với độ thoả dụng cận biên của thu nhập, λ,
nhân với tổng của các tích giữa giá và lượng của thay đổi tiêu
dùng. Tuy nhiên, đối với bất kỳ người nào, mức thay đổi độ thoả
dụng này chính là giá trị của lợi ích ròng của dự án. Thế nên, với
bất kỳ người nào thì


Chúng ta thu được kết quả là thay đổi trong mức phúc lợi xã hội
được mô tả như

trong đó

là tác động cận biên lên phúc lợi xã hội của việc tăng độ thoả
dụng của mỗi cá nhân

là độ thoả dụng biên i của thu nhập của mỗi người
NBi


là giá trị quy đổi ra tiền mặt của lợi ích ròng mà một người
nào đó nhận được (có thể là Biến đổi Bù đắp hay Biến đổi
Tương đương).
Trong khi chúng ta dự đoán giá trị cho những thay đổi trong tiêu
dùng mà một dự án tạo ra là NBi, chúng ta không thể đo được độ
thoả dụng thu nhập biên của mỗi cá nhân theo cách cho phép
chúng ta có thể so sánh chúng với các giá trị khác. Điều này có
nghĩa là chúng ta không thể tuyên bố rằng trên cơ sở đo lường là
mỗi một đôla thu nhập thêm Ông X có được có giá trị thấp hơn so
với mỗi một đôla thu nhập thêm của cô Y.
Tuy nhiên, cách có thể so sánh được là chúng ta lý giải xem việc
nhận thêm một đôla có tác động như thế nào đến sự giàu có hay
độ thoả dụng của một người. Một người có vai trò quan trọng đến
mức độ nào đối phúc lợi xã hội.
Trong công thức trên, thay đổi trong phúc lợi xã hội ? dW là tổng
gia quyền (weighted sum) của lợi ích ròng của mỗi cá nhân. Sức
nặng gắn cho lợi ích ròng của mỗi cá nhân là tích của và độ
thoả dụng cận biên của thu nhập. Trong đó, là một biểu thức
thể hiện tầm quan trọng của lợi ích ròng cá nhân đối với xã hội.
Kết hợp lại với nhau, hai khái niệm này hợp thành giá trị tương
đối mà xã hội gán cho một đơn vị thu nhập gia tăng của mỗi cá
nhân. Đó cũng là giá trị mà xã hội gán cho cá nhân nhận được
một đô la lợi ích ròng từ dự án
Biểu thức là tầm quan trọng tương đối của người i trong hàm
phúc lợi xã hội. Nói cách khác, đây chính là mức độ quan tâm mà
xã hội dành cho người đó. Trong một xã hội quân bình tuyệt đối,
giá trị này của mọi người có thể đều như nhau. Mỗi người sẽ có
tầm quan trọng ngang với người khác đối với phúc lợi xã hội.
Hoặc, mỗi người khác nhau sẽ có giá trị khác nhau. Điều này thể
hiện ý tưởng cho rằng xã hội quan tâm nhiều hơn đến một số

người này hơn một số người khác. Có thể trẻ em được đánh giá
cao hơn vì chúng có ít khả năng tự chăm sóc cho bản thân chúng
hơn hay vì chúng đại diện cho tương lai của xã hội. Bác sĩ, lính
cứu hoả và giáo viên được đánh giá cao hơn vì tính chất những
dịch vụ mà họ cung cấp. Trái lại, tội phạm có thể bị định giá thấp
hơn so với những công dân tuân thủ pháp luật.
Thế nên, nhìn chung, việc quyết định xem liệu một dự án có tăng
phúc lợi xã hội hay không tuỳ thuộc vào việc biết chính xác xem
dự án khiến cho độ thoả dụng của mỗi cá nhân thay đổi như thế
nào. Nếu bạn biết được hàm phúc lợi xã hội, bạn sẽ biết độ thoả
dụng của mỗi cá nhân tác động như thế nào đến phúc lợi xã hội
. Bạn có thể có một số giả định liên quan đến độ thoả dụng
cận biên thu nhập của mỗi cá nhân . Với giá trị được
cho trước, bạn chỉ cần biết lợi ích ròng NBi mà mỗi người được
hưởng để quyết định được tác động của dự án lên phúc lợi xã
hội. Đương nhiên, phần lớn các dự án đều ảnh hưởng đến số
người đủ đông để khiến cho thậm chí ngay cả phiên bản đơn
giản này của phúc lợi xã hội không thể được triển khai. Phần sau
sẽ bàn đến một số giả định cần thiết cho phân tích CBA.
3.6 Một số Giả định Đơn giản hoá Đặc biệt
Nếu các giả định này mang tính thực tế thì các phương pháp thảo
luận trong phần trước sẽ cho phép một nhà phân tích quyết định
xem tác động của một dự án đối với phúc lợi xã hội và kết quả là
đánh giá một cách chính xác liệu xem dự án đó có được mong
đợi hay không. Thật không may, trong nhiều trường hợp, ngay cả
phiên bản đơn giản của điều kiện phúc lợi xã hội như trình bày ở
trên cũng đòi hỏi thông tin nhiều hơn và đánh giá khách quan hơn
có thể được. Ngay cả việc nhất trí được về sức nặng nên gán
cho mỗi cá nhân khác nhau cũng sẽ là một việc vô vọng.
Giải pháp CBA vận dụng sức nặng giống nhau cho tất cả mọi

người. Sức nặng xã hội cho mỗi người là giống nhau. Có nghĩa là
cho tất cả mọi người. Điều này cho chúng ta một phương
trình đơn giản cho thay đổi trong phúc lợi xã hội:

Điều này chỉ ra rằng thay đổi trong phúc lợi xã hội ngang bằng vói
tổng các tích của độ thoả dụng thu nhập cận biên cá nhân và lợi
ích ròng cá nhân.
Giảđịnh đơn giản hoá này đáng được đưa ra để thảo luận.[7]
Trước tiên, giảđịnh rằng tất cả mọi người đều có tầm quan trọng
ngang nhau trong một xã hội quân bình. Thứ hai, giảđịnh này góp
phần đảm bảo rằng các dự án tăng tổng tài sản sẽđược coi
làđáng mong đợi. Nguyên nhân là bởi việc tạo ra tài sản có ý
nghĩa quan trọng hơn việc dự án sẽ tạo ra tài sản cho ai. Cuối
cùng, nếu trong thực tế có một số người có vai trò quan trọng
hơn một số người khác đối với xã hội thì các chương trình
chuyển nhượng tài sản trực tiếp có thểđược sử dụng để hỗ trợ
những người có giá trị lớn hơn một cách hiệu quả hơn nếu dự án
được thực hiện dưới một dạng khác.
Thuật ngữ biểu hiện độ thoả dụng thu nhập cận biên của người
i. Một giả định thường thấy trong kinh tế là độ thoả dụng thu nhập
cận biên giảm dần, ý tưởng cho rằng độ thoả dụng tăng thêm từ
một gia tăng nhỏ trong thu nhập giảm dần khi thu nhập tăng. Giả
định này nhất quán với hành vi né tránh rủi ro như mua bảo hiểm
hay đa dạng hoá gói đầu tư. Nhìn một cách trực quan hơn, điều
này nhất quán với ý tưởng cho rằng $1000 thu nhập có thêm đối
với một người ở trong tình trạng nghèo đói cùng cực là quan
trọng hơn so với một người tương đối sung túc. Thế nên, đối với
bất kỳ người nào, độ thoả dụng thu nhập cận biên giảm dần khi
thu nhập tăng dần.
Trong khi không thể so sánh độ thoả dụng giữa các cá nhân,

nhiều người sẽ lập luận rằng một sự gia tăng trong thu nhập sẽ
có ý nghĩa nhiều hơn là việc tạo ra một biến đối cho một người
nghèo một cách cùng cực. Nếu mọi người được giả định là ít
nhiều có giống nhau về mặt năng lực hưởng thụ thì một đồng đô
la thu nhập có thêm đối với người nghèo sẽ có ý nghĩa lớn hơn
so với người giàu. Trong trường hợp đó, độ thoả dụng cận biên
của người nghèo hơn là lớn hơn, của người giàu hơn là nhỏ hơn.
Người có thu nhập thấp hơn sẽ đóng vai trò quan trọng hơn trong
hàm phúc lợi xã hội. Hàm ý ở đây có nghĩa là, với những điều
kiện khác giống nhau, nên định giá chi phí lợi ích đối với người
nghèo cao hơn đối với người giàu. Điều này dẫn đến một số đề
xuất về loại hình CBA trong đó sức nặng khác nhau được gán
cho người có thu nhập khác nhau (trích dẫn). Tuy nhiên, đây
không phải là cách tiếp cận chuẩn mực.
Vấn đề là ở chỗ, cũng như sức nặng xã hội cho mỗi cá nhân,
người ta cũng không nhất trí được về độ thoả dụng thu nhập cận
biên cho mỗi cá nhân. Thế nên, cách tiếp cận chuẩn một lần nữa
lại là coi như độ thoả dụng thu nhập cận biên của mọi người đều
như nhau. Điều này cho chúng ta một phương trình cho thay đổi
phúc lợi xã hội do dự án gây ra như sau:

Trong phiên bản đơn giản này, phúc lợi xã hội còn tăng chừng
nào tổng lợi ích ròng của các cá nhân, tổng lợi ích ròng của dự
án mang giá trị dương. Đơn giản hơn, một dự án là đáng được
mong đợi về mặt kinh tế nếu nó có lợi ích ròng dương.
Công thức này được biết đến như tiêu chuẩn Kaldor-Hicks (KH).
Kaldor (1939) đề xuất tiêu chuẩn KH vào năm(1939) và được
Hicks (1939) ứng dụng. Tiêu chuẩn KH có thể được phát biểu
như sau:
Một dự án là có thể chấp nhận được khi người được lợi từ dự án

về lý thuyết có thể bù đắp cho những người chịu thiệt hại do dự
án gây ra. (Kaldor, 1939, tr. 549-550).
Một phiên bản đơn giản hoá, tuy không nhất thiết phải là một
phiên bản tương tự của cách phát biểu này là một dự án là có thể
chấp nhận được khi lợi ích cho người được lợi lớn hơn thiệt hại
gây ra cho những người bị hại hay tổng lợi ích ròng của các cá
nhân mang giá trị dương.[8]
Thử nghiệm này là những gì mà các nhà kinh tế muốn nói khi họ
nói một cách thực tiễn về hiệu quả kinh tế. Tiêu chuẩn này cũng
được biết đến như thử nghiệm đền bù tiềm tàng - potential
compensation test (PCT) vì người được lợi có khả năng bù đắp
cho những người chịu thiệt hại. Lý giải ban đầu cho thử nghiệm
này là tách biệt những tính toán hiệu quả ra khỏi suy tính về sự
cân bằng. Vì chỉ có tính hiệu quả chứ không phải là độ công bằng
mới được coi là thuộc lĩnh vực của các nhà kinh tế.
Thảo luận Tiêu chuẩn Kaldor Hicks
Thử nghiệm do Kaldor đề xuất giả định rằng xuất phát điểm là
hiện trạng. KH đo lường lợi ích và chi phí của việc chuyển[9] từ
trạng thái hiện tại sang một trạng thái mới. Lợi ích được đo bằng
WTP và chi phí được đo bằng WTA. Giá trị của thay đổi là tổng
của các biến bù đắp. Biến bù đắp lấy mức thoả dụng gốc làm
xuất phát điểm. Quyền được hưởng những lợi ích mà dự án đem
lại không phải là quyền cố hữu của người hưởng lợi. Họ phải trả
phí để có được những lợi ích đó. Bởi vậy, ta mới có WTP. Quyền
được tránh không phải chịu những thiệt hại liên quan đến dự án
là quyền cố hữu của người chịu thiệt hại. Họ phải được đền bù và
ta có WTA. KH[10] là tiêu chuẩn phân tích chi phí lợi ích chuẩn.
Nó bao hàm việc đo biến bù đắp của một thay đổi phúc lợi xã hội.
Hãy tưởng tượng một dự án có tác động đến hai người, giúp họ
chuyển từ một thế giới này, thế giới A sang một thế giới khác, thế

giới B. Như thể hiện trong Bảng W-3A dưới đây, người 1 hưởng
lợi từ dự án trong khi người 2 chịu thiệt.
Bảng W-3A: Giá trị của Dịch chuyển từ A sang B
WTP WTA
Người 1 - đư
ợc
lợi
Biến đổi Bù đắp = $100

Biến đổi Tương đương
= $120
Người 2 - bị hại

Biến đổi Tương đương
= $-75
Biến đổi Bù đắp = $-95
KH bổ sung WTP của người được lợi vào WTA của người bị hại.
Điều này có nghĩa là lợi ích được đo bằng WTP và thiệt hại được
đo bằng WTA. Bởi vậy, kết quả đo KH giá trị của việc chuyển từ
A sang B là $100 ? $95 hay $5. (TQ hiệu đính: người 1 chịu trả
$100 để có 1 sự lợi ích $120, còn người 2 chịu nhận $95 bù đắp
cho sự thiệt thòi là $-75. Vậy lợi ích ròng cho xã hội là $5).
Lưu ý rằng cũng có thể đo thay đổi phúc lợi bằng tổng các Biến
đổi Tương đương. Tuy nhiên, cách làm này đưa lại đáp số không
nhất quán với kết quả KH. Nó sẽ là WTA cho lợi ích và WTP cho
thiệt hại. Nếu như ở ví dụ trên thì kết quả đó sẽ là $120-$75 hay
$45.
Giả định rằng chúng ta dùng KH để đo lường thay đổi tiêu cực
như thể hiện trọng Bảng W-3B. Thay đổi này là việc chuyển từ
trạng thái A sang trạng thái B. Lúc đó, người 1 sẽ là người bị thiệt

và người 2 sẽ là người được lợi. Lợi ích mà người 2 thu được sẽ
được đo bằng WTP vì sự biến chuyển này sẽ là $+75. Thiệt hại
của người 1 sẽ được đo bằng WTA. Mức thiệt hại sẽ là $120. KH
của một biến đổi từ B sang A sẽ là $75 - $120 hay -$45. Đây là
phủ định của giá trị biến đổi tương đương của dịch chuyển từ A
sang B. Điều này có nghĩa là giá trị tuyệt đối của kết quả phép đo
KH (dựa trên Biến đổi Bù đắp) đối với giá trị của biến đổi từ B
sang A bằng với giá trị tuyệt đối của phép đo Biến đổi Tương
đương của thay đổi từ A sang B.
Bảng W-3B: Giá trị của Thay đổi từ B sang A
WTP WTA
Người 1 - bị
thiệt
Biến đổi Bù đắp = $-
100
Biến đổi T
ương đương =
$-120
Người 2 - đư
ợc
lợi
Biến đổi Tương đương
= $75
Biến đổi Bù đắp = $95
Đối với một hàng hoá thông dụng thì giá trị WTA của một người
sẽ ngang bằng hay lớn hơn WTP của họ. Điều này là bởi WTA
được đo từ một vị trí phúc lợi cao hơn so với WTP. Việc sử dụng
WTA giả định rằng mỗi cá nhân có quyền không chấp nhận bị
mất mát và luôn mong có được nhiều của cải hơn so với ban
đầu. Ngoài ra, WTP bị bó buộc trong thu nhập của mỗi cá nhân

trong khi WTA thì lại không.
Quyết định có nên dịch chuyển hay không phụ thuộc vào nguyên
trạng của thế giới. Nếu bạn tưởng tượng rằng có hai trạng thái
của thế giới, C và D thì kết quả KH có thể ngụ ý cả hai điều, hoặc
việc dịch chuyển từ C sang D là không được mong đợi hoặc việc
dịch chuyển từ D sang C là không được mong đợi. Xuất phát
điểm có thể quyết định kết quả. Đây không phải là vấn đề.
Khuyến nghị chúng tôi đưa ra là lấy hiện trạng làm xuất phát
điểm. Cách tiếp cận như vậy nhất quán với nhóm các quyền hợp
pháp hiện hành. Trong một số trường hợp, các quyền theo luật
định là hoàn toàn không rõ ràng. Thế nên, xuất phát điểm cũng
hoàn toàn không rõ ràng. Trong trường hợp có thể coi việc trao
quyền là lợi ích của bên nhận quyền và WTP được vận dụng sao
cho (hàng hoá hay quyền? tuỳ theo điều bạn muốn nói tới?) có
thể được đưa ra bán đấu giá theo quy tắc KH.[11]
Ví dụ: Những cây Bách tùng Cổ đại ở Headwaters Grove[12]
Headwaters Grove là khu vực có rừng bách tùng cổ thụ tư hữu ở
vùng bắc California. Giá trị gỗ của cây bách tùng cổ ước tính từ
$100 triệu đến $500 triệu. Trong khoảng 10 năm, Công ty Gỗ
Thái Bình Dương đã trình lên Ban Lâm nghiệp California quy
hoạch khai thác gỗ và tiến hành đốn cây lấy gỗ. Tuy nhiên, cho
đến nay nỗ lực của công ty vẫn bị cản trở bởi các nhóm môi
trường. Họ đã thành công trong việc ngăn cản không cho công ty
khai thác gỗ. Điều này cho thấy dù quyền sở hữu tài sản lập pháp
có thể thuộc về ai đi chăng nữa thì các quyền sở hữu tài sản kinh
tế có vẻ như vẫn thuộc về các nhóm môi trường.
Đây là trường hợp mà chi phí đốn cây, tức là WTA như thể hiện
bởi các nhóm môi trường vượt quá giá trị WTP của công ty. Thật
ra, nếu không phải là tình huống này thì công ty khai thác gỗ có
khả năng đưa ra đền bù cho các nhóm liên quan đến môi trường

(có thể là bằng tiền mặt hay bằng quyền sở hữu đất/thuê đất).
Đổi lại họ sẽ thôi không phản đối việc khai thác khu Headwaters
Grove lấy gỗ.
Nếu thay vì đó, công ty khai thác gỗ có quyền đốn cây thì phân
tích chi phí lợi ích của dự án liên quan sẽ cho kết quả là huỷ bỏ
việc đốn gỗ. Trong trường hợp này, lợi ích (không đốn cây) sẽ
được định giá theo mức WTP của các nhóm môi trường trong khi
chi phí, tức là giá trị của lượng gỗ mất đi từ 100 triệu USD đến
500 triệu USD sẽ được định giá tương ứng với mức WTA. Trong
tình huống này, có thể giá trị WTA vượt giá trị WTP và người ta

×