Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Tài liệu Phân Tích Chi Phí và Lợi Ích - CHƯƠNG 3: Phân Tích các Thay Đổi Phúc Lợi pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (377.47 KB, 20 trang )

CHƯƠNG 3: Phân Tích các Thay Đổi
Phúc Lợi
Allen S. Bellas và Richard O. Zerbe
Phân tích CBA chủ yếu là tìm xem liệu một dự án có khiến cho mọi người trở nên
giàu có hơn hay không. Các dự án thay đổi tổ hợp hàng hoá mà mọi người tiêu
dùng, giảm bớt số lượng của loại hàng này và tăng số lượng của một loại hàng
khác. Trong khi mục tiêu của chúng ta là phải đưa ra được những lời tuyên bố với
cả cộng đồng khẳng định xem cộng đồng đó có trở nên khá giả hơn nhờ dự án hay
không. Chúng ta phải bắt đầu phân tích ở cấp độ mỗi cá nhân và hỏi xem liệu một
dự án có làm cho một người trở nên giàu có hơn hay không.
Chương này bắt đầu với một thảo luận lý thuyết về các thay đổi trong độ thoả
dụng cá nhân. Bằng cách nào mà một dự án có thể khiến cho một cá nhân trở nên
khá giả hơn hay nghèo khó hơn. Làm cách nào để đo lường được giá trị của những
thay đổi này. Từ đó, chúng ta sẽ bàn xem cần phải làm gì để đánh giá các dự án
trong trường hợp có nhiều bên liên quan với điều kiện có thông tin hoàn hảo về sở
thích của mỗi cá nhân và các tác động của dự án. Cuối cùng, chúng ta sẽ chuyển từ
những ý tưởng có vẻ như trừu tượng về độ thoả dụng và phúc lợi xã hội cá nhân
sang những cách tiếp cận thực tế hơn để quyết định xem liệu các dự án có đáng
được triển khai xét trên phương diện kinh tế hay không.
Các khái niệm được thảo luận trong chương này tạo thành cơ sở cho các kỹ thuật
thực tế mô tả trong các chương VI và V. Quan trọng hơn, các khái niệm này giúp
bạn đọc có thể quyết định được đâu là thời điểm thích hợp để áp dụng trực tiếp các
kỹ thuật thực tế hơn vào phân tích chi phí-lợi ích, lúc nào thì phân tích sẽ mang lại
những kết quả không chuẩn xác.
3.1 Phân tích các mức Thay đổi độ Thoả dụng Cá nhân
Một đánh giá CBA chính xác đối với một dự án phải được dựa trên tác động của
dự án đối với mọi người. Tuy nhiên, vì phúc lợi của nhóm hay phúc lợi xã hội lại
phụ thuộc vào độ thoả dụng cá nhân nên thảo luận của chúng ta bắt đầu với các tác
động của một dự án đối với mỗi một cá nhân.
Các tác động thật của một dự án là những thay đổi trong tiêu dùng mà nó tạo ra.
Nếu một dự án tiêu dùng một loại hàng hoá và sử dụng nó như một đầu vào của dự


án thì lượng cung loại hàng đó sẽ giảm. Nếu một dự án sản xuất ra một mặt hàng,
tức là đầu ra của dự án thì lượng cung mặt hàng đó sẽ tăng. Dù trong trường hợp
nào thì các quyết định tiêu dùng cá nhân cũng có khả năng thay đổi do tác động
của dự án. Chúng ta có thể phân tích tác động của một dự án lên mỗi cá nhân bằng
cách sử dụng các đường bàng quan. Ví dụ như nếu một người tiêu thụ nhiều hơn
một mặt hàng và giữ nguyên một mặt hàng khác thì độ thoả dụng của người đó sẽ
tăng (đơn giản có nghĩa là người đó sẽ trở nên giàu có hơn) do tác động của dự án.
Mặt khác, nếu một người tiêu thụ ít hơn một loại hàng hoá trong khi giữ nguyên
lượng tiêu thụ đối với các loại hàng hoá khác thì độ thoả dụng của anh ta sẽ giảm.
Trường hợp thường gặp là dưới tác động của dự án, một người sẽ tiêu dùng nhiều
hơn một số loại hàng hoá trong khi tiêu dùng ít đi một số loại hàng hoá khác .
Điều này khiến cho tác động của dự án lên độ thoả dụng trở nên mơ hồ. Có nghĩa
là một dự án như vậy có thể tăng, giảm hay không thay đổi độ thoả dụng của một
người.
Trước hết, chúng ta sẽ xét tình huống mà một dự án không có tác động lên giá thị
trường. Tiếp đó, chúng ta sẽ chuyển sang tình huống mà một dự án tác động đến
giá cả hoặc của đầu vào hoặc của đầu ra.
Hình WW-1 mô tả các tác động của một thay đổi trong mức tiêu dùng lên độ thoả
dụng cá nhân. Tăng lượng tiêu dùng mặt hàng Y tạo ra di chuyển từ A đến B đẩy
cá nhân lên đường bàng quan cao hơn. Điều này là dấu hiệu cho thấy rằng họ đã
trở nên giàu có hơn. Mức tiêu dùng mặt hàng Y di chuyển từ A đến C, tức là giảm
đi khiến cho mỗi cá nhân trở nên nghèo hơn. Nếu một dự án tăng lượng tiêu dùng
của một mặt hàng và giảm lượng tiêu dùng của một mặt hàng khác thì tác động lên
độ thoả dụng hay phúc lợi là mờ nhạt. Tăng lượng tiêu dùng mặt hàng X và giảm
lượng tiêu dùng mặt hàng Y có thể dẫn đến tình trạng một cá nhân giàu có (dịch
chuyển từ A đến E) hơn hay nghèo khó hơn (dịch chuyển từ A đến D) tuỳ thuộc
vào từng thay đổi cụ thể và thị hiếu của mỗi cá nhân.
Hình W-1

Trong kinh tế, độ giàu có, độ thoả dụng được đánh giá theo thứ tự nhiều hơn là đo

lường chính xác bằng số lượng. Điều này có nghĩa là không có giá trị số nào cho
phép việc đo lường xem mức độ một người giàu lên, nghèo đi là bao nhiêu do thay
đổi trong tiêu dùng. Điều duy nhất có thể nói được là liệu một người có trở nên
giàu có hơn (độ thoả dụng tăng) hay nghèo khó đi (độ thoả dụng giảm) do tác
động của một thay đổi trong tiêu dùng.
3.2 Các Tác động của Dự án khi Giá cả Không đổi
Xét một dự án tiêu dùng một số mặt hàng (đầu vào) và tạo ra một số mặt hàng
khác (đầu ra) mà không ảnh hưởng gì đến mức giá thị trường. Điều này sẽ xảy ra
nếu như dự án có quy mô đủ nhỏ trong tương quan với thị trường để không gây ra
một thay đổi nào trong giá cả. Trong trường hợp đó, có thể sẽ là thích hợp khi chỉ
đơn giản xét tác động đối với tiêu dùng của một cá nhân với giả định rằng mức giá
không thay đổi. Những thay đổi trong mức tiêu dùng sẽ ảnh hưởng đến sự giàu có
hay độ thoả dụng. Giá trị của một đồng đô la có thể gắn liền với thay đổi dựa trên
thay đổi trong giá trị của hàng hoá được tiêu dùng.
Ví dụ như hãy tưởng tượng rằng có một chương trình phân phối phó mát thừa.
Nếu phó mát được bán ở chợ với mức giá là $4/pao và chương trình phân phát 5
pao phó mát cho một người thì giá trị của lượng phó mát mà một người được nhận
có thể là $20
[1] nếu như người nhận phó mát thờ ơ giữa việc nhận phó mát và
nhận một lượng tiền mặt tương ứng và chương trình không gây ra thay đổi trong
mức giá phó mát trong tương đối với giá của các loại hàng hoá khác. Nói một cách
khác, $20 có thể là giá trị thích hợp cho lượng phó mát được phân phát nếu một
người sẽ tiêu dùng một lượng phó mát tương tự nếu họ được cung cấp $20 tiền
mặt. Đây là tình huống được mô tả ở Hình W-2.
Hình W-2

Có thể có một số chương trình phân phối trực tiếp các mặt hàng mà mọi người
hoặc không tiêu dùng hoặc có tiêu dùng song là những lượng rất nhỏ. Nếu người
nhận không thể bán lại những gì họ nhận được thì có thể không hợp lý khi định giá
đầu ra của chương trình theo mức giá thị trường. Đặc biệt hơn là trường hợp dự án

trao một lượng lớn hàng hoá cho mọi người. Trong trường hợp này sẽ là thích hợp
để định giá đầu ra của dự án theo mức giá thị trường khi người hưởng lợi từ dự án
dùng toàn bộ số tiền được cấp phát để mua duy nhất mặt hàng đó nếu họ được cho
tiền thay vì cấp hàng.
Nói đến ví dụ trước, hãy tưởng tượng là thay vì được cung cấp 5 pao phó mát, một
đối tượng tiếp nhận của chương trình được phân phát 500 pao phó mát và vì nhiều
lý do khác nhau người này không thể bán lại lượng phó mát được phân phát. Giả
định rằng những người tiếp nhận sẽ không vì thế mà tiêu dùng được ngần đó phó
mát, giá trị chính xác của lợi ích này có thể ít hơn giá trị tiền mặt tương ứng, tức là
$2000.
[2]
Một ví dụ khác là xét một dự án chung cư[3] cung cấp nhà ở tương ứng với lượng
nhà do tư nhân cung cấp trị giá $1500/tháng. Có thể người ta sẽ muốn gắn giá trị
$1500/tháng cho các đơn vị nhà ở dự án cung cấp. Tuy nhiên, điều này chỉ thích
hợp nếu như cư dân khi được cho $1500 một tháng sẽ tiêu tất cả khoản tiền đó vào
nhà ở. Nếu một người chỉ chi một phần trong khoản $1500 vào nhà ở thì giá trị
đúng gắn cho nhà ở sẽ nhỏ hơn. Mức độ nhỏ hơn bao nhiêu tuỳ thuộc vào một số
giả định kỹ thuật về các thị hiếu của cá nhân. Song chắc chắn là giá trị đó sẽ nhỏ
hơn $1500.
Một cách tiếp cận khác khá hữu hiệu trong việc xác định giá trị của lợi ích. Đó là
hình dung xem một người hưởng lợi có sẵn sàng trả tiền để mua phó-mát hay
không. Trong các ví dụ trên, thì giá trị chính là số tiền mà người tiếp nhận sẵn
sàng chi trả để có được 5 pao phó-mát, 100 pao phó-mát hay một căn hộ có mức
giá thuê trên thị trường là $US 1500. Chính độ sẵn sàng để chi trả (Willing To Pay
~ WTP) là giá trị của lợi ích dự án. Giả định ngầm ở đây là người hưởng lợi không
có quyền gì với lợi ích trước dự án nên giá trị phải dựa trên các điều kiện trước dự
án.
Hay có thể giả định rằng người hưởng lợi có quyền được hưởng lợi ích trước dự
án. Nếu dự án không được thực hiện, họ sẽ có quyền được đền bù. Trong giả định
này, giá trị của lợi ích là mức đền bù cần thiết để độ thoả dụng tương đương với

độ thoả dụng mà dự án đem lại nếu nó được triển khai. Đó là độ sẵn sàng chấp
nhận (Willing To Accept ~ WTA), giá trị của lợi ích do dự án mang lại. Giá trị này
phải dựa trên các điều kiện có được sau dự án.
Nhìn chung, giá trị WTP của lợi ích sẽ ít hơn giá trị WTA. Tuy nhiên, trong những
tình huống mà các mức giá không đổi, giá trị WTP của lợi ích sẽ giống và ngang
với mức giá thị trường.
Ví dụ: Chung cư
Hãy tưởng tượng rằng một dự án chung cư sẽ cung cấp 100 căn hộ cho một người.
Để mọi thứ tương đối đơn giản, giả định rằng một căn hộ được xác định là có mức
giá thị trường là US $1. Tất cả các hàng hoá khác (một tổ hợp của tất cả những thứ
khác mà một cá nhân tiêu dùng) đều được định giá ở mức tương tự US $1/căn hộ.
Phải xác định giá trị của 100 căn hộ chung cư như thế nào?
Chỉ đơn thuần định giá một căn hộ ở mức $1/căn hộ (tức là tổng giá trị cho tất cả
các căn hộ là $100) có thể sai. Xét biểu đồ dưới đây mô tả tác động của dự án nhà
ở lên ngân sách của một người. Việc cung cấp cho một người 100 đơn vị nhà
khiến cho đường ngân sách di chuyển ra bên ngoài, tăng lượng nhà tối đa mà một
cá nhân có thể tiêu dùng song lại không mấy ảnh hưởng đến số lượng tối đa của
các loại hàng hoá khác.
Nếu đường bàng quan (indifference curve) không tiếp tuyến với phần dốc xuống
của đường ngân sách (budget) tại một điểm thì kết cục là người đó sẽ chọn tiêu
dùng tại điểm góc (corner point) của đường hạn chế ngân sách của họ.
Vấn đề là ở chỗ người đó sẽ nằm trên một đường bàng quan mà với một lượng tiền
mặt tài trợ ít hơn, người đó vẫn có thể giữ được đường bàng quan như vậy.

Như được minh hoạ dưới đây, người đó có thể đạt được mức thoả dụng tương tự
với một khoản tiền tài trợ ít hơn, ví dụ như $80 chẳng hạn. Lúc đó, giá trị chính
xác gắn cho các đơn vị nhà ở là $80.

Ví dụ: Chương trình Phân phát Muối
Một ví dụ cực đoan hơn. Hình dung rằng một tổ chức các nhà sản xuất muối

thuyết phục được các quan chức triển khai một chương trình mua và phát cho mỗi
công dân trong đất nước 1000 pao muối. Nếu muối có giá trị là $1/pao, thì một
nhà phân tích ngây thơ sẽ có xu hướng định giá lợi ích mà chương trình này mang
lại ở mức $1000/người. Tuy nhiên, phần lớn mọi người đều sẽ gắn một giá trị thấp
hơn mức $1000 rất nhiều cho lợi ích này. (TQ hiệu đính: vì không có ai rồ đến nổi
phải ăn 1000 pao hay 500 kilo muối cả. Số lượng muối 1 người cần dùng tất nhiên
là ít hơn 1000 pao rất nhiều. Phần dư thừa không có làm lợi cho người không tiêu
dùng.)

Việc chỉ ra điều kiện cần thiết cho phân tích này là một việc đáng làm. Điều kiện
đó là người tiếp nhận lợi ích không thể bán lại lợi ích cho người khác (vì bất kỳ lý
do gì). Nếu có thể bán được tất cả các loại hàng hoá này với mức giá thị trường thì
chương trình sẽ có tác động tương tự như một chuyển nhượng tiền mặt vì bất kỳ
người nào nhận được một số lượng dư thừa có thể dễ dàng chuyển đổi nó sang tiền
mặt. Việc không thể chuyển đổi hàng hoá sang tiền (và tiếp đó là sang các loại
hàng hoá khác) giảm giá trị của mặt hàng đó đến một độ nào đó.

Hình vẽ này mô tả quá trình định giá cho chương trình muối. Cho một người 1000
đơn vị muối chỉ có giá trị thực là $500 nếu không thể bán lại được số muối này.
Tuy nhiên, nếu có thể bán lại muối với mức giá thị trường là $1/pao thì chương
trình đồng nghĩa với việc cho người hưởng lợi $1000 tiền mặt. Kết cục là người
hưởng lợi dừng lại ở đường bàng quan cao hơn.
Phân tích các chi phí dự án cũng giống như phân tích các lợi ích của dự án. Nếu
các mức giá không bị ảnh hưởng bởi một dự án thì các đầu vào phải được định giá
theo mức giá thị trường. Chi phí của đầu vào dự án là giá trị mà người tiêu dùng
có thể gắn cho đầu vào. Với tổng lượng đầu vào không đổi thì việc dự án tiêu dùng
bất kỳ một lượng đầu vào nào cũng nhất thiết khiến người tiêu dùng cá thể giảm
lượng tiêu dùng đầu vào đó. Giả định rằng người tiêu dùng có xu hướng tối đa hoá
độ thoả dụng, giá trị cận biên trong điều kiện cân bằng phải ngang với mức giá thị
trường của đầu vào.

Ví dụ, nếu có một lượng lao động cố định được cung cấp trong thị trường và dự án
dùng 1000 giờ lao động thì các nhà tuyển dụng tư trong vùng sẽ thấy mất đi một
lượng lao động mà họ có thể thuê là 1000 giờ lao động. Giá trị mà nhà tuyển dụng
gắn cho lượng lao động này là chi phí sử dụng lượng lao động đó trong dự án.
Xét một ví dụ khác. Hãy hình dung rằng lượng điện có sẵn trong một khu vực là
một lượng cố định. Nếu dự án lấy đi một lượng điện trong tổng số điện đó (có thể
là sử dụng điện hay giảm khả năng cung cấp điện) thì giá trị mà người tiêu dùng cá
thể gắn cho lượng điện này sẽ là chi phí của việc dùng điện trong dự án.
Nếu các thị trường vận hành tốt
[4], các mức giá của đầu vào phải là thước đo giá
trị của đầu vào. Nếu quy mô của dự án là tương đối nhỏ so với thị trường thì mức
giá đầu vào có thể sẽ không thay đổi khi có dự án.
Cũng như với lợi ích, giá cả là cách đo giá trị của đầu vào chuẩn xác nhất song
cũng phải xét dưới hai góc độ. Nếu như đầu vào chỉ đơn giản chuyển từ tay một cá
nhân sang dự án thì giả định rằng sẽ là dự án có quyền sở hữu với đầu vào. Lúc
đó, những người vận hành dự án phải đưa ra một mức chào giá mà người đó sẵn
sàng chấp nhận đánh đổi để cho đầu vào của mình được sử dụng trong dự án. Với
những giả định này, giá trị gán cho đầu vào là độ sẵn sàng chấp nhận của mỗi cá
thể tư (WTA). Tầm quan trọng của giả định là người hưởng lợi có quyền đối với
đầu vào trước khi tiến hành dự án. Bởi vậy, giá trị được dựa trên các điều kiện tiền
dự án.
Một tình huống khác, có thể giả định là cá thể tư không có quyền định trước đối
với các đơn vị đầu vào. Với giả định này, cá thể tư có thể sẽ phải chi tiền để mua
loại đầu vào đó. Sẽ có một khối lượng tối đa nào đó mà cá thể này sẵn sàng trả tiền
mua để có được mức thoả dụng tương tự như khi không có cơ hội để mua. Giá trị
này là độ sẵn sàng chi trả của cá thể tư (WTP). Giả định ngầm ẩn ở đây là người
hưởng lợi không có quyền sở hữu đối với đầu vào trước khi tiến hành dự án. Bởi
vậy, giá trị được dựa trên các điều kiện sau dự án.
[5]
Như trước đây, trong khi thường thì đúng là giá trị WTP của một đầu vào sẽ ít hơn

giá trị WTA của đầu vào đó thì trong những trường hợp mà giá cả không thay đổi,
những giá trị này thường sẽ giống nhau và ngang với mức giá thị trường.
Có thể đưa ra một quy tắc riêng cho những loại hàng hoá độc đáo ở một đặc điểm
nào đó. Hai ví dụ quan trọng là mặt hàng bất động sản và mặt hàng liên quan đến
một giá trị tình cảm nào đó. Một ngôi nhà trưng dụng để phục vụ một dự án có thể
có giá trị thị trường hợp lý trong khả năng dự đoán của nhà thẩm định. Song nếu
như mảnh đất vì một lý do nào đó là độc đáo và cư dân của căn nhà đó gắn bó một
cách vô cùng chặt chẽ với căn nhà thì giá trị WTP hay WTA của cư dân có thể
vượt xa hơn mức thẩm định rất nhiều. Trong những trường hợp như vậy, giá trị thị
trường hợp lý phải được coi là ở mức thấp hơn so với giá trị của mặt hàng.
Việc đánh giá các tác động của một dự án trở nên phức tạp hơn khi có khả năng là
các mức giá sẽ thay đổi do triển khai dự án.
3.3 Tác động của Dự án khi Giá Thay đổi: Biến động Bù đắp và Biến động
Tương đương
Thường thì các đầu vào (input) và đầu ra (output) của dự án được mua bán trao đổi
trên thị trường. Điều này có nghĩa là cơ quan thực thi dự án mua đầu vào và phân
phối đầu ra thông qua các thị trường. Hay một chương trình có thể buộc các cá thể
tư phải mua bán trong các thị trường. Điều này có thể tạo ra thay đổi giá cả nhất là
nếu dự án có quy mô tương đối lớn so với kích cỡ của thị trường. Thay đổi trong
tiêu dùng do dự án tạo ra có thể là kết quả của thay đổi giá cả hơn là của việc phân
bổ trực tiếp đầu vào hay đầu ra.
Có thể lấy ví dụ từ một số dự án. Êtanol, một chất thay thế cho xăng được làm từ
ngô. Chất này được một số dự án của chính phủ sản xuất và bán trên các thị trường
xăng dầu thông thường. Sản phẩm điện do các dự án thuỷ điện liên bang làm ra
được bán trên các thị trường điện vùng. Nếu đầu ra của các dự án này có số lượng
đủ lớn so với kích cỡ các thị trường tương ứng thì chúng sẽ tạo ra thay đổi giá cả.
Việc sản xuất và bán chất êtanol có thể làm giảm giá chất đốt và tăng tiêu dùng.
Việc bán điện sản xuất từ các đập do bang tài trợ sẽ giảm giá điện và trong trường
hợp này cũng vậy khiến tiêu dùng tăng. Các mức giá thấp hơn sẽ đem lại lợi ích
cho người tiêu dùng những loại hàng hoá này vì tiết kiệm chi phí từ mỗi đơn vị mà

họ đáng lẽ ra họ đã phải trả thêm khi mua sản phẩm và bởi giá trị mà họ gắn cho
mỗi đơn vị gia tăng mà họ tiêu dùng. Hoặc một điều luật bắt đội mũ bảo hiểm có
thể tăng nhu cầu đối với mũ bảo hiểm một cách đáng kể đủ để tăng giá mũ bảo
hiểm. Giá tăng sẽ gây thiệt hại cho người sử dụng mũ bảo hiểm.
Giá trị của một thay đổi giá cả đối với người tiêu dùng bằng với giá trị độ sẵn sàng
chi trả (WTP) cho thay đổi giá cả đó (dù là để tạo ra một sự giảm giá hay tránh sự
lên giá) hay giá trị độ sẵn sàng chấp nhận (WTA) để đổi lại thay đổi giá cả (bù đắp
cho một sự giảm giá không xảy ra hay một sự tăng giá đã xảy ra). Chúng ta có thể
có được những hiểu biết sâu sắc về những khái niệm này bằng cách phân tích
đường bàng quan (indifference curve).
Trước hết, xét lợi ích mà một người tiêu dùng thu được từ một sự giảm giá. Nỗ lực
ban đầu trong việc xác định giá trị của thay đổi giá cả sẽ chỉ đơn giản là nhân thay
đổi giá với số lượng hàng hoá tiêu thụ. Tuy nhiên, việc này sẽ bỏ qua thực tế là có
thể lượng tiêu dùng đối với loại hàng này hay loại hàng khác sẽ gia tăng.
Nếu mức giá ban đầu của một loại hàng hoá là $20/đơn vị và một người tiêu dùng
tiêu biểu mua 100 đơn vị thì giá trị của việc giảm giá xuống mức $18/đơn vị có thể
được xác định ở mức $200. Song giá trị này có thể là tương đối có thể làm cho
chính xác hơn. Cách xác định giá trị này không tính đến giá trị của bất kỳ một tiêu
dùng bổ sung nào mà việc giảm giá có thể tạo ra.
Việc xác định giá trị chuẩn xác đối với một thay đổi giá cả kiểu như vậy được thực
hiện thông qua phân tích các đường bàng quan. Để đạt được những mục đích mà
ví dụ này đặt ra, hãy hình dung rằng một dự án của chính phủ sẽ khiến cho giá
rượu giảm.
Giá giảm và thay đổi trong mức tiêu dùng sản phẩm rượu và các hàng hoá khác
được thể hiện trong hình vẽ dưới đây.
Hình W-3

Giảm giá rượu xoay đường ngân sách từ MM sang MM?. Điều này dẫn đến việc
người tiêu dùng di chuyển từ điểm A đến điểm B, tiêu dùng nhiều rượu hơn và ít
các loại hàng hoá khác hơn.

Có hai phương thức xác định sự thay đổi giá cả này: thay đổi tương đương
(equivalent variation) và thay đổi bù đắp (compensating variation). Mỗi cách tiếp
cận xem xét giá trị của thay đổi giá mặt hàng rượu tính theo đơn vị của các mặt
hàng khác. Điểm khác biệt giữa hai cách tiếp cận là thay đổi bù đắp sử dụng các
mức giá trước khi chương trình có tác động trong khi thay đổi tương đương lại sử
dụng các mức giá sau khi chương trình có tác động.
Để đơn giản hoá phân tích này hãy giả định rằng các loại Mặt hàng Khác có giá trị
được xác định ở mức $1/đơn vị. Khi đó, một đơn vị Hàng hoá Khác tương đương
với $1 chi cho Hàng hoá Khác.
Biến đổi tương đương là độ sẵn sàng mà người tiêu dùng chấp nhận để đổi lại việc
dự đoán trước được việc giảm giá rượu. Có nghĩa là đây là số lượng tính theo đơn
vị các hàng hoá khác mà người tiêu dùng đáng lẽ ra nhận được để đạt được mức
giàu có khi không có thay đổi giá cả ngang bằng với mức giàu có khi giá cả thay
đổi. Vì thế, các mức giá dùng để tính toán giá trị này là các mức giá trước dự án.
Như mô tả trong hình dưới đây, giảm giá rượu dịch chuyển đường bàng quan I0
sang vị trí I1. Giá trị gắn cho việc dịch chuyển này tính theo hàng hoá khác tại tỷ
lệ giá ban đầu là N-M. Đây là biến đổi tương đương. (TQ hiệu đính: biến đổi
tương đương (equivalent variation) giống với ?ảnh hưởng thu nhập? (income
effect) trong kinh tế Vi Mô (microeconomics), nghĩa là, phải tăng thu nhập của họ
lên bao nhiêu để họ được có 1 sự tiêu dùng (consumption) tương đương).
Hình W-4

Biến đổi bù đắp là độ sẵn sàng chi tiêu của người tiêu dùng khi giá rượu giảm.
Đây là lượng tối đa mà người tiêu dùng mong muốn chi để khiến cho giá cả thay
đổi. Các mức giá dùng để tính toán giá trị này là những mức giá có hiệu lực sau dự
án. Như được mô tả dưới đây, giảm giá rượu dịch chuyển người tiêu dùng từ
đường bàng quan I0 sang đường bàng quan I1. Giá trị gắn cho dịch chuyển này
tính theo đơn vị các hàng hoá khác tại tỷ lệ giá sau dự án là M-O. Đây là biến đổi
bù đắp. (TQ hiệu đính: tương tự, biến đổi bù đắp (compensating variation) cũng
giống như sự phân tích ?ảnh hưởng thay thế? (substitution effect) trong Kinh Tế

Vi Mô (Microeconomics).)
Hình W-5

Các biến đổi bù đắp và tương đương có thể được gán cho ý nghĩa thông thường
hơn. Theo thuật ngữ CBA cách nghĩ về vấn đề này là nhận ra rằng xuất phát điểm
trong cách tiếp cận biến đổi bù đắp là hiện trạng. Xuất phát điểm trong cách biến
đổi tương đương là vị trí mới tiềm năng.
Xét một dự án tạo ra tác động làm giảm giá rượu. Biến đổi bù đắp giả định rằng
người tiêu dùng không có quyền được hưởng lợi ích đem lại từ việc giảm giá. Họ
phải trả một cái giá nào đó để đổi lại sự giảm giá này. Biến đổi tương đương giả
định rằng người tiêu dùng có quyền được hưởng lợi ích đem lại từ việc giảm giá
và phải được đền bù một cái giá nhất định để từ bỏ quyền này. Đối với mỗi cái lợi
thu được từ hiện trạng (như giảm giá rượu) thì độ sẵn sàng chi trả WTP là thước
đo biến đổi bù đắp của lợi ích phúc lợi xã hội trong khi độ sẵn sàng chấp nhận
WTA là biến đổi tương đương. Biến đổi bù đắp là thước đo thường được sử dụng
trong CBA.
Bây giờ, xét một dự án khiến cho giá rượu tăng lên. Biến đổi bù đắp giả định rằng
người tiêu dùng có quyền đối với hiện trạng, tức là mức giá rượu thấp và phải
được đền bù khi giá rượu tăng. Mức bù đắp cần phải có là WTA. Biến đổi tương
đương giả định rằng người tiêu dùng không có quyền với hiện trạng cũng không
có quyền cản trở việc tăng giá. Nhằm ngăn cản việc tăng giá, người tiêu dùng sẽ
sẵn sàng trả một lượng lớn hơn WTP. Đối với việc mất đi hiện trạng (như kết cục
của việc tăng giá rượu) WTA là thước đo bù đắp của cái mất.
Tóm lại, biến đổi bù đắp thường được sử dụng trong CBA. Trong trường hợp được
hưởng lợi, đó là WTP. Trong trường hợp chịu mất mát, đó là WTA. Bởi vậy, trong
phân tích CBA, nhìn chung đó là trường hợp mà lãi hay lợi ích được định giá bằng
việc sử dụng WTP và lỗ hay chi phí được định giá bằng cách sử dụng WTA. Cả
hai cách này đều nhất quán với cách sử dụng biến đổi bù đắp.
Những ý tưởng này được tóm tắt trong Bảng W-1. Nếu một dự án khiến cho giá
hàng hoá tăng, người tiêu dùng loại hàng hoá đó phải chịu thiệt thòi. Nếu bạn giả

định rằng những người tiêu dùng này có quyền đối với mức giá thấp hơn (trước dự
án) thì mất mát mà người tiêu dùng phải chịu phải được xác định bằng cách sử
dụng WTA. Nếu một dự án khiến cho giá của một loại hàng hoá giảm xuống thì
người tiêu dùng sẽ được lợi. Nếu bạn giả định rằng người tiêu dùng không có
quyền với mức giá thấp hơn (sau dự án) thì khoản lợi này phải được định giá theo
WTP. Cách dùng WTP để tính lợi ích và WTA để tính thiệt hại một cách đúng đắn
được thể hiện trong Bảng W-2. Cần lưu ý rằng việc sử dụng biến đổi bù đắp là
một phương pháp bảo thủ vì nó bao gồm giá trị thấp hơn đối với lợi ích của dự án
và giá trị cao hơn cho chi phí dự án.
Bảng W-1

Giá tăng, Người tiêu dùng
bị thiệt
Giá giảm, Người tiêu dùng
được lợi
Người tiêu dùng có
quyền sở hữu
WTA, biến đổi bù đắp, giá
trị cao hơn
WTA, biến đổi tương
đương, giá trị cao hơn
Người tiêu dùng không
có quyền sở hữu
WTP, biến đổi tương
đương, giá trị thấp hơn
WTP, biến đổi bù đắp, giá
trị thấp hơn
Bảng W-2
Lợi ích thu được từ Hiện trạng WTP (Biến đổi Bù đắp) Giá trị Thấp hơn
Mất do giữ nguyên Hiện trạng WTA (Biến đổi Bù đắp) Giá trị Cao hơn

Lợi ích ròng WTP-WTA
Bởi vậy, cơ sở để phân biệt giữa Biến đổi Tương đương và Biến đổi Bù đắp là
quyền sở hữu hay là khái niệm pháp lý về quyền lợi. Nhận thức được điều này
cũng có nghĩa là thừa nhận quy tắc cho rằng phân tích CBA không độc lập đối với
luật pháp. Vì các việc định giá không thể tiến hành độc lập với quyền sở hữu nên
phải xét đến quyền sở hữu trong phân tích CBA dự án. Xét một ví dụ cực đoan.
Coi việc ăn cắp một chiếc xe đạp chỉ là một sự chuyển đổi chiếc xe từ người này
sang người khác. Tuy nhiên, quyền pháp lý gắn cho chiếc xe đạp đó một giá trị
dương nếu nó ở trong tay chủ nhân hợp pháp, một giá trị bằng 0 nếu ở trong tay
tên trộm. Việc này dẫn đến một kết luận rất đúng rằng tên trộm làm giảm phúc lợi
xã hội và xã hội không mong muốn việc mất cắp xảy ra.
Để áp dụng biến đổi tương đương và biến đổi bù đắp trong một ví dụ, xét trường
hợp điện được làm ra từ công trình xây đập thuỷ điện do chính quyền liên bang tài
trợ ở Mỹ. Thoạt đầu, tình thế khi đập này mới được xây dựng có thể là một người
cuối cùng sẽ là người mua sản phẩm điện không có quyền hợp pháp vốn có nào
đối với việc mua điện. Khi đó, câu hỏi giá trị tương đương là, ?Người đó sẵn sàng
chi trả gì để có được lượng điện sản xuất?? Đây chính là biến đổi bù đắp. Một khi
đập được hoàn thiện và bắt đầu phát điện, người tiêu dùng có thể được xem như là
có một số quyền đối với chiếc đập. Có lẽ, nó là kết quả của một tiền lệ. Nếu một
đề xuất bán điện cho cư dân nước ngoài được đưa ra thì mức giá điện sẽ ngang với
lượng bù đắp mà người tiêu dùng cần có để ở mức độ giàu có ngang với khi không
bán điện ra nước ngoài. Tức là độ sẵn sàng chấp nhận của họ. Đây chính là biến
đổi tương đương.
Đối với mỗi cá nhân, cả Biến đổi Bù đắp lẫn Biến đổi Tương đương đều được coi
là những chỉ số thoả dụng chuẩn xác. Điều này có nghĩa là hoặc Biến đổi Bù đắp
hoặc Biến đổi Tương đương (tuỳ thuộc vào phân chia quyền sở hữu) sẽ gọi ra các
lựa chọn chính xác cho từng cá nhân. Nếu Biến đổi Bù đắp của lợi ích của một dự
án là $100 và Biến đổi Bù đắp cho lợi ích của một dự án khác là $150, thì dự án
thứ hai sẽ được ưa thích hơn dự án thứ nhất.
Bởi vậy, về lý thuyết thì giá trị đúng gắn cho một dự án có tác động đối với tiêu

dùng cá nhân thông qua biến đổi giá cả là tính toán những biến đổi tương đương
và/hay biến đổi bù đắp cho mỗi loại hàng hoá và cho mỗi người chịu tác động của
dự án. Việc thực hiện những tính toán như vậy là một nhiệm vụ cực kỳ khó khăn
ngay cả khi đó chỉ là tính toán cho một cá nhân. Bởi vậy, cuối cùng chúng ta sẽ
bàn về những cách tiếp cận thực tế hơn.
Bây giờ thì hãy chuyển từ cân nhắc các tác động của một dự án dựa trên mức độ
sung túc của một cá nhân cho đến tác động của dự án lên của cải của một nhóm.
3.4 Phúc lợi Xã hội và Lợi ích ròng
Khi xét đến nhiều cá nhân thì tình huống sẽ trở nên hoàn toàn khác biệt. Trong
phần trước, chúng ta đã xét đến lợi ích và chi phí của một người. Để đánh giá tác
động của một dự án đối với một nhóm người thì phải bằng cách nào đó kết hợp cái
được, cái mất của mỗi người trong một nhóm. Điều này có thể được thực hiện
bằng nhiều cách khác nhau.
Một cách để kết hợp lợi ích và chi phí của các cá nhân là tiêu chuẩn Pareto (Pareto
criterion). Tiêu chuẩn Pareto phát biểu rằng nếu một dự án giúp cho ít nhất một
người trở nên giàu có hơn và không khiến cho ai trở nên nghèo khó hơn thì dự án
đó là đáng được mong đợi. Nếu một dự án khiến cho dù chỉ một người trở nên
khốn khó hơn thì dự án bị coi là không đáng được mong đợi. Kết quả là tiêu chuẩn
Pareto áp đặt sức nặng vô tận cho bất kỳ một mất mát nào cho dù mất mát đó có
nhỏ đến đâu đi chăng nữa trong khi lại áp đặt một sức nặng có hạn cho bất kỳ một
lợi ích thu được nào. Hiếm có một dự án nào lại có thể giúp tất cả những đối tượng
bị tác động trở nên giàu có hơn hay ít nhất là không khiến cho ai bị nghèo khó đi.
Một dự án thoả mãn tiêu chuẩn Pareto khi có lợi cho ít nhất một người trong khi
không gây hại cho bất kỳ người nào khác. Về mặt kinh tế mà nói, dự án này là
đáng được mong đợi. Tuy nhiên, tiêu chuẩn này là không thực tế.
Thông thường, một dự án sẽ giúp một số người giàu có hơn trong khi khiến một số
người khác nghèo khó đi. Thách thức đặt ra là hiển nhiên: làm cách nào để so sánh
thay đổi phúc lợi giữa những người này với nhau? Chúng ta sẽ tiếp cận vấn đề này
bằng việc giả định rằng có thể cân đong đo đếm được độ thoả dụng. Tiếp đó,
chúng ta sẽ hướng tới một hướng đi thực tế hơn.


×