Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của khẩu lệnh "Tiết kiệm là quốc sách" pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (247.87 KB, 38 trang )

Đề tài: Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của khẩu hiệu “ Tiết kiệm là quốc sách”
Luận văn
Đề tài: Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn
của khẩu hiệu “Tiết kiệm là quốc sách”
1
Đề tài: Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của khẩu hiệu “ Tiết kiệm là quốc sách”
Mục lục
Lời mở đầu 3
Chương 1 Cơ sở lý luận của khẩu hiệu: “ tiết kiệm là quốc sách “ 4
1.1 Khái niệm về tiết kiệm 4
1.2 Bản chất của tiết kiệm 5
1.3 Các nguồn tiết kiệm 6
1.4 Kinh nghiệm của một số nước về vấn đề: “ tiết kiệm là quốc sách “ 8
Chương 2 Thực trạng về vấn đề thực hành tiết kiệm ở Việt Nam trong thời gian qua 11
2.1 Tiết kiệm trong khu vực Nhà nước 11
Tóm tắt hoạt động ngân sách, giai đoạn 1996 - 2003 11
2.2 Tiết kiệm trong khu vực tư nhân 16
Tiền tiết kiệm, theo hình thức tiết kiệm của khu vực thành thị - nông thôn 20
2.3. Đánh giá chung và nguyên nhân 22
Chương 3 Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả tiết kiệm ở Việt Nam trong thời
gian tới 28
3.1 Đối với khu vực Nhà nước 28
3.2 Đối với khu vực tư nhân 33
2
Đề tài: Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của khẩu hiệu “ Tiết kiệm là quốc sách”
Lời mở đầu
Sản xuất là hoạt động cơ bản của con người. Mọi xã hội muốn tồn tại và phát
triển phải duy trì sản xuất. Nhưng trong những điều kiện, muốn cho sản xuất có hiệu
quả và phát triển nhanh chóng thì sản xuất phải gắn liền với tiết kiệm. Có thể nói, hiện
nay nền kinh tế nước ta đang trong quá trình phát triển nhanh chóng, nó đòi hỏi một
khối lượng vốn đầu tư lớn và đang ngày càng trở nên cấp thiết hơn.


Tuy nhiên, tình hình huy động vốn đặc biệt là nguồn vốn trong nước cho nền
kinh tế Việt Nam đang còn nhiều hạn chế chưa tương xứng với tiềm năng của nó. Một
trong những nguyên nhân gây ra tình trạng trên la do khả năng tích luỹ, tiết kiệm vốn
trong nước đang còn nhiều yếu kém, tình hình sử dụng vốn đầu tư trong nhiều lĩnh
vực đặc biệt là trong đầu tư xây dựng cơ bản hiệu quả chưa cao, tình trạng thất thoát
lãng phí còn lớn và diễn ra khá phổ biến . . . Do đó với nền kinh tế nước ta hiện nay,
vấn đề tiết kiệm đang càng trở nên rất cấp thiết.
Trong bài viết này, do khả năng nghiên cứu hạn chế nên chúng tôi đề cập đến
các nguồn tiết kiệm trong nước. Trong đề tài này chúng tôi xin trình bày những vấn đề
liên quan đến khẩu hiệu “ Tiết kiệm là quốc sách “.
Nội dung của bài viết bao gồm 3 chương :
Chương 1: Cơ sở lý luận của khẩu hiệu: “ tiết kiệm là quốc sách “
Chương 2: Thực trạng về vấn đề thực hành tiết kiệm ở Việt Nam
trong thời gian qua
Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả tiết kiệm ở
Việt Nam trong thời gian tới
3
Đề tài: Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của khẩu hiệu “ Tiết kiệm là quốc sách”
Ch ng 1 ươ C s lý lu n c a kh u hi u: ti t ki m l qu c sách “ “ơ ở ậ ủ ẩ ệ ế ệ à ố
1.1 Khái niệm về tiết kiệm
Khi nói về tiết kiệm thì mỗi nhà kinh tế lại đưa ra khái niệm khác nhau. Nhà
kinh tế học cổ điển Adam Smith trong tác phẩm “ Của cải của các dân tộc “ cho rằng:
“ Tiết kiệm là nguyên nhân trực tiếp gia tăng vốn. Lao động tạo ra sản phẩm để tích
luỹ cho quá trình tăng tiết kiệm. Nhưng dù có tạo ra bao nhiêu chăng nữa, nhưng
không có tiết kiệm thì vốn không bao giờ tăng lên “
Sang đến thế kỷ 19, C.Mác đã chứng minh rằng: Trong một nền kinh tế với hai
khu vực, khu vực I sản xuất tư liệu sản xuất và khu vực II sản xuất tư liệu tiêu dùng.
Để đảm bảo gia tăng nguồn lực cho sản xuất, gia tăng quy mô đầu tư, một mặt phải
tăng cường sản xuất tư liệu sản xuất ở khu vực I, đồng thời phải sử dụng tiêt kiệm tư
liệu sản xuất ở cả hai khu vực. Mặt khác, phải tăng cường sản xuất tư liệu tiêu dùng ở

khu vực II, thực hành tiết kiệm tiêu dùng trong sinh hoạt ở cả hai khu vực. Như vậy,
con đường cơ bản và quan trọng về lâu dài để táI sản xuất mở rộng là phát triển sản
xuất và thực hành tiết kiệm ở cả trong sản xuất và tiêu dùng.
Đúc kết quan điểm của các nhà kinh tế học khác nhau, Hồ Chí Minh đã vận
dụng vào điều kiện cụ thể của nước ta và đưa ra khái niệm về tiết kiệm: “ Tiết kiệm là
một quy luật, một phương pháp của một chế độ kinh tế, không phải chỉ tiết kiệm khi
đất nước còn nghèo, mà ngay cả khi giàu có và càng giàu có càng phải thực hành tiết
kiệm “. Bác luôn nhấn mạnh “ tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm là 2 vấn đề
mấu chốt để xây dựng, phát triển kinh tế, phát triển văn hoá xã hội, để cải thiện đời
sống nhân dân “. Tư tưởng quan điểm của Bác là “ làm ra nhiều, chi dùng nhiều.
Không cần thì không chi dùng. Đó là tất cả chính sách kinh tế của nước ta “. Tiết kiệm
4
Đề tài: Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của khẩu hiệu “ Tiết kiệm là quốc sách”
- theo Bác “ cốt để giúp vào tăng gia sản xuất, mà tăng gia sản xuất là để dần dần nâng
cao mức sống của bộ đội, cán bộ và nhân dân! “
Như vậy, tiết kiệm là sử dụng nguồn lực tài chính, lao động và các nguồn lực
khác ở mức thấp hơn định mức, tiêu chuẩn, chế độ quy định nhưng vẫn đạt được mục
tiêu xác định hoặc sử dụng đúng định mức nhưng đạt hiệu quả cao hơn mục tiêu đã
xác định ( Pháp lệnh của UBTVQH số 02/1998/PL - UBTVQH10 )
1.2 B n ch t c a ti t ki mả ấ ủ ế ệ
Tiết kiệm trong mọi thời điểm rất dễ bị hiểu sai lệch, chúng ta cần phải tìm hiểu
cặn kẽ và đúng đắn bản chất của tiết kiệm để trong quá trình thực hành và vận dụng
trong thực tiễn có thể đúng hướng.
Tiết kiệm là với chi phí thấp nhất để đạt hiệu quả cao nhất. Tiết kiệm không có
nghĩa là bủn xỉn “ không phải xem đồng tiền to bằng cái nống, gặp việc đáng làm
không làm, đáng tiêu không tiêu. Tiết kiệm phải được thực hiện một cách toàn diện,
hoàn chỉnh bao gồm cả tiết kiệm của riêng, tiết kiệm của công. Nếu không biết tiết
kiệm của riêng thì không thể tiết kiệm của công được. Nhưng nếu chỉ lo tiết kiệm của
riêng mà phung phí của công là không đúng. Tiết kiệm không chỉ lao động và tiền mà
cả thời giờ “, Hồ Chí Minh đã từng nói: “ Chúng ta cần có sự tính toán cân nhắc thận

trọng, khi nào không nên tiêu xài thì một hạt gạo, một đồng xu cũng không nên tiêu,
nhưng việc đáng làm vì ích nước, đồng bào thì tiêu bao nhiêu, tốn bao nhiêu chúng ta
cũng sẵn sàng thực hiện “.
Trong thời điểm hiện nay, với chủ trương “ kích cầu “ của Nhà nước, tuy nhiên
chúng ta phải xem xét và khẳng định rằng không có sự mâu thuẫn giữa việc khuyến
5
Đề tài: Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của khẩu hiệu “ Tiết kiệm là quốc sách”
khích tiêu dùng và thực hành tiết kiệm. Tiết kiệm và kích cầu là hai vấn đề gắn bó với
nhau nhưng hoàn toàn khác nhau. Tiết kiệm không có nghĩa là chi ít mà chi đúng và
chi có hiệu quả. Thực hành tiết kiệm đồng thời với việc không chấp nhận việc tiêu
dùng xa hoa, lãng phí, cần tiêu 1 mà tiêu 3, cần tiêu 3 lại tiêu 7. Bản thân từng người
lao động, từng doanh nghiệp được Nhà nước ta khuyến khích tiêu dùng để thúc đẩy
sản xuất bởi tiêu dùng là một khâu trong vòng tròn khép kín: sản xuất - lưu thông -
phân phối - tiêu dùng. Đây chính là bản chất của tiết kiệm. Chúng ta hiểu và biết kết
hợp hai vấn đề “ kích cầu “ và tiết kiệm để phát triển sản xuất. Như vậy mới có thể
phát triển kinh tế được.
1.3 Các ngu n ti t ki mồ ế ệ
1.1.1. Tiết kiệm trong khu vực Nhà nước
- Tiết kiệm trong thu chi ngân sách Nhà nước ( NSNN ) :
Khoản này còn được gọi là vốn ngân sách chi cho phát triển kinh tế xã hội. Tiết
kiệm của ngân sách được xác định bằng thu ngân sách trừ đi chi thường xuyên. Tiết
kiệm của ngân sách phụ thuộc vào 3 yếu tố: Thu, chi ngân sách và chất lượng đầu tư
của chính phủ. Trong trường hợp bội chi ngân sách, Nhà nước sẽ phải đi vay hoặc xin
viện trợ để bù đắp vào khoản thiếu hụt đó. Ở nước ta, phần bù đắp cho thâm hụt ngân
sách chủ yếu được thực hiện bằng các khoản vay ODA và vay trong dân. Hai kênh
này sẽ được bàn đến trong từng phần riêng biệt. Vì thế, phần vốn từ NSNN ở đây chủ
yếu được hiểu là phần tích luỹ từ nguồn thu trong nước của ngân sách, sau khi đã chi
trả cho các khoản chi thường xuyên, dự phòng hoặc trả nợ.
- Tích luỹ của các doanh nghiệp Nhà nước ( DNNN ) :
6

Đề tài: Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của khẩu hiệu “ Tiết kiệm là quốc sách”
Để tiến hành đầu tư sản xuất, nhiều doanh nghiệp Nhà nước tự đầu tư bằng vốn
huy động từ phần lợi nhuận bổ sung vào nguồn vốn kinh doanh của doanh nghiệp, bên
cạnh các nguồn vốn khác như vay trực tiếp từ dân cư, vay nước ngoài hoặc nhận từ
NSNN. Để tránh trùng lặp với các nguồn vốn khác, phần này cũng chỉ phân tích sâu
vào nguồn tiết kiệm của bản thân các doanh nghiệp này mà thôi.
1.1.2. Tiết kiệm trong khu vực tư nhân
- Tích luỹ của các doanh nghiệp tư nhân ( DNTN ):
Mặc dù là một khu vực kinh tế tương đối non trẻ so với khu vực Nhà nước,
nhưng khu vực tư nhân Việt Nam đang chứng tỏ một sức vươn lên mạnh mẽ và đầy
hứa hẹn trong tương lai. Khu vực tư nhân của Việt Nam hiện nay bao gồm nông dân,
các doanh nghiệp hộ gia đình, DNTN vừa và nhỏ ( SMEs ) và các doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài tương đối lớn.
- Tiết kiệm của các tầng lớp dân cư :
Nguồn vốn trong dân luôn là một nguồn rất lớn, và có nhiều khả năng tăng
cường huy động để phát triển kinh tế. Cơ sở chủ yếu để huy động nguồn vốn này
chính là tiết kiệm trong dân cư. Nếu các kênh huy động vốn hoạt động có hiệu quả thì
đại bộ phận nguồn tiết kiệm trong dân đó sẽ sẵn sàng tích trữ nguồn tiết kiệm đó dưới
dạng mua vàng, ngoại tệ hoặc các tài sản có giá trị, thay vì gửi chúng vào ngân hàng
hay các kênh huy động tài chính khác. Đó sẽ là một sự lãng phí nguồn lực rất lớn đối
với một đất nước còn đang rất khát vốn đầu tư như chúng ta. Có được vốn huy động
rồi , nếu muốn biến chúng thành vốn đầu tư thực hiện, đòi hỏi ngân hàng và các tổ
choc tín dụng phải có những chính sách cho vay hấp dẫn, môi trường đầu tư thuận lợi
đủ sức khuyến khích các doanh nghiệp vay vốn để mở rộng sản xuất. Vì thế, tăng
7
Đề tài: Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của khẩu hiệu “ Tiết kiệm là quốc sách”
cường thu hút vốn trong dân mà không có các biện pháp khuyến khích đầu tư thì sẽ
dẫn đến tình trạng ứ đọng trong ngân hàng như tình hình của Việt Nam trong những
năm 1996 - 1997.
1.4 Kinh nghi m c a m t s n c v v n : ti t ki m l qu c sách “ “ệ ủ ộ ố ướ ề ấ đề ế ệ à ố

- Thái Lan: Năm 1997, Thái Lan đang đắm chìm trong cuộc khủng
hoảng tài chính, thế giới đã được chứng kiến hình ảnh cảm động người dân Thái lũ
lượt đi quyên góp để cứu ngân khố nước nhà. Có lẽ cũng từ kinh nghiệm đó, lúc này
đang có ngày càng nhiều nhà nghiên cứu, phân tích kinh tế Thái Lan lên tiếng kêu gọi
Chính phủ thực hiện chủ trương tiết kiệm để giải quyết những khó khăn kinh tế - xã
hội của đất nước.
Có điều, tiết kiệm ở đây không theo nghĩa thông thường, mà phải là sự kết hợp
vận động của tất cả các lĩnh vực tâm lý, xã hội, hành chính . . . thông qua cả khu vực
Nhà nước lẫn khu vực tư nhân. Theo báo Matichon, một tờ báo lớn có uy tín ở Thái
Lan, tiền gửi tiết kiệm dù chỉ là phần của thu nhập còn dư lại sau khi chi tiêu nhưng
có vai trò quan trọng trong hoạt động của bộ máy kinh tế ở cấp vĩ mô cũng như trong
ổn định kinh tế của các cá nhân, các tổ chức tư nhân. Tờ báo viết: ở cấp vĩ mô, nếu
ngành kinh tế nào không đủ tiền tiết kiệm cho đầu tư theo mong muốn của ngành
mình thì sẽ phải lệ thuộc vào đầu tư từ bên ngoài một cách triền miên. Do vậy, tiền
tiết kiệm trở thành vấn đề đặc biệt quan trọng đối với mọi nền kinh tế. Các nhà lãnh
đạo kinh tế cần phải xây dựng điều kiện và môi trường thu hút thích hợp để hạn chế
việc xảy ra tình trạng quá nóng đồng thời đầu tư ở mức thích hợp với lượng tiền tiết
kiệm theo tốc độ tăng trưởng kinh tế hợp tình hợp lý.
Đối với việc gửi tiết kiệm từ khu vực tư nhân, hệ thống điều hành tốt của các tổ
chức, tức là mức độ minh bạch, công bằng trong làm việc ( người lãnh đạo không
8
Đề tài: Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của khẩu hiệu “ Tiết kiệm là quốc sách”
tham nhũng của công ty và của các cổ đông ) cũng góp phần tạo ra tiền gửi tiết kiệm
( bao gồm cả phần dư của số lãi từ phân chia lợi nhuận mà cổ đông được hưởng ) một
cách có hiệu quả.
Đối với khu vực Nhà nước, tiền gửi tiết kiệm bao gồm phần thu nhập thực sự
còn lại sau khi chi tiêu sẽ xuất hiện khi công tác điều hành hoạt động tốt. Tiền NSNN
không bị biển thủ dẫn tới chi tiêu hợp lý vào các dự án đúng đắn. Nói tóm lại là phải
có tầm nhìn tài chính trong khu vực Nhà nước để tạo ra được số dư tiết kiệm.
Do vậy, cách hiểu coi tiền gửi tiết kiệm chỉ là vấn đề kinh tế có thể giải quyết

đơn thuần bằng biện pháp kinh tế như tỷ lệ lãi suất là cách hiểu sai. Phải huy động tất
cả các lĩnh vực tâm lý, xã hội, hành chính . . . thông qua khu vực Nhà nước, khu vực
tư nhân và nhân dân thì mới có thể giải quyết được vấn đề tiền gửi tiết kiệm ngắn hạn
cũng như dài hạn. Một ví dụ khác về việc không chỉ dùng biện pháp kinh tế mà phải
kết hợp nhiều lĩnh vực để giải quyết khó khăn là sự ủng hộ của các doanh nghiệp vừa
và nhỏ. Tờ báo viết: nhìn chung, người ta quan niệm rằng biện pháp tiền tệ là sự ủng
hộ quan trọng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nhưng thực ra tiền tệ mới chỉ là biện
pháp cần chứ chưa đủ. Tình trạng thiếu vốn của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Thái
Lan tuy đã được đáp ứng trong giai đoạn xảy ra khủng hoảng kinh tế nhưng còn có
những điều khác biến doanh nghiệp nhỏ trở thành mạch máu kinh tế. Đó là kinh
nghiệm và trình độ kinh doanh, bao gồm từ vạch kế hoạch, đánh giá tình hình và triển
vọng lưu thông tiền mặt, tính khả thi của kế hoạch, cho tới vấn đề tài chính, kế toán.
- Chilê và Singapore: Hai quốc gia rất thành công trong vấn đề tiền gửi
tiết kiệm. Chilê sử dụng hệ thống tiết kiệm bắt buộc, đòi hỏi trích tiền thu nhập của
mọi cá nhân lao động để thành lập ngân quỹ. Biện pháp này đã trở thành kiểu mẫu
được áp dụng ở khắp thế giới. Singapore cũng áp dụng hình thức tương tự để tạo ngân
9
Đề tài: Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của khẩu hiệu “ Tiết kiệm là quốc sách”
quỹ và đem đi đầu tư khắp thế giới. Điều này tạo ra ngân quỹ ổn định cho đời sống
nhân dân lúc đang làm việc cũng như khi về hưu.
Từ những nội dung nêu trên, việc hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ để làm
cơ sở sinh sống cho không ít người lao động cần phải bao gồm các biện pháp toàn
diện, chứ không đơn thuần hỗ trợ về tiền tệ. Nghĩa là, phải quan tâm đào tạo, hướng
dẫn về hoạch định kinh doanh, hệ thống kế toán, tài chính cho doanh nghiệp. Đặc biệt,
các nhà kinh doanh này phải thay đổi cách nhìn và tập quán để có khả năng tồn tại lâu
dài trong thế giới kinh doanh hiện đại. Đã qua rồi thời chộp giật lợi nhuận bằng cách
lừa gạt hoặc ép buộc người tiêu dùng, tổ chức lao động thiếu hiệu quả, quản lý kém
cỏi của mọi doanh nghiệp, dù ở quy mô nào. Nếu như các khó khăn kinh tế có thể giải
quyết thuần tuý bằng các biện pháp kinh tế thì khủng hoảng kinh tế của tất cả các
quốc gia trên thế giới đều đã dễ dàng được tháo gỡ và các nhà kinh tế học sẽ là thần

tượng của đông đảo công chúng. Nhưng trên thực tế, các kho khăn kinh tế đan xen từ
nhiều góc độ và mọi biện pháp giải quyết đều là liều thuốc đắng ở mức độ nhất định.
Tức là, sẽ phải có người mất việc làm, có người bị thiệt hại, mất mát địa vị trong
doanh nghiệp và nếu không giải quyết dứt điểm thì còn có thể kéo theo những phát
sinh nghiêm trọng khác.
10
Đề tài: Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của khẩu hiệu “ Tiết kiệm là quốc sách”
Ch ng 2ươ Th c tr ng v v n th c h nh ti tự ạ ề ấ đề ự à ế
ki m Vi t Nam trong th i gian quaệ ở ệ ờ
2.1 Ti t ki m trong khu v c Nh n cế ệ ự à ướ
2.1.1. Tiết kiệm của NSNN
Như đã nói ở trên, vốn NSNN được huy động nhờ tiết kiệm chênh lệch giữa thu
và chi của ngân sách quốc gia. Tình hình hoạt động ngân sách có thể thấy rõ qua bảng
sau:
Tóm tắt hoạt động ngân sách, giai đoạn 1996 - 2003
Chỉ tiêu 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003
Thực tính ( tỷ đồng )
Tổng nguồn thu và viện trợ 21 30.7 42.1 53.4 62.4 66.3 68.6 69.5
Thu từ thuế 5.5 11.4 16.8 23.4 28.1 28.1 32.1 33.9
Đóng góp của DNNN 11.9 15.3 20.6 21.9 25.9 27.6 27.3 27.3
Nguồn thu ngoài thuế khác 2.8 3 3.5 6.5 6.9 8 7.3 6.4
Viện trợ 0.8 1 1.2 1.6 1.5 2.6 1.9 1.9
Tổng chi 22.9 36.9 43.9 54.6 62.9 40.8 72.5 74.5
Chi thường xuyên 15.5 25.6 31.1 39.6 44.6 49.4 49.5 48.5
11
Đề tài: Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của khẩu hiệu “ Tiết kiệm là quốc sách”
Chi đầu tư ( không kể cho vay lại ) 6.4 9.6 11.7 12.1 15.6 19.5 19.8 23
Trả lãi 1 1.7 1.1 2.9 2.7 1.9 2 2.5
Dự phòng 0 0 0 0 0 0 1.2 0.5
Cán cân chung ( cơ sở tiền mặt ) -1.9 -6.2 -1.8 -1.2 -0.5 -4.5 -3.9 -5

Tỷ lệ phần trăm trong GDP
Tổng nguồn thu và viện trợ 19 22.5 24.7 23.9 22.9 21.1 19 17.8
Thu từ thuế 5 8.3 9 9 10.5 10.3 9 8.9 8.7
Đóng góp của DNNN 10.8 11.2 12.1 9.8 9.5 8.8 7.5 7
Nguồn thu ngoài thuế khác 2.5 2.2 2.1 2.9 2.5 2.6 2 1.6
Viện trợ 0.8 0.7 0.7 0.7 0.6 0.8 0.5 0.5
Tổng chi 20.7 27.1 25.8 24.4 23.1 22.6 20.1 19.1
Chi thường xuyên 14 18.8 18.3 17.8 16.4 15.7 13.7 12.4
Chi đầu tư ( không kể cho vay lại ) 5.8 7 6.9 5.4 5.7 6.2 5.5 5.9
Trả lãi 1 1.3 0.6 1.3 1 0.6 0.6 0.6
Dự phòng 0 0 0 0 0 0 0.3 0.1
Cán cân chung ( sơ sở tiền mặt ) -1.7 -4.6 -1.1 -0.5 -0.2 -1.4 -1.1 -1.3
Ghi chú: GDP ( nghìn tỷ đồng ) 111 137 170 229 272 314 362 391
Nguồn: Ngân hàng Thế giới. Số liệu của Tổng cục Thống kê.
Qua bảng trên, có thể thấy tỷ trọng thu ngân sách đã giảm liên tục từ kể từ năm
1999. Mặc dù so với kế hoạch mà chính phủ đặt ra thì con số đạt được nêu trên gần
sát, nhưng việc đưa ra các con số kế hoạch thấp về mục tiêu thu ngân sách cũng kéo
theo sự sụt giảm tương ứng trong các khoản chi. Tuy vậy, chi cho đầu tư vẫn được
duy trì ở khoảng trên dưới 5.5% ngân sách hàng năm, trong đó tập trung chủ yếu vào
chi cho hạ tầng cơ sở trong nông nghiệp. Mức thâm hụt ngân sách vẫn dừng ở mức
tương đối ổn định, khoảng dưới 1.5% GDP.
Tỷ trọng thu ngân sách giảm gần một phần tư so với năm 2000, theo đánh giá
của các chuyên gia Ngân hàng Thế giới, chủ yếu bắt nguồn từ sự giảm sút nguồn thu
từ thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế nhập khẩu. Thu thuế doanh nghiệp giảm là do
hoạt động kém hiệu quả của các DNNN, trong khi các DNTN tiếp tục gặp nhiều khó
12
Đề tài: Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của khẩu hiệu “ Tiết kiệm là quốc sách”
khăn trong những năm kể từ năm 2001 trở lại đây. Còn doanh thu thuế nhập khẩu
giảm là do sự chuyển hướng cơ cấu nhập khẩu theo hướng hạn chế nhập hàng tiêu
dùng, đồng thời tỷ trọng nhập khẩu trong GDP cũng giảm dần trong những năm qua.

Điều này cho thấy, để giữ vững nguồn thu cho ngân sách thì việc cải cách hệ thống
thuế, nhất là thành công của thuế VAT sẽ đóng vai trò cực kỳ quan trọng.
Trong khi nguồn thu ngân sách giảm mạnh từ 23% GDP năm 2000 xuống dưới
mức 18% năm 2003, chính phủ đã theo đuổi một chính sách thận trọng, không cho
phép sự giảm sút nguồn thu ngân sách gây ra sự bất ổn định về ngân sách quốc gia,
mà đã có sự cắt giảm chi tiêu một cách tương ứng. Tuy nhiên, phần lớn sự cắt giảm là
các khoản chi cho dịch vụ kinh tế và chi hành chính. Còn chi đầu tư xây dựng cơ bản
vẫn được duy trì và có sự gia tăng chút ít.
Năm 2002 - 2003 cũng là giai đoạn chính phủ mở rộng hình thức đầu tư tín
dụng Nhà nước - một loại ưu đãi tài chính của chính phủ đối với các dự án đầu tư.
Mặc dù loại tài trợ này hoạt động trên nguyên tắc tự bù đắp nhưng ngân sách vẫn phải
trợ cấp phần chênh lệch giữa lãi suất huy động của tổ chức cho vay và lãi suất cho vay
ưu đãi mà các tổ chức này áp dụng theo địa chỉ mà Nhà nước hướng dẫn. Nếu những
năm trước 1998, tỷ trọng vốn đầu tư bằng hình thức tín dụng Nhà nước trong tổng
vốn đầu tư xã hội đều chỉ giữ ở mức khiêm tốn dưới 10% thì từ năm 1998 đến nay, tỷ
trọng này đã không ngừng tăng lên. Đến năm 2002, nguồn đầu tư này đã chiếm đến
hơn 15% tổng vốn đầu tư xã hội. Vì thế, việc tăng mạnh các loại hình cho vay này sẽ
áp đặt một gánh nặng đáng kể lên ngân sách trong những năm tiếp theo.
Tóm lại, có thể nêu một số điểm chính như sau về thực trạng công tác huy động
và sử dụng vốn đầu tư qua NSNN:
13
Đề tài: Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của khẩu hiệu “ Tiết kiệm là quốc sách”
- Vốn đầu tư từ NSNN đã và đang đóng một vai trò hết sức quan trọng
trong việc đầu tư vào các lĩnh vực mang lại hiệu quả kinh tế xã hội cao, nhưng khả
năng thu hồi vốn thấp khiến các nhà đầu tư tư nhân không thấy hấp ( như đầu tư vào
cơ sở hạ tầng, xoá đói giảm nghèo ở nông thôn ). Trong những năm qua đã có sự
chuyển hướng mạnh về định hướng đầu tư công cộng. Nhờ đó, đã có tác động tích cực
đến việc điều chỉnh cơ cấu đầu tư nói chung và cơ cấu kinh tế.
- Công tác thu chi ngân sách chưa thật vững chắc, khiến cho nguồn đầu
tư từ tiết kiệm ngân sách cũng chưa bền vững. Việc chống buôn lậu, chống thất thu

thuế cho Nhà nước cũng chưa có nhiều chuyển biến tích cực. Ngân sách thường xuyên
căng thẳng, vốn đầu tư quốc gia chưa được quản lý chặt chẽ, vẫn còn nhiều sơ hở, gây
thất thoát lãng phí.
2.1.2. Tích luỹ của các DNNN
Như đã nói ở trên, nguồn vốn đầu tư của các DNNN chủ yếu dựa vào phần lợi
nhuận để lại, bổ sung thêm vào nguồn vốn kinh doanh ( tái đầu tư ) của các doanh
nghiệp. Hiện nay, thành phần kinh tế Nhà nước vẫn giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh
tế. Số lượng các doanh nghiệp quốc doanh còn nhiều, tài sản của thành phần kinh tế
này vẫn chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng tài sản quốc gia. Hoạt động kinh doanh của
chúng vẫn nhận được nhiều sự ưu đãi của chính phủ về cấp phát vốn, cho vay ưu đãi,
ưu đãi về thuế . . . Đáng tiếc, hoạt động của các doanh nghiệp này lại rất kém hiệu
quả, do đó tiết kiệm của các doanh nghiệp này để bổ sung vào nguồn vốn đầu tư toàn
xã hội chưa tương xứng với tầm vóc của chúng.
Tình hình tài chính của các DNNN yếu kém
Loại doanh nghiệp Yếu kém Không hiệu quả
14
Đề tài: Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của khẩu hiệu “ Tiết kiệm là quốc sách”
Số lượng DNNN 711 1989
Số lao động ( nghìn người ) 183 583
Tổng nợ ( nghìn tỷ đồng ) 19.5 42.5
Nợ ngân hàng ( nghìn tỷ đồng ) 14 29
Vốn Nhà nước ( nghìn tỷ đồng ) 10.2 52.5
Lợi nhuận trước thuế ( nghìn tỷ đồng ) -0.25 5
Nguồn: Bộ Tài chính và Ban Đổi mới Quản lý Doanh nghiệp Trung ương
Từ bảng trên có thể thấy, các DNNN “ yếu kém nhất “ và “ hoạt động không có
hiệu quả “ được phân loại trên cơ sở tỷ suất lợi nhuận và nợ, lần lượt có mức nợ gần
20 nghìn tỷ và 43 nghìn tỷ đồng ( tương ứng với khoảng 1400 và 3000 triệu đôla ) vào
cuối năm 2001.
Sự kém cỏi trong hoạt động của các DNNN nói chung đã làm giảm sức mạnh
của nền kinh tế xét về ba khía cạnh. Thứ nhất, nó gây ra sự phân bổ sai, không hiệu

quả các nguồn lực vốn còn rất khan hiếm của xã hội. Nếu khu vực tư nhân nói chung
hoạt động hiệu quả hơn các DNNN thì việc nâng đỡ các DNNN này bằng ngân sách
quốc gia đã làm lãng phí nguồn lực xã hội mà đáng lẽ phải hướng sang phục vụ các
DNTN. Thứ hai, nếu các ngân hàng quốc doanh bị ép phải tiếp tục cho các DNNN
thua lỗ này vay thì sẽ làm tăng lượng vốn khê đọng, và nguy hiểm hơn có thể làm mất
khả năng chi trả của các ngân hàng. Thứ ba, những vấn đề nêu trên nếu không được
giải quyết triệt để thì sẽ ngày càng làm tăng thêm chi phí cho các cuộc cải cách ngân
hàng và DNNN. Theo ước tính, nếu không có các chính sách thích hợp, chi phí cho
việc cơ cấu lại hệ thống ngân hàng ( xoá các khoản nợ không có khả năng thanh toán
của các DNNN và tái cấp vốn cho các ngân hàng ) có thể sẽ tăng thêm hàng năm 1-
2% GDP, trong khi mức dự kiến hiện nay đã vào khoảng 8 - 10% GDP.
Như vậy, tình hình hoạt động bi quan của đa số các DNNN cho thấy không thể
dự kiến gì nhiều về nguồn vốn do các DNNN này tự đầu tư trong thời gian tới so với
15
Đề tài: Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của khẩu hiệu “ Tiết kiệm là quốc sách”
những gì họ đã làm được trong những năm qua, nếu không muốn nói là tình hình còn
có thể xấu hơn nữa. Cải cách mạnh khu vực này theo hướng sắp xếp lại DNNN, xúc
tiến cổ phần hoá, kiên quyết sát nhập hoặc giải thể những doanh nghiệp làm ăn kém
hiệu quả là hướng đi cần thiết để nâng cao hiệu quả hoạt động của chúng, giảm gánh
nặng tài chính cho ngân sách quốc gia, đồng thời từng bước tạo điều kiện để các
doanh nghiệp có được tích luỹ thực sự từ lợi nhuận do kết quả sản xuất kinh doanh
hiệu quả của chính họ.
2.2 Ti t ki m trong khu v c t nhânế ệ ự ư
2.1.3. Tích luỹ của các DNTN
Tỷ trọng đóng góp của khu vực tư nhân trong GDP năm 2000 vào khoảng 51%,
trong đó riêng khu vực tư nhân trong nước ( không kể khu vực tư nhân nước ngoài ) là
41% ( xem bảng dưới ). Trong giai đoạn 1999 - 2002, tuy gặp nhiều trở ngại nhưng
khu vực tư nhân Việt Nam vẫn tăng trưởng 9% một năm, chỉ kém khu vực Nhà nước
có 1%.
Tỷ trọng của khu vực tư nhân trong GDP năm 2000 ( % )


Tổng GDP GDP của ngành chế tạo
Khu vực Nhà nước
Các doanh nghiệp Nhà nước 49 54
Khu vực tư nhân
Khu vực đầu tư nước ngoài 10 18
Khu vực đầu tư trong nước 41 28
trong đó: Các doanh nghiệp gia đình 34 18

DNTN vừa và nhỏ 7 10
Nguồn: Niên giám Thống kê, 2003.
16
Đề tài: Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của khẩu hiệu “ Tiết kiệm là quốc sách”
Khu vực tư nhân đang tạo ra gần một nửa GDP trong các ngành chế tạo, trong
đó khu vực tư nhân vẫn chiếm ưu thế, và tỷ trọng này còn tiếp tục gia tăng. Các doanh
nghiệp gia đình và DNTN vừa và nhỏ chiếm 28% GDP của ngành công nghiệp chế
tạo.
Tiếp tục những cải cách trong việc khuyến khích đầu tư tư nhân từ những năm
trước, năm 1999, chính phủ đã tiến hành các biện pháp như:
. Cho phép các công ty tư nhân Việt Nam góp quyền sử dụng đất của mình dưới
dạng vốn sở hữu trong các liên doanh, khi họ đã trả đầy đủ tiền thuê đất.
. Thành lập Diễn đàn Khu vực Tư nhân và gặp gỡ hàng quý để trao đổi các vấn
đề liên quan đến quyền lợi của khu vực tư nhân trong nước và ngoài nước.
. Thành lập Ban Chỉ đạo xây dựng chiến lược 5 năm phát triển khu vực tư nhân.
. Công bố danh sách các khuyến khích mới dành cho các nhà đầu tư nước
ngoài.
. Thông qua Luật Doanh nghiệp, bãi bỏ sự hạn chế có tính chất phân biệt về
quyền thành lập doanh nghiệp và tiến hành kinh doanh của bất kỳ một pháp nhân hoặc
thể nhân nào, đơn giản hoá đáng kể các quy định thủ tục về đăng ký, tạo cơ sở pháp lý
thống nhất cho tất cả các loại hình doanh nghiệp, kể cả doanh nghiệp cổ phần hoá.

. Công bố cụ thể về chương trình hành động về khu vực tư nhân theo Kế hoạch
Myazawa. Chương trình này không chỉ đề cập đến các vấn đề giảm bớt khó khăn
trong quá trình lập DNTN và tạo sân chơi bình đẳng, mà còn nêu lên các định chế tín
dụng và các cơ quan hỗ trợ cho khu vực tư nhân.
17
Đề tài: Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của khẩu hiệu “ Tiết kiệm là quốc sách”
Tuy nhiên, các doanh nhân đều cho rằng, chính sách mới còn chưa được tự do
hoá đầy đủ và qua trình thực hiện các chính sách hiện hành còn rất chậm chạp. Một số
điểm cụ thể về những trở ngại này là:
. Về sự tham gia của khu vực tư nhân. Luật Doanh nghiệp vẫn chưa củng cố
thêm tính chất tự do hoá.
. Về khuôn khổ pháp lý của khu vực tư nhân. Vẫn chưa có một hệ thống
khuôn khổ pháp lý thống nhất dành cho toàn bộ các doanh nghiệp tư nhân.
. Chính sách đất đai. Vẫn có sự phân biệt về quyền sử dụng đất. Quyền sử
dụng đối với đất thuê và các bất động sản khác sẽ không được chuyển nhượng nếu
không được sự đồng ý của chính phủ trong từng trường hợp. Chưa có một hệ thống
pháp lý thống nhất về đăng ký đất đai. Do đó, dễ gây ra sự tranh chấp về đất đai và
gây khó khăn cho tổ chức tín dụng khi muốn xác định chủ sở hữu đích thực có quyền
sử dụng đất.
. Khả năng tiếp cận yếu đối với các nguồn nhập khẩu và mạng lưới xuất
khẩu. Về xuất khẩu, thủ tục hải quan đối với hàng xuất khẩu còn rất rườm rà. Về nhập
khẩu, các công ty bị hạn chế quyền nhập khẩu các mặt hàng không đăng ký trong giấy
phép, và để xin được các giấy phép kinh doanh mới có liệt kê mặt hàng nhập khẩu
thích hợp thì rất khó khăn. Thủ tục hải quan đối với hàng nhập khẩu cũng tốn thời
gian và chi phí không kém, nhiều mặt hàng nhập khẩu vẫn chịu hạn chế của các hàng
rào phi thuế quan.
. Khả năng tiếp cận nguồn tín dụng còn hạn chế. Một nguyên nhân chính là
các DNTN gặp rất nhiều khó khăn trong việc thoả mãn các yêu cầu thế chấp.
18
Đề tài: Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của khẩu hiệu “ Tiết kiệm là quốc sách”

. Các tổ chức hỗ trợ thị trường kém. Do đó, DNTN thiếu những kênh quan
trọng để trao đổi, thu thập thông tin. Các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh cũng còn hạn chế,
do đó chưa tranh thủ được kinh nghiệm và trình độ thực hiện các công việc chuyên
môn của những chuyên gia giỏi.
Tất cả những trở ngại trên đây đang từng bước được chính phủ Việt Nam tích
cực tìm cách tháo gỡ. Mặc dù đây không phải là công việc một sớm một chiều, nhưng
với triển vọng ngày một thuận lợi của khu vực tư nhân, có thể dự kiến tỷ trọng vốn
đầu tư của DNTN trong tổng vốn đầu tư xã hội trong những năm tới sẽ gia tăng mạnh
mẽ.
2.1.4. Tiết kiệm của các tầng lớp dân cư
Ở nước ta, người dân có tiền thường đưa vào những cách sử dụng chủ yếu sau:
- Mua ngoại tệ, vàng cất trữ. Cách làm này thường được áp dụng khi
có sự biến động cao về tỷ giá hoặc tỷ lệ lạm phát.
- Đầu tư kinh doanh, kể cả việc mua đất đai, xây dựng khách sạn. . .
Đây là hiện tượng phổ biến trong các năm 1989 - 1996. Theo một thống kê của các
chuyên gia tài chính, đến cuối năm 1996, vốn của dân đầu tư vào sản xuất kinh doanh
là 4.350 tỷ đồng.
- Mua cổ phiếu của các công ty cổ phần, ngân hàng thương mại cổ
phần hay các công ty tài chính cổ phần. Hình thức này hiện nay chưa phổ biến, do số
lượng các công ty cổ phần ở nước ta còn ít, thị trường chứng khoán chưa thành lập.
Phổ biến nhất là việc các cán bộ công nhân viên chức trong các DNNN đứng ra mua
cổ phần khi các doanh nghiệp này được cổ phần hoá.
19
Đề tài: Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của khẩu hiệu “ Tiết kiệm là quốc sách”
- Mua trái phiếu Kho bạc Nhà nước. Hình thức này mới xuất hiện ở
nước ta từ năm 1992 đến nay. Do lãi suất cao hơn nhiều so với lãi suất ngân hàng
cùng kỳ hạn, lại là cách đảm bảo nhất nên hình thức trái phiếu Kho bạc đã hấp dẫn
được rất nhiều tầng lớp dân cư trong những năm qua.
- Gửi tiền tiết kiệm thông qua hệ thống ngân hàng và các tổ chức tín
dụng. Đây là hình thức được người dân lựa chọn nhiều nhất và cũng là kênh thu hút

được khối lượng tiền nhàn rỗi của dân cư lớn nhất.
- Hùn vốn kinh doanh hoặc cho nhau vay trên thị trường phi chính thức
dưới nhiều hình thức như chơi bụi, chơi họ . . .
- Giữ tiền mặt trong nhà cho tiện việc chi tiêu sử dụng. Khác với các
nước khác, hình thức này cũng tương đối phổ biến ở nước ta, nhất là khi tỷ lệ giao
dịch bằng tiền mặt trong nền kinh tế còn rất cao như hiện nay.
Cơ cấu sử dụng nguồn tiết kiệm của dân cư được thể hiện rõ nét thông qua kết
quả Điều tra Mức sống Dân cư vừa được Tổng cục Thống kê kết hợp với Ngân hàng
Thế giới thực hiện trong năm 2001 - 2002, như bảng dưới đây.
Tiền tiết kiệm, theo hình thức tiết kiệm của khu vực thành thị - nông thôn
( Đơn vị: phần trăm )
Chung Khu vực
Thành thị Nông thôn
Tổng số 100 100 100
Sổ tiết kiệm ngân hàng quốc doanh 14.2 17.8 9.31
Sổ tiết kiệm các ngân hàng khác, 4.29 7.1 0.46
HTX tín dụng, tín phiếu, kỳ phiếu
Đôla Mỹ và ngoại tệ khác 2.26 3.83 0.13
20
Đề tài: Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của khẩu hiệu “ Tiết kiệm là quốc sách”
Cổ phiếu, cổ phần, góp họ 3.2 3.09 3.35
Tiền mặt 26.27 23.71 29.76
Vàng, bạc, kim loại quý và đá quý
khác 28.82 26.35 32.17
Đồ trang sức 18.65 15.84 22.46
Thóc gạo, sản phẩm cây trồng khác 0.22 0.06 0.44
Các hình thức khác 2.09 2.22 1.92
Nguồn: Điều tra Mức sống Dân cư lần II, năm 2001 - 2002.
Qua bảng trên, có thể thấy hình thức tiết kiệm phổ biến nhất hiện nay là tích trữ
vàng bạc, đá quý chiếm 28.82% các hình thức tiết kiệm. Sau đó là hình thức giữ tiền

mặt chiếm 26.27%, hình thức thứ ba là đồ trang sức chiếm 18.65%. Nếu tính gộp các
hình thức này, cộng với hình thức giữ ngoại tệ mạnh thì có đến 76% nguồn tiết kiệm
của dân cư vẫn tồn đọng trong khu vực dân cư, và không được huy động vào phục vụ
sản xuất. Còn nếu giả định lượng tiền mặt mà cá nhân giữ sẽ được huy động vào các
hoạt động sản xuất kinh doanh của họ thì tỷ lệ vốn “ nằm chết “ trong dân cũng vào
khoảng 50% tổng tiết kiệm dân cư. Những con số này tuy mới chỉ là sơ bộ, nhưng nó
cũng tương xứng với ước tính của nhiều chuyên gia ngân hàng cho rằng có đến 60%
tiết kiệm của dân cư vẫn tồn đọng trong khu vực này.
Tính đến nay, hệ thống ngân hàng mới chỉ huy động được 18.5% tiết kiệm của
dân cư. Tốc độ tăng bình quân hàng năm của vốn huy động qua hệ thống ngân hàng
và các tổ chức tài chính giai đoạn 1996 - 2001 là 37,1%, trong đó huy động bằng nội
tệ tăng 50.9%, bằng ngoại tệ tăng 22.95%. Tuy nhiên, trong năm 2003, xu hướng này
đã đảo ngược. Vốn huy động bằng ngoại tệ đã tăng nhanh hơn vốn huy động bằng nội
tệ. Tại hai thành phố lớn là Hà Nội và TP.Hồ Chí Minh, tốc độ tăng vốn huy động
bằng ngoại tệ đã gấp từ 1.5 đến 2 lần tốc độ tăng vốn huy động bằng nội tệ. Nguyên
nhân chính là do tỷ giá trong năm qua đã ổn định. Tỷ trọng vốn tín dụng trong tổng
vốn đầu tư toàn xã hội năm 1995 chiếm 8.3%, năm 2000 là 10.6%, năm 2001 là 9.9%
và năm 2002 là 10.5%.
21
Đề tài: Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của khẩu hiệu “ Tiết kiệm là quốc sách”
2.3. ánh giá chung v nguyên nhânĐ à
2.3.1. Về mặt được
Hoạt động huy động vốn có nhiều tiến bộ, lượng vốn huy động được trong
dân cư ngày càng tăng với mạng lưới các kênh huy động ngày càng mở rộng.
Trong vòng một thập kỷ qua, hệ thống ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng
Việt Nam đã có bước phát triển khá, bao gồm 4 ngân hàng thương mại quốc doanh
( Ngân hàng Ngoại thương, Ngân hàng Công thương, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát
triển Nông thôn và Ngân hàng Đầu tư Phát triển ), giữ vai trò chủ đạo trong hoạt động
kinh doanh tiền tệ. Ngoài ra còn có nhiều ngân hàng và các tổ chức tín dụng ngoài
quốc doanh như 33 ngân hàng thương mại cổ phần đô thị, 21 ngân hàng thương mại

cổ phần nông thôn, 2 công ty tài chính cổ phần, 23 chi nhánh ngân hàng nước ngoài, 4
ngân hàng liên doanh với nước ngoài, 40 văn phòng đại diện các ngân hàng nước
ngoài và trên 950 Quỹ tín dụng nhân dân. Tuy nhiên, do tâm lý người dân vẫn tin
tưởng vào các ngân hàng quốc doanh hơn nên hệ thống ngân hàng thương mại quốc
doanh chiếm tỷ trọng lớn nhất trong vốn huy động từ dân cư. Tốc độ tăng vốn huy
động của các ngân hàng này đạt 18% - 19% trong năm 1999 so với năm 1998, một tốc
độ tăng nhanh nhất trong thời gian trở lại đây.
Bên cạnh những kênh huy động trực tiếp truyền thống đó, chính phủ cũng đã
hình thành những kênh huy động mới rất có triển vọng như phát hành trái phiếu Kho
bạc Nhà nước hay cho phép một số tổng công ty huy động vốn thông qua phát hành
trái phiếu, kỳ phiếu ( ví dụ, Tổng công ty Vàng bạc Đá quý Việt Nam đã huy động kỳ
phiếu bằng vàng đạt kết quả tốt ). Tuy nhiên, thực tế cho thấy trong năm 1999, kể cả
khối lượng trái phiếu do Kho bạc Nhà nước trực tiếp bán lẻ và khối lượng công trái
mà người dân mua thì tổng giá trị của hai loại này chỉ mới bằng 50% khối lượng trái
22
Đề tài: Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của khẩu hiệu “ Tiết kiệm là quốc sách”
phiếu Kho bạc Nhà nước bán lẻ trong năm 1998, lại diễn ra không thường xuyên, nên
kênh huy động vốn qua các hình thức phát hành công trái, trái phiếu này trong những
năm gần đây chưa phải là kênh chủ lực, mà gửi tiền vào ngân hàng vẫn là hình thức
chính, ngoài việc cất trữ tài sản, hàng hoá của người dân. Từ tháng 11 năm 1998,
Tổng cục Bưu điện đã khai thác dịch vụ tiết kiệm qua Bưu điện. Kinh nghiệm của
nhiều quốc gia như Đài Loan, Nhật Bản cho thấy đây là một kênh huy động vốn rất
quan trọng, bởi đặc thù ngành Bưu điện là có chi nhánh vươn ra khắp mọi miền đất
nước, vì thế chi phí huy động vốn của ngành sẽ thấp hơn rất nhiều so với những kênh
huy động truyền thống khác. Trong thời gian sau đại chiến Thế giới Lần thứ 2, chính
tiết kiệm qua Bưu điện là kênh huy động vốn dân cư quan trọng nhất, góp phần làm
nên sự thần kỳ của Nhật Bản.
Hình thức huy động vốn ngày càng đa dạng, phong phú với công nghệ tiên
tiến. Trong thời gian qua, ngành ngân hàng đã mở ra nhiều hình thức thu hút tiền gửi
của người dân như cho phép gửi tiền một nơi và rút tiền nhiều nơi, phát hành thẻ điện

tử, séc cá nhân để thanh toán thay cho việc phải sử dụng tiền mặt, huy động cả tiền
gửi bằng đồng nội tệ và ngoại tệ, người dân có thể mở tài khoản tiết kiệm bằng ngoại
tệ và được rút ra bằng ngoại tệ . . . Tháng 4 năm 1998, lần đầu tiên, ngân hàng đã thí
điểm cho ra đời hình thức “ trái phiếu Ngân hàng trung ương và dài hạn “, đã thu được
kết quả khả quan. Chỉ sau 25 ngày đã huy động được 1.100 tỷ đồng, vượt kế hoạch
100 tỷ.
Cùng với việc đa dạng hoá hình thức huy động, ngành ngân hàng cũng đã có
nhiều cải tiến về thủ tục gửi và rút tiền, từng bước máy tính hoá các công đoạn khác
nhau trong nghiệp vụ ngân hàng, đảm bảo nhanh, gọn, chính xác, đa dạng hoá các
hình thức phục vụ như giúp gửi tiền và chi trả tại nhà . . . Nhờ đó, uy tín của ngành đã
được nâng cao.
23
Đề tài: Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của khẩu hiệu “ Tiết kiệm là quốc sách”
Chính sách huy động luôn đảm bảo lãi suất thực dương cho người gửi tiền.
Trong thời gian qua, Ngân hàng Nhà nước đã có chính sách lãi suất tích cực, đảm bảo
lãi suất thực luôn dương để tạo tâm lý yên tâm cho người gửi tiền, khuyến khích họ
gửi tiền vào ngân hàng. Điều này có thể được chứng tỏ qua bảng sau:
Lãi suất tiền gửi ngân hàng, giai đoạn 1996 - 2003
1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003
Lãi suất tiền gửi ( % ) 20.4 20.4 20.4 20.4 10.8 7.8 11.7 8.4
Tốc độ lạm phát ( % ) 17.5 5.2 14.4 12.7 4.5 3.6 9.2 1.5
Lãi suất thực ( % ) 2.9 15.2 6 7.7 6.3 4.2 2.5 7.2
Nguồn: Ngân hàng Nhà nước.
2.3.2. Về mặt chưa được
Tiềm lực vốn trong dân còn lớn, mà ngân hàng và các tổ chức tài chính
chưa huy động được. Như đã sơ bộ ước tính ở trên, tỷ lệ vốn nhàn rỗi của dân cư
được huy động qua hệ thống ngân hàng và các hình thức phát hành kỳ phiếu, trái
phiếu của chính phủ vẫn còn rất khiêm tốn ( chiếm chưa đến 20% tổng mức tiết kiệm
của dân cư ). Đó là chưa kể một lượng kiều hối khá lớn hàng năm vẫn được kiều bào
ta ở nước ngoài gửi về cho thân nhân trong nước. Theo một ước tính không chính

thức, con số này hàng năm có thể lên tới 1 tỷ đôla, trong đó lượng kiều hối chuyển về
nước năm 1999 đã tăng từ 1,5 đến 1,8 lần so với năm 1988.
Vốn dân cư huy động được chủ yếu là vốn ngắn hạn. Năm 1996, trong tổng
số dư tiền gửi tiết kiệm trị giá 7.500 tỷ đồng thì có đến 90% là tiền gửi tiết kiệm ngắn
hạn. Còn theo các chuyên gia Ngân hàng Thế giới ước tính thì trong tổng tiền gửi tiết
kiệm, trung bình có đến 70% - 80% là loại tiết kiệm ngắn hạn ( dưới 1 năm ) và không
thời hạn.
24
Đề tài: Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của khẩu hiệu “ Tiết kiệm là quốc sách”
Các trung gian tài chính còn gặp khó khăn và một số hình thức huy động
chưa phát huy được hiệu quả. Như đã phân tích ở phần trên, muốn thu hút được vốn
nhàn rỗi trong dân cư, không những ngân hàng cần có một chính sách huy động tiền
gửi hấp dẫn, mà cần có khả năng cho vay được. Tuy vậy, một hiện tượng nổi cộm
trong thời gian qua là nhiều lúc ngân hàng gặp tình trạng “ ứ đọng vốn “ không cho
vay được. Điều đó đã khiến nhiều ngân hàng thương mại và tổ choc tín dụng phải xử
lý bằng cách dùng vốn ứ đọng mua lại công trái mà nhân dân bán ra để hưởng chênh
lệch về lãi suất. Thực tế này đã làm mất tác dụng thực sự của công trái xây dựng đất
nước, còn vốn dân cư vẫn không huy động được thêm vào các kênh tín dụng chính
thức của đất nước.
2.3.3. Nguyên nhân của những mặt chưa được
Tình hình trên do nhiều nguyên nhân gây ra. Có những nguyên nhân mang tính
khách quan, và có nhiều nguyên nhân mang tính chủ quan về mặt cơ chế, chính sách,
môi trường đầu tư cũng như những yếu kém của bản thân hệ thống ngân hàng.
Về nguyên nhân khách quan
- Trình độ phát triển của đất nước và mức độ tiền tệ hoá nền kinh tế
còn thấp. Mặc dù 10 năm qua, nước ta đã có những bước phát triển mạnh mẽ nhưng
nhìn tổng thể, chúng ta chưa thoát ra khỏi tình trạng nghèo nàn lạc hậu. Thu nhập
quốc dân tính theo đầu người còn thấp, tỷ lệ đói nghèo cao và nền kinh tế chủ yếu
vẫn dựa vào nông nghiệp. Ở nhiều nơi, đặc biệt là các vùng sâu, vùng xa vẫn còn tình
trạng trao đổi bằng hiện vật. Còn phổ biến là người dân vẫn còn thói quen trao giao

dịch chính bằng tiền mặt. Những phương tiện thanh toán hiện đại như séc, thẻ điện tử
vẫn còn xa lạ. Điều này đã hạn chế tốc độ chu chuyển tiền tệ trong lưu thông, gây tâm
25

×