Tải bản đầy đủ (.doc) (37 trang)

Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của khẩu hiệu “ Tiết kiệm là quốc sách ''

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (198.56 KB, 37 trang )

Đề tài: Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của khẩu hiệu “ Tiết kiệm là quốc sách”
Lời mở đầu
Sản xuất là hoạt động cơ bản của con người. Mọi xã hội muốn tồn tại và phát
triển phải duy trì sản xuất. Nhưng trong những điều kiện, muốn cho sản xuất có hiệu
quả và phát triển nhanh chóng thì sản xuất phải gắn liền với tiết kiệm. Có thể nói, hiện
nay nền kinh tế nước ta đang trong quá trình phát triển nhanh chóng, nó đòi hỏi một
khối lượng vốn đầu tư lớn và đang ngày càng trở nên cấp thiết hơn.
Tuy nhiên, tình hình huy động vốn đặc biệt là nguồn vốn trong nước cho nền
kinh tế Việt Nam đang còn nhiều hạn chế chưa tương xứng với tiềm năng của nó. Một
trong những nguyên nhân gây ra tình trạng trên la do khả năng tích luỹ, tiết kiệm vốn
trong nước đang còn nhiều yếu kém, tình hình sử dụng vốn đầu tư trong nhiều lĩnh
vực đặc biệt là trong đầu tư xây dựng cơ bản hiệu quả chưa cao, tình trạng thất thoát
lãng phí còn lớn và diễn ra khá phổ biến . . . Do đó với nền kinh tế nước ta hiện nay,
vấn đề tiết kiệm đang càng trở nên rất cấp thiết.
Trong bài viết này, do khả năng nghiên cứu hạn chế nên chúng tôi đề cập đến
các nguồn tiết kiệm trong nước. Trong đề tài này chúng tôi xin trình bày những vấn đề
liên quan đến khẩu hiệu “ Tiết kiệm là quốc sách “.
Nội dung của bài viết bao gồm 3 chương :
Chương 1: Cơ sở lý luận của khẩu hiệu: “ tiết kiệm là quốc sách “
Chương 2: Thực trạng về vấn đề thực hành tiết kiệm ở Việt Nam
trong thời gian qua
Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả tiết kiệm ở
1
Đề tài: Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của khẩu hiệu “ Tiết kiệm là quốc sách”
Việt Nam trong thời gian tới
Chương 1
Cơ sở lý luận của khẩu hiệu: “ tiết kiệm là quốc sách “
1.1. Khái niệm về tiết kiệm
Khi nói về tiết kiệm thì mỗi nhà kinh tế lại đưa ra khái niệm khác nhau. Nhà
kinh tế học cổ điển Adam Smith trong tác phẩm “ Của cải của các dân tộc “ cho rằng:
“ Tiết kiệm là nguyên nhân trực tiếp gia tăng vốn. Lao động tạo ra sản phẩm để tích


luỹ cho quá trình tăng tiết kiệm. Nhưng dù có tạo ra bao nhiêu chăng nữa, nhưng
không có tiết kiệm thì vốn không bao giờ tăng lên “
Sang đến thế kỷ 19, C.Mác đã chứng minh rằng: Trong một nền kinh tế với hai
khu vực, khu vực I sản xuất tư liệu sản xuất và khu vực II sản xuất tư liệu tiêu dùng.
Để đảm bảo gia tăng nguồn lực cho sản xuất, gia tăng quy mô đầu tư, một mặt phải
tăng cường sản xuất tư liệu sản xuất ở khu vực I, đồng thời phải sử dụng tiêt kiệm tư
liệu sản xuất ở cả hai khu vực. Mặt khác, phải tăng cường sản xuất tư liệu tiêu dùng ở
khu vực II, thực hành tiết kiệm tiêu dùng trong sinh hoạt ở cả hai khu vực. Như vậy,
con đường cơ bản và quan trọng về lâu dài để táI sản xuất mở rộng là phát triển sản
xuất và thực hành tiết kiệm ở cả trong sản xuất và tiêu dùng.
Đúc kết quan điểm của các nhà kinh tế học khác nhau, Hồ Chí Minh đã vận
dụng vào điều kiện cụ thể của nước ta và đưa ra khái niệm về tiết kiệm: “ Tiết kiệm là
một quy luật, một phương pháp của một chế độ kinh tế, không phải chỉ tiết kiệm khi
2
Đề tài: Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của khẩu hiệu “ Tiết kiệm là quốc sách”
đất nước còn nghèo, mà ngay cả khi giàu có và càng giàu có càng phải thực hành tiết
kiệm “. Bác luôn nhấn mạnh “ tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm là 2 vấn đề
mấu chốt để xây dựng, phát triển kinh tế, phát triển văn hoá xã hội, để cải thiện đời
sống nhân dân “. Tư tưởng quan điểm của Bác là “ làm ra nhiều, chi dùng nhiều.
Không cần thì không chi dùng. Đó là tất cả chính sách kinh tế của nước ta “. Tiết kiệm
- theo Bác “ cốt để giúp vào tăng gia sản xuất, mà tăng gia sản xuất là để dần dần nâng
cao mức sống của bộ đội, cán bộ và nhân dân! “
Như vậy, tiết kiệm là sử dụng nguồn lực tài chính, lao động và các nguồn lực
khác ở mức thấp hơn định mức, tiêu chuẩn, chế độ quy định nhưng vẫn đạt được mục
tiêu xác định hoặc sử dụng đúng định mức nhưng đạt hiệu quả cao hơn mục tiêu đã
xác định ( Pháp lệnh của UBTVQH số 02/1998/PL - UBTVQH10 )
1.2. Bản chất của tiết kiệm
Tiết kiệm trong mọi thời điểm rất dễ bị hiểu sai lệch, chúng ta cần phải tìm hiểu
cặn kẽ và đúng đắn bản chất của tiết kiệm để trong quá trình thực hành và vận dụng
trong thực tiễn có thể đúng hướng.

Tiết kiệm là với chi phí thấp nhất để đạt hiệu quả cao nhất. Tiết kiệm không có
nghĩa là bủn xỉn “ không phải xem đồng tiền to bằng cái nống, gặp việc đáng làm
không làm, đáng tiêu không tiêu. Tiết kiệm phải được thực hiện một cách toàn diện,
hoàn chỉnh bao gồm cả tiết kiệm của riêng, tiết kiệm của công. Nếu không biết tiết
kiệm của riêng thì không thể tiết kiệm của công được. Nhưng nếu chỉ lo tiết kiệm của
riêng mà phung phí của công là không đúng. Tiết kiệm không chỉ lao động và tiền mà
cả thời giờ “, Hồ Chí Minh đã từng nói: “ Chúng ta cần có sự tính toán cân nhắc thận
trọng, khi nào không nên tiêu xài thì một hạt gạo, một đồng xu cũng không nên tiêu,
3
Đề tài: Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của khẩu hiệu “ Tiết kiệm là quốc sách”
nhưng việc đáng làm vì ích nước, đồng bào thì tiêu bao nhiêu, tốn bao nhiêu chúng ta
cũng sẵn sàng thực hiện “.
Trong thời điểm hiện nay, với chủ trương “ kích cầu “ của Nhà nước, tuy nhiên
chúng ta phải xem xét và khẳng định rằng không có sự mâu thuẫn giữa việc khuyến
khích tiêu dùng và thực hành tiết kiệm. Tiết kiệm và kích cầu là hai vấn đề gắn bó với
nhau nhưng hoàn toàn khác nhau. Tiết kiệm không có nghĩa là chi ít mà chi đúng và
chi có hiệu quả. Thực hành tiết kiệm đồng thời với việc không chấp nhận việc tiêu
dùng xa hoa, lãng phí, cần tiêu 1 mà tiêu 3, cần tiêu 3 lại tiêu 7. Bản thân từng người
lao động, từng doanh nghiệp được Nhà nước ta khuyến khích tiêu dùng để thúc đẩy
sản xuất bởi tiêu dùng là một khâu trong vòng tròn khép kín: sản xuất - lưu thông -
phân phối - tiêu dùng. Đây chính là bản chất của tiết kiệm. Chúng ta hiểu và biết kết
hợp hai vấn đề “ kích cầu “ và tiết kiệm để phát triển sản xuất. Như vậy mới có thể
phát triển kinh tế được.
1.3. Các nguồn tiết kiệm
1.3.1. Tiết kiệm trong khu vực Nhà nước
- Tiết kiệm trong thu chi ngân sách Nhà nước ( NSNN ) :
Khoản này còn được gọi là vốn ngân sách chi cho phát triển kinh tế xã hội. Tiết
kiệm của ngân sách được xác định bằng thu ngân sách trừ đi chi thường xuyên. Tiết
kiệm của ngân sách phụ thuộc vào 3 yếu tố: Thu, chi ngân sách và chất lượng đầu tư
của chính phủ. Trong trường hợp bội chi ngân sách, Nhà nước sẽ phải đi vay hoặc xin

viện trợ để bù đắp vào khoản thiếu hụt đó. Ở nước ta, phần bù đắp cho thâm hụt ngân
sách chủ yếu được thực hiện bằng các khoản vay ODA và vay trong dân. Hai kênh
này sẽ được bàn đến trong từng phần riêng biệt. Vì thế, phần vốn từ NSNN ở đây chủ
4
Đề tài: Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của khẩu hiệu “ Tiết kiệm là quốc sách”
yếu được hiểu là phần tích luỹ từ nguồn thu trong nước của ngân sách, sau khi đã chi
trả cho các khoản chi thường xuyên, dự phòng hoặc trả nợ.
- Tích luỹ của các doanh nghiệp Nhà nước ( DNNN ) :
Để tiến hành đầu tư sản xuất, nhiều doanh nghiệp Nhà nước tự đầu tư bằng vốn
huy động từ phần lợi nhuận bổ sung vào nguồn vốn kinh doanh của doanh nghiệp, bên
cạnh các nguồn vốn khác như vay trực tiếp từ dân cư, vay nước ngoài hoặc nhận từ
NSNN. Để tránh trùng lặp với các nguồn vốn khác, phần này cũng chỉ phân tích sâu
vào nguồn tiết kiệm của bản thân các doanh nghiệp này mà thôi.
1.3.2. Tiết kiệm trong khu vực tư nhân
- Tích luỹ của các doanh nghiệp tư nhân ( DNTN ):
Mặc dù là một khu vực kinh tế tương đối non trẻ so với khu vực Nhà nước,
nhưng khu vực tư nhân Việt Nam đang chứng tỏ một sức vươn lên mạnh mẽ và đầy
hứa hẹn trong tương lai. Khu vực tư nhân của Việt Nam hiện nay bao gồm nông dân,
các doanh nghiệp hộ gia đình, DNTN vừa và nhỏ ( SMEs ) và các doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài tương đối lớn.
- Tiết kiệm của các tầng lớp dân cư :
Nguồn vốn trong dân luôn là một nguồn rất lớn, và có nhiều khả năng tăng
cường huy động để phát triển kinh tế. Cơ sở chủ yếu để huy động nguồn vốn này
chính là tiết kiệm trong dân cư. Nếu các kênh huy động vốn hoạt động có hiệu quả thì
đại bộ phận nguồn tiết kiệm trong dân đó sẽ sẵn sàng tích trữ nguồn tiết kiệm đó dưới
dạng mua vàng, ngoại tệ hoặc các tài sản có giá trị, thay vì gửi chúng vào ngân hàng
5
Đề tài: Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của khẩu hiệu “ Tiết kiệm là quốc sách”
hay các kênh huy động tài chính khác. Đó sẽ là một sự lãng phí nguồn lực rất lớn đối
với một đất nước còn đang rất khát vốn đầu tư như chúng ta. Có được vốn huy động

rồi , nếu muốn biến chúng thành vốn đầu tư thực hiện, đòi hỏi ngân hàng và các tổ
choc tín dụng phải có những chính sách cho vay hấp dẫn, môi trường đầu tư thuận lợi
đủ sức khuyến khích các doanh nghiệp vay vốn để mở rộng sản xuất. Vì thế, tăng
cường thu hút vốn trong dân mà không có các biện pháp khuyến khích đầu tư thì sẽ
dẫn đến tình trạng ứ đọng trong ngân hàng như tình hình của Việt Nam trong những
năm 1996 - 1997.
1.4. Kinh nghiệm của một số nước về vấn đề: “ tiết kiệm là quốc sách “
- Thái Lan: Năm 1997, Thái Lan đang đắm chìm trong cuộc khủng
hoảng tài chính, thế giới đã được chứng kiến hình ảnh cảm động người dân Thái lũ
lượt đi quyên góp để cứu ngân khố nước nhà. Có lẽ cũng từ kinh nghiệm đó, lúc này
đang có ngày càng nhiều nhà nghiên cứu, phân tích kinh tế Thái Lan lên tiếng kêu gọi
Chính phủ thực hiện chủ trương tiết kiệm để giải quyết những khó khăn kinh tế - xã
hội của đất nước.
Có điều, tiết kiệm ở đây không theo nghĩa thông thường, mà phải là sự kết hợp
vận động của tất cả các lĩnh vực tâm lý, xã hội, hành chính . . . thông qua cả khu vực
Nhà nước lẫn khu vực tư nhân. Theo báo Matichon, một tờ báo lớn có uy tín ở Thái
Lan, tiền gửi tiết kiệm dù chỉ là phần của thu nhập còn dư lại sau khi chi tiêu nhưng
có vai trò quan trọng trong hoạt động của bộ máy kinh tế ở cấp vĩ mô cũng như trong
ổn định kinh tế của các cá nhân, các tổ chức tư nhân. Tờ báo viết: ở cấp vĩ mô, nếu
ngành kinh tế nào không đủ tiền tiết kiệm cho đầu tư theo mong muốn của ngành
mình thì sẽ phải lệ thuộc vào đầu tư từ bên ngoài một cách triền miên. Do vậy, tiền
tiết kiệm trở thành vấn đề đặc biệt quan trọng đối với mọi nền kinh tế. Các nhà lãnh
đạo kinh tế cần phải xây dựng điều kiện và môi trường thu hút thích hợp để hạn chế
6
Đề tài: Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của khẩu hiệu “ Tiết kiệm là quốc sách”
việc xảy ra tình trạng quá nóng đồng thời đầu tư ở mức thích hợp với lượng tiền tiết
kiệm theo tốc độ tăng trưởng kinh tế hợp tình hợp lý.
Đối với việc gửi tiết kiệm từ khu vực tư nhân, hệ thống điều hành tốt của các tổ
chức, tức là mức độ minh bạch, công bằng trong làm việc ( người lãnh đạo không
tham nhũng của công ty và của các cổ đông ) cũng góp phần tạo ra tiền gửi tiết kiệm

( bao gồm cả phần dư của số lãi từ phân chia lợi nhuận mà cổ đông được hưởng ) một
cách có hiệu quả.
Đối với khu vực Nhà nước, tiền gửi tiết kiệm bao gồm phần thu nhập thực sự
còn lại sau khi chi tiêu sẽ xuất hiện khi công tác điều hành hoạt động tốt. Tiền NSNN
không bị biển thủ dẫn tới chi tiêu hợp lý vào các dự án đúng đắn. Nói tóm lại là phải
có tầm nhìn tài chính trong khu vực Nhà nước để tạo ra được số dư tiết kiệm.
Do vậy, cách hiểu coi tiền gửi tiết kiệm chỉ là vấn đề kinh tế có thể giải quyết
đơn thuần bằng biện pháp kinh tế như tỷ lệ lãi suất là cách hiểu sai. Phải huy động tất
cả các lĩnh vực tâm lý, xã hội, hành chính . . . thông qua khu vực Nhà nước, khu vực
tư nhân và nhân dân thì mới có thể giải quyết được vấn đề tiền gửi tiết kiệm ngắn hạn
cũng như dài hạn. Một ví dụ khác về việc không chỉ dùng biện pháp kinh tế mà phải
kết hợp nhiều lĩnh vực để giải quyết khó khăn là sự ủng hộ của các doanh nghiệp vừa
và nhỏ. Tờ báo viết: nhìn chung, người ta quan niệm rằng biện pháp tiền tệ là sự ủng
hộ quan trọng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nhưng thực ra tiền tệ mới chỉ là biện
pháp cần chứ chưa đủ. Tình trạng thiếu vốn của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Thái
Lan tuy đã được đáp ứng trong giai đoạn xảy ra khủng hoảng kinh tế nhưng còn có
những điều khác biến doanh nghiệp nhỏ trở thành mạch máu kinh tế. Đó là kinh
nghiệm và trình độ kinh doanh, bao gồm từ vạch kế hoạch, đánh giá tình hình và triển
vọng lưu thông tiền mặt, tính khả thi của kế hoạch, cho tới vấn đề tài chính, kế toán.
7
Đề tài: Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của khẩu hiệu “ Tiết kiệm là quốc sách”
- Chilê và Singapore: Hai quốc gia rất thành công trong vấn đề tiền gửi
tiết kiệm. Chilê sử dụng hệ thống tiết kiệm bắt buộc, đòi hỏi trích tiền thu nhập của
mọi cá nhân lao động để thành lập ngân quỹ. Biện pháp này đã trở thành kiểu mẫu
được áp dụng ở khắp thế giới. Singapore cũng áp dụng hình thức tương tự để tạo ngân
quỹ và đem đi đầu tư khắp thế giới. Điều này tạo ra ngân quỹ ổn định cho đời sống
nhân dân lúc đang làm việc cũng như khi về hưu.
Từ những nội dung nêu trên, việc hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ để làm
cơ sở sinh sống cho không ít người lao động cần phải bao gồm các biện pháp toàn
diện, chứ không đơn thuần hỗ trợ về tiền tệ. Nghĩa là, phải quan tâm đào tạo, hướng

dẫn về hoạch định kinh doanh, hệ thống kế toán, tài chính cho doanh nghiệp. Đặc biệt,
các nhà kinh doanh này phải thay đổi cách nhìn và tập quán để có khả năng tồn tại lâu
dài trong thế giới kinh doanh hiện đại. Đã qua rồi thời chộp giật lợi nhuận bằng cách
lừa gạt hoặc ép buộc người tiêu dùng, tổ chức lao động thiếu hiệu quả, quản lý kém
cỏi của mọi doanh nghiệp, dù ở quy mô nào. Nếu như các khó khăn kinh tế có thể giải
quyết thuần tuý bằng các biện pháp kinh tế thì khủng hoảng kinh tế của tất cả các
quốc gia trên thế giới đều đã dễ dàng được tháo gỡ và các nhà kinh tế học sẽ là thần
tượng của đông đảo công chúng. Nhưng trên thực tế, các kho khăn kinh tế đan xen từ
nhiều góc độ và mọi biện pháp giải quyết đều là liều thuốc đắng ở mức độ nhất định.
Tức là, sẽ phải có người mất việc làm, có người bị thiệt hại, mất mát địa vị trong
doanh nghiệp và nếu không giải quyết dứt điểm thì còn có thể kéo theo những phát
sinh nghiêm trọng khác.
8
Đề tài: Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của khẩu hiệu “ Tiết kiệm là quốc sách”
Chương 2
Thực trạng về vấn đề thực hành tiết kiệm ở Việt Nam trong
thời gian qua
2.1. Tiết kiệm trong khu vực Nhà nước
2.1.1. Tiết kiệm của NSNN
Như đã nói ở trên, vốn NSNN được huy động nhờ tiết kiệm chênh lệch giữa thu
và chi của ngân sách quốc gia. Tình hình hoạt động ngân sách có thể thấy rõ qua bảng
sau:
Tóm tắt hoạt động ngân sách, giai đoạn 1996 - 2003
Chỉ tiêu 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003
Thực tính ( tỷ đồng )
Tổng nguồn thu và viện trợ 21 30.7 42.1 53.4 62.4 66.3 68.6 69.5
9
Đề tài: Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của khẩu hiệu “ Tiết kiệm là quốc sách”
Thu từ thuế 5.5 11.4 16.8 23.4 28.1 28.1 32.1 33.9
Đóng góp của DNNN 11.9 15.3 20.6 21.9 25.9 27.6 27.3 27.3

Nguồn thu ngoài thuế khác 2.8 3 3.5 6.5 6.9 8 7.3 6.4
Viện trợ 0.8 1 1.2 1.6 1.5 2.6 1.9 1.9
Tổng chi 22.9 36.9 43.9 54.6 62.9 40.8 72.5 74.5
Chi thường xuyên 15.5 25.6 31.1 39.6 44.6 49.4 49.5 48.5
Chi đầu tư ( không kể cho vay lại ) 6.4 9.6 11.7 12.1 15.6 19.5 19.8 23
Trả lãi 1 1.7 1.1 2.9 2.7 1.9 2 2.5
Dự phòng 0 0 0 0 0 0 1.2 0.5
Cán cân chung ( cơ sở tiền mặt ) -1.9 -6.2 -1.8 -1.2 -0.5 -4.5 -3.9 -5
Tỷ lệ phần trăm trong GDP
Tổng nguồn thu và viện trợ 19 22.5 24.7 23.9 22.9 21.1 19 17.8
Thu từ thuế 5 8.3 9..9 10.5 10.3 9 8.9 8.7
Đóng góp của DNNN 10.8 11.2 12.1 9.8 9.5 8.8 7.5 7
Nguồn thu ngoài thuế khác 2.5 2.2 2.1 2.9 2.5 2.6 2 1.6
Viện trợ 0.8 0.7 0.7 0.7 0.6 0.8 0.5 0.5
Tổng chi 20.7 27.1 25.8 24.4 23.1 22.6 20.1 19.1
Chi thường xuyên 14 18.8 18.3 17.8 16.4 15.7 13.7 12.4
Chi đầu tư ( không kể cho vay lại ) 5.8 7 6.9 5.4 5.7 6.2 5.5 5.9
Trả lãi 1 1.3 0.6 1.3 1 0.6 0.6 0.6
Dự phòng 0 0 0 0 0 0 0.3 0.1
Cán cân chung ( sơ sở tiền mặt ) -1.7 -4.6 -1.1 -0.5 -0.2 -1.4 -1.1 -1.3
Ghi chú: GDP ( nghìn tỷ đồng ) 111 137 170 229 272 314 362 391
Nguồn: Ngân hàng Thế giới. Số liệu của Tổng cục Thống kê.
Qua bảng trên, có thể thấy tỷ trọng thu ngân sách đã giảm liên tục từ kể từ năm
1999. Mặc dù so với kế hoạch mà chính phủ đặt ra thì con số đạt được nêu trên gần
sát, nhưng việc đưa ra các con số kế hoạch thấp về mục tiêu thu ngân sách cũng kéo
theo sự sụt giảm tương ứng trong các khoản chi. Tuy vậy, chi cho đầu tư vẫn được
duy trì ở khoảng trên dưới 5.5% ngân sách hàng năm, trong đó tập trung chủ yếu vào
chi cho hạ tầng cơ sở trong nông nghiệp. Mức thâm hụt ngân sách vẫn dừng ở mức
tương đối ổn định, khoảng dưới 1.5% GDP.
10

Đề tài: Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của khẩu hiệu “ Tiết kiệm là quốc sách”
Tỷ trọng thu ngân sách giảm gần một phần tư so với năm 2000, theo đánh giá
của các chuyên gia Ngân hàng Thế giới, chủ yếu bắt nguồn từ sự giảm sút nguồn thu
từ thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế nhập khẩu. Thu thuế doanh nghiệp giảm là do
hoạt động kém hiệu quả của các DNNN, trong khi các DNTN tiếp tục gặp nhiều khó
khăn trong những năm kể từ năm 2001 trở lại đây. Còn doanh thu thuế nhập khẩu
giảm là do sự chuyển hướng cơ cấu nhập khẩu theo hướng hạn chế nhập hàng tiêu
dùng, đồng thời tỷ trọng nhập khẩu trong GDP cũng giảm dần trong những năm qua.
Điều này cho thấy, để giữ vững nguồn thu cho ngân sách thì việc cải cách hệ thống
thuế, nhất là thành công của thuế VAT sẽ đóng vai trò cực kỳ quan trọng.
Trong khi nguồn thu ngân sách giảm mạnh từ 23% GDP năm 2000 xuống dưới
mức 18% năm 2003, chính phủ đã theo đuổi một chính sách thận trọng, không cho
phép sự giảm sút nguồn thu ngân sách gây ra sự bất ổn định về ngân sách quốc gia,
mà đã có sự cắt giảm chi tiêu một cách tương ứng. Tuy nhiên, phần lớn sự cắt giảm là
các khoản chi cho dịch vụ kinh tế và chi hành chính. Còn chi đầu tư xây dựng cơ bản
vẫn được duy trì và có sự gia tăng chút ít.
Năm 2002 - 2003 cũng là giai đoạn chính phủ mở rộng hình thức đầu tư tín
dụng Nhà nước - một loại ưu đãi tài chính của chính phủ đối với các dự án đầu tư.
Mặc dù loại tài trợ này hoạt động trên nguyên tắc tự bù đắp nhưng ngân sách vẫn phải
trợ cấp phần chênh lệch giữa lãi suất huy động của tổ chức cho vay và lãi suất cho vay
ưu đãi mà các tổ chức này áp dụng theo địa chỉ mà Nhà nước hướng dẫn. Nếu những
năm trước 1998, tỷ trọng vốn đầu tư bằng hình thức tín dụng Nhà nước trong tổng
vốn đầu tư xã hội đều chỉ giữ ở mức khiêm tốn dưới 10% thì từ năm 1998 đến nay, tỷ
trọng này đã không ngừng tăng lên. Đến năm 2002, nguồn đầu tư này đã chiếm đến
hơn 15% tổng vốn đầu tư xã hội. Vì thế, việc tăng mạnh các loại hình cho vay này sẽ
áp đặt một gánh nặng đáng kể lên ngân sách trong những năm tiếp theo.
11
Đề tài: Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của khẩu hiệu “ Tiết kiệm là quốc sách”
Tóm lại, có thể nêu một số điểm chính như sau về thực trạng công tác huy động
và sử dụng vốn đầu tư qua NSNN:

- Vốn đầu tư từ NSNN đã và đang đóng một vai trò hết sức quan trọng trong
việc đầu tư vào các lĩnh vực mang lại hiệu quả kinh tế xã hội cao, nhưng
khả năng thu hồi vốn thấp khiến các nhà đầu tư tư nhân không thấy hấp
( như đầu tư vào cơ sở hạ tầng, xoá đói giảm nghèo ở nông thôn ). Trong
những năm qua đã có sự chuyển hướng mạnh về định hướng đầu tư công
cộng. Nhờ đó, đã có tác động tích cực đến việc điều chỉnh cơ cấu đầu tư nói
chung và cơ cấu kinh tế.
- Công tác thu chi ngân sách chưa thật vững chắc, khiến cho nguồn đầu tư từ
tiết kiệm ngân sách cũng chưa bền vững. Việc chống buôn lậu, chống thất
thu thuế cho Nhà nước cũng chưa có nhiều chuyển biến tích cực. Ngân sách
thường xuyên căng thẳng, vốn đầu tư quốc gia chưa được quản lý chặt chẽ,
vẫn còn nhiều sơ hở, gây thất thoát lãng phí.
2.1.2. Tích luỹ của các DNNN
Như đã nói ở trên, nguồn vốn đầu tư của các DNNN chủ yếu dựa vào phần lợi
nhuận để lại, bổ sung thêm vào nguồn vốn kinh doanh ( tái đầu tư ) của các doanh
nghiệp. Hiện nay, thành phần kinh tế Nhà nước vẫn giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh
tế. Số lượng các doanh nghiệp quốc doanh còn nhiều, tài sản của thành phần kinh tế
này vẫn chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng tài sản quốc gia. Hoạt động kinh doanh của
chúng vẫn nhận được nhiều sự ưu đãi của chính phủ về cấp phát vốn, cho vay ưu đãi,
ưu đãi về thuế . . . Đáng tiếc, hoạt động của các doanh nghiệp này lại rất kém hiệu
quả, do đó tiết kiệm của các doanh nghiệp này để bổ sung vào nguồn vốn đầu tư toàn
xã hội chưa tương xứng với tầm vóc của chúng.
12
Đề tài: Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của khẩu hiệu “ Tiết kiệm là quốc sách”
Tình hình tài chính của các DNNN yếu kém
Loại doanh nghiệp Yếu kém Không hiệu quả
Số lượng DNNN 711 1989
Số lao động ( nghìn người ) 183 583
Tổng nợ ( nghìn tỷ đồng ) 19.5 42.5
Nợ ngân hàng ( nghìn tỷ đồng ) 14 29

Vốn Nhà nước ( nghìn tỷ đồng ) 10.2 52.5
Lợi nhuận trước thuế ( nghìn tỷ đồng ) -0.25 5
Nguồn: Bộ Tài chính và Ban Đổi mới Quản lý Doanh nghiệp Trung ương
Từ bảng trên có thể thấy, các DNNN “ yếu kém nhất “ và “ hoạt động không có
hiệu quả “ được phân loại trên cơ sở tỷ suất lợi nhuận và nợ, lần lượt có mức nợ gần
20 nghìn tỷ và 43 nghìn tỷ đồng ( tương ứng với khoảng 1400 và 3000 triệu đôla ) vào
cuối năm 2001.
Sự kém cỏi trong hoạt động của các DNNN nói chung đã làm giảm sức mạnh
của nền kinh tế xét về ba khía cạnh. Thứ nhất, nó gây ra sự phân bổ sai, không hiệu
quả các nguồn lực vốn còn rất khan hiếm của xã hội. Nếu khu vực tư nhân nói chung
hoạt động hiệu quả hơn các DNNN thì việc nâng đỡ các DNNN này bằng ngân sách
quốc gia đã làm lãng phí nguồn lực xã hội mà đáng lẽ phải hướng sang phục vụ các
DNTN. Thứ hai, nếu các ngân hàng quốc doanh bị ép phải tiếp tục cho các DNNN
thua lỗ này vay thì sẽ làm tăng lượng vốn khê đọng, và nguy hiểm hơn có thể làm mất
khả năng chi trả của các ngân hàng. Thứ ba, những vấn đề nêu trên nếu không được
giải quyết triệt để thì sẽ ngày càng làm tăng thêm chi phí cho các cuộc cải cách ngân
hàng và DNNN. Theo ước tính, nếu không có các chính sách thích hợp, chi phí cho
việc cơ cấu lại hệ thống ngân hàng ( xoá các khoản nợ không có khả năng thanh toán
của các DNNN và tái cấp vốn cho các ngân hàng ) có thể sẽ tăng thêm hàng năm
1-2% GDP, trong khi mức dự kiến hiện nay đã vào khoảng 8 - 10% GDP.
13
Đề tài: Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của khẩu hiệu “ Tiết kiệm là quốc sách”
Như vậy, tình hình hoạt động bi quan của đa số các DNNN cho thấy không thể
dự kiến gì nhiều về nguồn vốn do các DNNN này tự đầu tư trong thời gian tới so với
những gì họ đã làm được trong những năm qua, nếu không muốn nói là tình hình còn
có thể xấu hơn nữa. Cải cách mạnh khu vực này theo hướng sắp xếp lại DNNN, xúc
tiến cổ phần hoá, kiên quyết sát nhập hoặc giải thể những doanh nghiệp làm ăn kém
hiệu quả là hướng đi cần thiết để nâng cao hiệu quả hoạt động của chúng, giảm gánh
nặng tài chính cho ngân sách quốc gia, đồng thời từng bước tạo điều kiện để các
doanh nghiệp có được tích luỹ thực sự từ lợi nhuận do kết quả sản xuất kinh doanh

hiệu quả của chính họ.
2.2. Tiết kiệm trong khu vực tư nhân
2.2.1. Tích luỹ của các DNTN
Tỷ trọng đóng góp của khu vực tư nhân trong GDP năm 2000 vào khoảng 51%,
trong đó riêng khu vực tư nhân trong nước ( không kể khu vực tư nhân nước ngoài ) là
41% ( xem bảng dưới ). Trong giai đoạn 1999 - 2002, tuy gặp nhiều trở ngại nhưng
khu vực tư nhân Việt Nam vẫn tăng trưởng 9% một năm, chỉ kém khu vực Nhà nước
có 1%.
Tỷ trọng của khu vực tư nhân trong GDP năm 2000 ( % )

Tổng GDP GDP của ngành chế tạo
Khu vực Nhà nước
Các doanh nghiệp Nhà nước 49 54
Khu vực tư nhân
Khu vực đầu tư nước ngoài 10 18
Khu vực đầu tư trong nước 41 28
trong đó: Các doanh nghiệp gia đình 34 18
14

×