Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

Phân Tích các Thay Đổi Phúc Lợi pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (181.31 KB, 19 trang )

Phân Tích các Thay Đổi Phúc Lợi-
PHẦN2
3.7 Thặng dư người tiêu dùng và Thặng dư nhà sản xuất
Mức WTP hay WTA liên quan đến một chương trình là thước đo
chuẩn xác các mức thay đổi phúc lợi xã hội. WTP hay WTA được
đo bằng mức biến đổi đền bù hay mức biến đổi tương đương.
Vận dụng các cách thức tính toán này là tương đối khó vì chúng
đòi hỏi phải phân tích đường cầu đền bù hay đường cầu Hicks.
Dọc theo đường cầu này độ thoả dụng là không đổi. Quan sát
hành động của người tiêu dùng cho ta đường cầu thông thường
hay đường cầu Marshal. Dọc theo đường cầu này thu nhập
không đổi. Tuy thông thường thì vẫn có thể tính toán được
đường cầu Hicks từ đường cầu Marshal song việc này không
mấy dễ dàng. May mắn thay, việc quan sát hành vi của người
tiêu dùng dựa trên đường cầu thường lại cho ta các giá trị thông
thường xấp xỉ mức biến đổi đền bù hay biến đổi tương đương.
Các giá trị này là thặng dư của người tiêu dùng và thặng dư của
nhà sản xuất.
3.8 Thặng dư người tiêu dùng (Consumer Surplus ~ CS)
Thặng dư người tiêu dùng là lợi ích người tiêu dùng thu được
thông qua việc trao đổi hàng hoá trên thị trường. Theo nghĩa đơn
giản nhất, nó ngang với mức khác biệt giữa độ sẵn sàng chi trả
tối đa của người tiêu dùng cho một khối lượng hàng hoá nhất
định và tổng chi phí họ bỏ ra cho lượng hàng hoá đó. Nói cách
khác, tổng giá trị mà người tiêu dùng gắn cho một lượng hàng
hoá nhất định ngang với tổng chi tiêu cộng với thặng dư của
người tiêu dùng. Hình W-6 mô tả điều này.
Hình W-6

Thặng dư người tiêu dùng nhìn chung xấp xỉ với biến đổi đền bù
hay biến đổi tương đương. Tức là thặng dư của người tiêu dùng


do giảm giá gây ra ngang với hoặc biến đổi đền bù hoặc biến đổi
tương đương với một số hạn chế nhất định.
Cụ thể hơn, việc biểu hiện chuẩn xác mối quan hệ giữa thặng dư
của người tiêu dùng và biến đổi đền bù, biến đổi tương đương
phụ thuộc vào việc cụ thể hoá đường cầu Hicks với độ thoả dụng
không đổi. Điều này khiến cho việc ước tính kết quả đo lường
này khó khăn hơn đôi chút vì những mối quan hệ cầu được quan
sát thường xuyên nhất là đường cầu Marshal với thu nhập chứ
không phải là độ thoả dụng là bất biến. Khi giá hàng hoá lên hoặc
xuống, độ thoả dụng sẽ giảm hoặc tăng. Kết quả là đường cầu
Hicks dịch chuyển vào trong hay ra ngoài trong khi đường cầu
Marshal vẫn đứng nguyên. Hình W-7 mô tả tình huống này xảy ra
khi một người tiêu dùng một mặt hàng và mức giá của mặt hàng
này giảm từ mức P0 xuống mức P1 khiến cho độ thoả dụng tăng
từ mức U0 lên U1. Biến đổi giá khiến cho đường cầu Hicks H0
tăng lên thành đường cầu Hicks H1 song vẫn chỉ có một đường
cầu Marshal D.
Hình W-7

Thặng dư của người tiêu dùng có được khi mức giá giảm từ P0
xuống P1 (hay mất đi khi mức giá tăng từ mức P1 lên mức P0) là
vùng bổ sung nằm dưới đường cầu do kết quả của biến đổi giá
cả. Song việc vận dụng đường cầu nào trong ba đường cầu (H0,
H1 hay D) để tính toán mức thặng dư này tuỳ thuộc vào tình hình.
Biến đổi đền bù của thay đổi giá cả này là vùng A. Nó sẽ là giá trị
thích hợp để gán cho thay đổi giá cả của hàng hoá nếu mức giá
rớt từ P0 xuống còn P1 hay nếu người tiêu dùng không có quyền
ban đầu được hưởng mức giá thấp hơn. Giá trị này là tương đối
nhỏ vì việc không có quyền được hưởng mức giá thấp khiến cho
người tiêu dùng trở nên nghèo khó hơn với độ thoả dụng thấp

hơn. Độ thoả dụng này nhất quán với độ thoả dụng thấp hơn của
đường cầu Hicks.
Biến đổi tương đương cho sự thay đổi giá cả này là vùng A+B+C.
Đây sẽ là giá trị thích hợp gán cho thay đổi giá nếu mức giá tăng
từ P1 lên P0 hay nếu người tiêu dùng có quyền được hưởng
mức giá thấp. Khoản giá trị này là tương đối lớn vì quyền được
hưởng mức giá thấp hơn của giúp người tiêu dùng trở nên giàu
có hơn, có độ thoả dụng cao hơn nhất quán với mức thoả dụng
cao hơn của đường cầu Hicks.
Như thảo luận ở trên, đường cầu quan sát hay ước tính phần lớn
là đường cầu Marshal, chẳng hạn như đường cầu D. Thặng dư
của người tiêu dùng tính toán từ đường cầu quan sát sẽ có giá trị
ngang với vùng A+B. Nhìn chung thì giá trị này sẽ không bao giờ
chính xác hoàn toàn với giá trị đúng.
May mắn là thặng dư của người tiêu dùng đo được bằng đường
cầu Marshal, D, có khả năng gần với giá trị thích hợp trong từng
trường hợp. Willig (1976) chứng minh rằng với điều kiện thông
thường, thặng dư của người tiêu dùng mà đường cầu Marshal
thể hiện là một con số xấp xỉ tương đối chuẩn của biến đổi đền
bù hay biến đổi tương đương. Sai số của nó có khả năng nhỏ
hơn so với sai vốn có của ước tính đường cầu.
Về mặt tác nghiệp mà nói, nếu một dự án tạo ra thay đổi giá cả
của một mặt hàng, nếu mức giá ban đầu và lượng hàng được
biết trước và nếu có thể dự đoán trước mức giá và mức cung
hàng sau dự án thì có thể ước lượng một cách xấp xỉ vùng A+B
với một độ chính xác nhất định. Cách đo lường này là một
phương thức đo lường hợp lý đối với lợi và hại mà dự án đem lại
cho cá nhân người tiêu dùng cho dù biến đổi đền bù hay biến đổi
tương đương là chính xác hơn về mặt lý thuyết.
Ví dụ: Thay đổi giá Nông sản

Hãy hình dung rằng mỗi năm có một triệu tấn cải xanh được sản
xuất và tung ra bán trên thị trường với mức giá $US 2000/tấn. Xét
hai chương trình có tác động tương phản nhau lên mức chi phí
để trồng cải xanh: một chương trình sẽ hạ thấp mức giá xuống
còn $US 1800/tấn và tăng lượng cải xanh bán được lên 200
nghìn tấn trong khi chương trình còn lại sẽ tăng giá lên $US
2200/tấn và giảm lượng bán ra xuống 200 nghìn tấn.
Chúng ta tính toán vùng thay đổi trong thặng dư của người tiêu
dùng từ mỗi chương trình với giả định rằng đường cầu là đường
tuyến tính:

Trong trường hợp giá giảm, mức thay đổi được tính toán trong
thặng dư của người tiêu dùng là $US 200/đơn vị nhân với
1.1triệu đơn vị, tức là $US 220 triệu. Tuy nhiên, vì đây là tình
huống giá giảm nên thước đo chuẩn của lợi ích là biến đổi đền
bù. Bởi vậy, mức $US 220 triệu có lẽ được coi là cao hơn so với
giá trị thực.
Trong trường hợp giá tăng, mức thay đổi được tính toán trong
thặng dư của người tiêu dùng là $US 200/đơn vị nhân với 0.9
triệu đơn vị, tức là $US 180 triệu. Tuy nhiên, vì đây là tình huống
giá tăng nên thước đo chuẩn của lợi ích là biến đổi tương đương.
Bởi vậy, giá trị của $US 220 triệu có lẽ được coi là thấp hơn so
với giá trị thực.
3.9 Thặng dư của Nhà Sản xuất (Producer Surplus ~ PS)
Thặng dư của nhà sản xuất là lợi ích mà nhà sản xuất/nhà cung
cấp thu được từ việc trao đổi hàng hoá trên một thị trường. Nó là
chênh lệch giữa mức doanh thu với chi phí cơ hội của việc tham
gia vào thị trường. Nói cách khác, thặng dư của nhà sản xuất
ngang với lợi nhuận kinh tế không bao hàm các chi phí cố định
hay là chênh lệch giữa tổng doanh thu với các biến phí như thể

hiện trong Hình W-8.
Hình W-8

Nhìn chung, người ta thường cho rằng các nhà cung cấp luôn tìm
cách tối đa hoá lợi nhuận. Vì vậy ta có thể tránh được phần lớn
những phức tạp xung quanh quyết định của người tiêu dùng và
các thay đổi phúc lợi xã hội liên quan. Việc phân bổ quyền sở
hữu ban đầu (ví dụ như có quyền đối với hiện trạng) không nên
ảnh hưởng đến mức độ tối đa hoá lợi nhuận đối với sản phẩm
công ty sản xuất ra.
Trong khi thặng dư của nhà sản xuất không bao giờ được ghi
chép và có lẽ hiếm khi được tính toán, các thay đổi trong lợi
nhuận thường sẽ xấp xỉ các thay đổi trong thặng dư của nhà sản
xuất chừng nào không có thay đổi trong lượng đầu vào cố định
được dùng.
Ví dụ, nếu một dự án sản xuất ra một lượng lớn sản phẩm và đẩy
giá thị trường của sản phẩm đầu ra đó xuống thấp. Thiệt hại mà
các nhà sản xuất tư của loại sản phẩm đó sẽ là lượng suy giảm
của thặng dư của nhà sản xuất (∆PS) được thể hiện trong Hình
W-9. Trong khi thay đổi trong thặng dư của nhà sản xuất sẽ
không bao giờ được ghi chép lại chừng nào còn không có những
thay đổi lớn trong đầu vào cố định của công ty (ví dụ như số nhà
máy mà các công ty này vận hành) thì chừng đó thay đổi trong lợi
nhuận còn mang giá trị gần với thay đổi trong thặng dư của nhà
sản xuất. Lưu ý rằng nếu là công ty công thì biến đổi lợi nhuận sẽ
được ghi chép lại.
Hình W-9

Tóm tắt
Thước đo trung thực xác định xem liệu một dự án có lợi hay

không dựa trên những thay đổi tác động đến các cá nhân. Tiêu
chuẩn Pareto là tiêu chuẩn phê duyệt một dự án khắt khe nhất.
Tiêu chuẩn này phát biểu rằng một dự án được coi là có lợi khi
tăng ít nhất độ thoả dụng của một người mà không giảm độ thoả
dụng của bất kỳ người nào khác. Tuy nhiên, tiêu chuẩn này
không mấy hữu dụng trong việc đánh giá các dự án trong thực tế.
Để xem xét tác động ròng của một dự án đối với phúc lợi xã hội
trong trường hợp dự án vừa có tác động tích cực lẫn tiêu cực lên
nhiều người khác nhau cần phải hiểu các hàm thoả dụng của họ
cũng như đưa ra giả định về một hàm phúc lợi xã hội mục tiêu
nào đó. Thật không may, việc tính toán các hàm lượng hữu dụng
(cardinal utility functions) và thay đổi trong độ thoả dụng cũng
như so sánh mức thay đổi giữa các cá nhân khiến cho việc sử
dụng trực tiếp hàm thoả dụng và hàm phúc lợi xã hội không hề
mang một độ khả thi thực tế nào.
Thay vào đó, bằng việc xem xét lợi ích ròng mà mỗi người được
hưởng và phân bổ sức nặng đồng đều cho mỗi cá nhân, chúng ta
có được một biện pháp đo lường độ mong đợi của dự án mang
tính thực tế hơn. Nhất là tiêu chuẩn Kaldor-Hicks (KH) gợi ý rằng
nên cho mọi người có tầm quan trọng ngang nhau, cho họ quyền
đối với hiện trạng để phục vụ cho phân tích. Điều này mang lại
cho ta khái niệm lợi ích ròng như một biện pháp đo lợi ích kinh tế
của một dự án. Đây là khái niệm đo lường được dùng phổ biến
nhất trong CBA. Đặc biệt, lợi ích ròng có thể được tính toán trên
cơ sở các biến đổi đền bù bằng cách dùng độ sẵn sàng chi trả
(WTP) để định giá lợi ích và độ sẵn sàng chấp nhận (WTA) để
định giá chi phí.
Một cách tiếp cận thực tiễn khác trong việc định giá thay đổi phúc
lợi là xem xét lợi nhuận ròng có được từ trao đổi hàng hoá trên
các thị trường có được nhờ tác động trực tiếp của dự án. Để làm

được điều này, có thể ước tính các thay đổi trong thặng dư của
người tiêu dùng (lợi ích ròng của người tiêu dùng) và thặng dư
của nhà sản xuất (lợi ích ròng của nhà sản xuất) để dùng trong
tính toán các tác động phúc lợi xã hội ròng.
Câu hỏi
1. Hãy hình dung việc chuyển từ trạng thái thế giới A sang trạng
thái thế giới B có ảnh hưởng tới hai người là Dave và Chris. Bảng
dưới đây cung cấp cho ta giá trị WTP và WTA của mỗi người.
Giá trị của việc Chuyển từ A sang B
WTP WTA
Dave

Biến đổi Bù đắp = $US 100 Biến đổi Tương đương =
$US 130
Chris

Biến đổi T
ương đương = $US
Biến đổi Bù đắp = $US -120
-105
Hãy tính lợi ích ròng của việc chuyển từ A sang B cùng lợi ích
ròng của việc chuyển từ B sang A. Có nhận xét gì về kết quả thu
được.
2. Bạn có thể đưa ra một ví dụ tương tự như ví dụ được đưa ra ở
câu hỏi trên trong đó cả việc chuyển từ A sang B lẫn việc chuyển
từ B sang A đều là đáng mong đợi hay không? Nếu không thì tại
sao?
Trả lời
1. Đối với một dịch chuyển từ A sang B, Dave sẽ hưởng một
khoản lợi trong khi Chris sẽ phải chịu một thiệt hại. Lợi ích mà

Dave hưởng phải được định giá theo độ sẵn sàng chi trả $US100
trong khi thiệt hại mà Chris phải gánh chịu phải được định giá
theo độ sẵn sàng chấp nhận, -$US120. Lợi ích ròng lúc đó là -
$US20.
Đối với một dịch chuyển từ B sang A, Dave sẽ chịu một mức thiệt
hại và Chris sẽ được hưởng một khoản lợi. Thiệt hại mà Dave
phải gánh chịu phải được định giá theo độ sẵn sàng chấp nhận -
$130 trong khi lợi ích mà Chris được hưởng phải được định giá
theo độ sẵn sàng chi trả $105. Lợi ích ròng có được là -$25.
Kết quả thu được cho thấy cả hai dịch chuyển từ A sang B và
ngược lại đều không có lợi. Điều này có vẻ như mâu thuẫn. Song
sự khác biệt giữa hai dịch chuyển nằm ở việc phân bổ quyền sở
hữu cho mỗi một trong hai trạng thái A và B và tác động của các
quyền sở hữu khác biệt đối với việc định giá.
2. Chừng nào các hàng hoá liên quan còn là hàng hoá thông
thường thì chừng đó còn không thể thiết lập một ví dụ mà trong
đó cả hai dịch chuyển đều là đáng mong đợi. Sở dĩ có điều này là
bởi mức độ sẵn sàng chấp nhận sẽ luôn lớn hơn mức độ sẵn
sàng chi trả. Thế nên, chi phí của việc dịch chuyển từ một trạng
thái thế giới này sang một trạng thái thế giới khác lớn hơn lợi ích
của việc dịch chuyển theo chiều hướng ngược lại.


×