TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG
Khóa bội dưỡng sau đại học
“Tiếp cận sinh thái học trong quản lý tài nguyên
thiên nhiên và phát triển bền vững”
BẢN THU HOẠCH NGHIÊN CỨU THỰC ĐỊA
KHU DỰ TRỮ SINH QUYỂN QUẦN ĐẢO CÁT BÀ,
TP. HẢI PHÒNG (12 -15/12/2009)
Họ tên học viên: Khương Hữu Thắng
Chuyên nghành đại học: Lâm Nghiệp tổng hợp
Đơn vị công tác: Vườn quốc gia Bù Gia Mập – Tỉnh Bình Phước
Điểm Nhận xét của người hướng dẫn thực địa – VÕ CHÍ CHUNG
A. Câu hỏi đề dẫn:
1. Trên cơ sở những bài giảng thuộc chuyên đề đã học, anh/ chị
TƯỜNG TRÌNH, NHẬN THỨC và NHẬN XÉT về các địa điểm đã được tiếp
cận, quan sát, nghiên cứu trong suốt quá trình nghiên cứu thực địa đã thực hiện
tại Khu dự trữ Sinh quyển Quần đảo Cát Bà.
2. Với những kiến thức cơ bản đã được học trong các chuyên đề nói
trên, hãy lựa chọn 2 địa điểm trong hành trình tiếp cận, khảo sát để bình luận
theo ý kiến riêng:
•Một số địa điểm thuộc loại hình HỢP LÝ, TÍCH CỰC
1
•Một số địa điểm thuộc loại hình KHÔNG THÍCH HỢP, TIÊU CỰC
B. Nội dung bản thu hoạch
I. TỔNG QUAN KHU VỰC NGHIÊN CỨU
Quần đảo Cát Bà nằm trên vịnh Hạ Long. Cát Bà là quần thể đảo lớn, nhỏ
gồm 367 đảo trong đó có đảo Cát Bà ở phía Nam vịnh Hạ Long. Cát Bà là một
khu bảo tồn có hai vị trí vừa núi, vừa biển thuộc 15 khu bảo tồn biển, Cát Bà
nằm ngoài khơi thành phố Hải Phòng và tỉnh Quảng Ninh, cách trung tâm thành
phố Hải Phòng khoảng 30 km, cách thành phố Hạ Long khoảng 25 km. Về mặt
hành chính, quần đảo thuộc huyện đảo Cát Hải, thành phố Hải Phòng.
Thành phố Hải Phòng nằm trong một vị trí chiến lược quan trọng về phát
triển kinh tế và quân sự. Thành phố Hải Phòng thuộc tam giác kinh tế phía Bắc
Việt Nam (Hải Phòng – Quảng Ninh – Hà Nội) và là hành lang thông thương
kinh tế quốc tế, trao đổi hàng hóa với các nước bạn, đặc biệt là nước Trung
Quốc((Hải Phòng – Quảng Ninh) Việt Nam và (Quảng Tây – Hải Nam) Trung
Quốc). Với điều kiện, thuận lợi về vị trí nên Hải Phòng có thể nói là thành phố
có tiềm năng lớn trong phát triển kinh tế, đặc biệt là xây dựng và phát triển du
lịch.
1. Vị trí địa lý – điều kiện dân sinh:
Quần đảo Cát Bà nằm trên tọa độ 106°52′- 107°07′Đông, 20°42′- 20°54′độ
vĩ Bắc. Diện tích khoảng gần 300 km². Dân số khoảng 10.400 người. Cát Bà
gồm các đảo nhỏ khác: hòn Cát Ông, hòn Cát Đuối, hòn Mây, hòn Quai Xanh,
hòn Tai Kéo, Đảo khỉ, Đảo cát rứa,
2. Lịch sử hình thành:
Tên gọi Cát Bà được hình thành theo cách gọi lái từ Các Bà sang Cát Bà.
Tương truyền xưa kia tên đảo là Các Bà, là hậu phương cho Các Ông theo
Thánh Gióng đánh giặc Ân. Ở thị trấn Cát Bà hiện nay có đền Các Bà. Các bản
đồ hành chính thời Pháp thuộc (như bản đồ năm 1938) còn ghi là Các Bà. Như
vậy có lẽ tên gọi Các Bà đã bị đọc trệch thành Cát Bà.
Trước đây đảo Cát Bà thuộc huyện Cát Bà, năm 1977 mới sáp nhập với
huyện Cát Hải thành huyện Cát Hải mới. Trước đây đảo thuộc tỉnh Quảng Yên,
sau thuộc khu Hồng Quảng, đến năm 1956 mới chuyển về thành phố Hải Phòng.
3. Khí hậu – thủy văn
Khí hậu
2
Nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa chịu ảnh hưởng của đại dương nên
các chỉ số trung bình về nhiệt độ, độ ẩm, lượng mưa cũng tương đương như các
khu vực xung quanh, tuy nhiên có đặc điểm là mùa đông thì ít lạnh hơn và mùa
hè thì ít nóng hơn so với đất liền. Nhìn chung Cát Bà là nơi có khi hậu ôn hòa,
thuận lợi cho các hoạt động phát triển kinh tế như: Du lịch; Nuôi trồng thủy hải
sản; Nông nghiệp;…
Thủy Văn
- Địa hình nằm trên hệ thống núi đá vôi (Đảo Karst), có độ cao trung bình
120 m so với mặt nước biển, độ dốc lớn, hệ thống khe, suối nhỏ và nhiều phân
bố rải rác. Đảo Cát Bà với bốn bề giáp biển.
- Chế độ thủy triều ở đây là chế độ “Nhật triều”. Dao động của thủy triều:
3,3 - 3,9 mét.
- Độ mặn nước biển: Từ 0,930% (mùa mưa) đến 3,111% (mùa khô)
4. Tài nguyên thiên nhiên:
Cát Bà là một VQG đặc biệt, với sự kết hợp của nhiều hệ sinh thái (HST)
khác nhau: HST rừng thường xanh trên núi đá vôi, HST rừng ngập nước trên núi
cao (Ao Ếch), HST rừng ngập mặn vùng duyên hải, HST vùng biển với các rạn
san hô gần bờ, hệ thống hang động với đặc trưng riêng biệt là nơi cư trú của họ
nhà Dơi và Hệ canh tác nằm giữa các thung lũng như ở Khe Sâu hoặc các khu
dân cư. Trong đó, lớn nhất là hệ sinh thái rừng trên núi đá vôi (khoảng 9800 ha)
với thảm thực vật thuộc kiểu rừng nhiệt đới thường xanh và các loại rừng như
rừng núi thấp và ven thung lũng, rừng trên núi đá dốc, rừng trên đỉnh núi cao,
rừng ngập nước nội địa (Ao Ếch).
Sự đa dạng của các kiểu rừng đã hình thành nên sự phong phú của khu hệ
động, thực vật Cát Bà. Trong số 745 loài thực vật ở đây có tới 350 loài có khả
năng sử dụng làm thuốc chữa bệnh Và nhiều loài nằm trong danh mục quý hiếm,
cần bảo vệ như: kim giao (Podocarpus fleurii), chò đãi (Annamocarya sinensis),
lát hoa (Chukrasia tabularis A.Fuss), lim xẹt (Pelthophorum tonkinensis)… Hệ
động vật đa dạng với 282 loài, bao gồm 20 loài thú, 69 loài chim, 20 loài bò sát
là lưỡng cư, 11 loài ếch nhái. Động vật phù du có khoảng 98 loài, cá biển 196
loài, san hô 177 loài Đặc biệt, đây là nơi cư trú duy nhất trên thế giới của loài
voọc đầu trắng (Trachypithecus poliocephalus) - một trong 5 loài linh trưởng của
Việt Nam có tên trong 25 loài trên thế giới đứng trước nguy cơ tuyệt chủng
Cùng với rừng trên núi đá vôi, rừng ngập mặn là một tài nguyên quý giá tại đảo
Cát Bà. Rừng ngập mặn phân bố chủ yếu tại phía Tây Bắc đảo, với bãi sú vẹt tự
nhiên lớn nhất Hải Phòng. Các loài cây phổ biến nơi đây: đước xanh
3
(Rhizophora mucronata), vẹt dù (Bruguiera gymnorrhiza)… Độ cao của thảm
thực vật ngập mặn từ 2 - 3 m, mật độ lớn và sức sống tốt. Rừng ngập mặn là nơi
cư trú tốt của các loài động vật thủy sinh như: cá, tôm, các loài nhuyễn thể động
vật hai mảnh như: trai, ốc, vẹm ; động vật chân đốt… Đặc biệt, đây còn là nơi
ở của các loài chim nước, chim di cư từ phía Bắc như: sâm cầm (Centropus
sinensis Stephen), cốc đế (Phalacrocorax carbo), cuốc (Macropygia unchall), vịt
trời (Anas poecilorhyncha haringtoni)…Hiện nay, diện tích rừng ngập mặn ở
Cát Bà đang tiếp tục bị suy giảm do sự xâm lấn của dân cư địa phương để làm
đầm nuôi tôm, cua. Rừng bị chặt phá, đốt hoặc bị chết do môi trường sống bị
thay đổi từ việc xây bờ ngăn đầm. Để bảo vệ vùng rừng ngập mặn quan trọng
này, trước hết cần phải ngăn chặn nạn phá rừng, đẩy mạnh các chương trình
trồng rừng mới, và hướng dẫn người dân áp dụng các mô hình xen canh nuôi tôm
trong rừng ngập mặn, vừa phát triển kinh tế vừa bảo vệ môi trường bền vững.
Đa dạng sinh học
Vùng biển Cát Bà chứa đựng nguồn tài nguyên đa dạng sinh học phong
phú. Kết quả điều tra cho thấy có 186 loài thực vật phù du, 43 loài rong biển, 147
loài san hô (tập trung ở vùng Vạn Bội, Vạn Hà, Cát Dứa, Đầu Bê, Hang Trai,
Hòn Mây, độ sâu từ 3 - 7 m), 44 loài giun nhiều tơ, 120 loài nhuyễn thể (động
vật thân mềm) như mực, sứa, trai, ốc, vẹm 195 loài cá đang sinh sống ở biển
Cát Bà, trong đó có nhiều loài mang giá trị kinh tế cao: cá ngừ (Thunnus
thynnus), cá mặt trăng (Mola mola), cá hồng (Lutjanus erythropterus ) cá chình
(Anguilla spp ) Với đa dạng sinh học cao, quần đảo Cát Bà đã được UNESCO
chính thức công nhận là Khu dự trữ sinh quyển thế giới trong kỳ họp của Hội
đồng quốc tế về phối hợp chương trình con người và sinh quyển tổ chức tại
Paris, ngày 29/10/2004. Việc quần đảo Cát Bà được UNESCO công nhận là khu
dự trữ sinh quyển là một động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế, du lịch, thúc
đẩy ngành nuôi trồng, đánh bắt thuỷ hải sản và nghiên cứu khoa học. Vườn quốc
gia Cát Bà với điều kiện tự nhiên rất đa dạng về địa hình (biển, núi đá) nên tài
nguyên ở đây có thể nói là đang dạng vào bậc nhất ở Việt Nam hiện nay
5. Du lịch:
Cát Bà, còn gọi là Đảo Ngọc, là hòn đảo lớn nhất trên tổng số 1.969 đảo
trên vịnh Hạ Long. Cát Bà là một hòn đảo đẹp và thơ mộng, nằm ở độ cao trung
bình 70 m so với mực nước biển (dao động trong khoảng 0-331 m). Trên đảo này
có thị trấn Cát Bà ở phía đông nam (trông ra vịnh Lan Hạ) và 6 xã: Gia Luận,
Hiền Hào, Phù Long, Trân Châu, Việt Hải, Xuân Đám. Cư dân chủ yếu là người
Kinh.
4
Trên đảo chính Cát Bà có rừng nguyên sinh trên núi đá vôi là một nơi đang
được đẩy mạnh phát triển du lịch sinh thái. Phía Đông Nam của đảo có vịnh Lan
Hạ, phía Tây Nam có vịnh Cát Gia có một số bãi cát nhỏ nhưng sạch và đang
được xây dựng thành các bãi tắm rất đẹp như: Bãi Cát Cò 1; Cát Cò 2;…, sóng
biển ở đây không lớn, là nơi tắm biển, nghỉ dưỡng rất thú vị và bổ ích. Trên biển
xuất hiện nhiều núi đá vôi đẹp tương tự vịnh Hạ Long và Bái Tử Long, có cảnh
quan đẹp và hoang sơ… đây là nơi có thể phục vụ cho du khách tham quan,
khám phí những điều bí ẩn của tự nhiên. Trong đó quần đảo Cát Bà có nhiều
hang đá chưa được thám hiểm ra…
Đặc biệt với đặc điểm hình thành dân cư ở đây lâu đời, có nhiều nét văn hóa
đặc trưng riêng của khu vực như: Làng Liên Minh (nuôi gà rất ngon); Cam ở xã
Gia Luận; Các làng chài chăn nuôi và khai thác thủy hải sản;… Lễ hội của người
dân Cát Bà giống như lễ hội của những người Kinh ở khu vực khác, tuy nhiên có
thêm ngày 1 tháng 4 dương lịch là lễ hội khai trương mùa du lịch. Ngày này
củng là ngày kỷ niệm ngày Bác Hồ về thăm nhân dân huyện đảo Cát Hải.
Có thể đến Cát Bà bằng hai loại phương tiện giao thông: tàu thủy hoặc bằng
đường bộ qua hai phà là phà Bính (Hải Phòng-đảo Cát Hải) và phà Đình Vũ (đảo
Cát Hải-đảo Cát Bà).
6. Khu dự trữ sinh quyển:
Khu dự trữ sinh quyển Quần đảo Cát Bà được UNESCO công nhận là khu
dự trữ sinh quyển thế giới ngày 19 tháng
12 năm 2004. Ngày 1 tháng 4 năm 2005
tại đây đã diễn ra lễ đón nhận bằng
quyết định của UNESCO và kỷ niệm sự
kiện này. Việt Nam hiện có các khu dự
trữ sinh quyển thế giới được UNESCO
công nhận là: Cần Giờ, Cát Tiên, Châu
Thổ Sông Hồng, Ramsar Xuân Thủy,…
Quần đảo Cát Bà có rừng mưa
nhiệt đới trên đảo đá vôi, rừng ngập
mặn, các rặng san hô, thảm rong - cỏ biển, hệ thống hang động, tùng, áng, là nơi
hội tụ đầy đủ các giá trị bảo tồn đa dạng sinh học, bảo đảm các yêu cầu của khu
dự trữ sinh quyển thế giới theo quy định của UNESCO.
Tổng diện tích khu dự trữ sinh quyển Cát Bà rộng hơn 26.000 ha, với 2
vùng lõi (bảo tồn nghiêm ngặt và không có tác động của con người), 2 vùng đệm
(cho phép phát triển kinh tế hạn chế song kết hợp với bảo tồn) và 2 vùng chuyển
tiếp (phát triển kinh tế). Khu dự trữ sinh quyển Cát Bà là vùng hội tụ đầy đủ cả
5
rừng mưa nhiệt đới trên đảo đá vôi, rừng ngập mặn, các rạn san hô, thảm rong và
đặc biệt là hệ thống hang động.
Cơ cấu tổ chức quản lý: Khu dữ trữ sinh quyển Cát Bà có ban quản lý riêng
với Vườn quốc gia Cát Bà. Trong đó giám đốc ban quản lý là phó chủ tịch thành
phố Hải Phòng và Vườn quốc gia Cát Bà là thành viên.
“Nguồn trích dẫn: Báo cáo kinh tế - kỷ thuật Vườn quốc gia Cát Bà năm
2008”
I. THỰC ĐỊA TẠI KHU DTSQ QUẦN ĐẢO CÁT BÀ, HẢI PHÒNG
1. Tuyến Phù Long – VQG Cát Bà – TT Cát Bà:
• Quan sát và cảm nhận tại xã Phù Long:
Xã Phù Long có một mặt tiếp giáp với biển và hai mặt tiếp giáp với xã Hiền
Hào và xã Gia Luận. Qua quan sát thấy cảnh quan sinh thái ở đây khá phong phú
như: Hệ sinh thái rừng trên núi đá vôi; Hệ sinh thái rừng ngập mặn ven biển; hệ
sinh thái bãi triều; Hệ thống đầm nuôi thuỷ sản nước ngọt và nước lợ; Hệ sinh
thái vườn nhà…Song hệ sinh thái rừng ngập mặn ở đây hầu như chưa được chú
trọng xây dựng và phát triển, rừng ngập mặn nghèo nàng về trữ lượng củng như
số lượng loài.
Phù Long là xã thuộc vùng đệm của VQG Cát Bà cũng như Khu DTSQ Cát
Bà, là vùng chuyển tiếp giữa biển và đảo với hệ sinh thái rừng ngập mặn nhạy
cảm. Bên cạnh đó, Phù Long là một trong hai của ngõ chính từ Hải Phòng ra với
đảo Cát Bà.
Chính vì vậy việc quy hoạch và phát triển của Phù Long phải luôn được gắn
liền với định hướng quy hoạch chung của Khu DTSQ và cần được sự phối hợp
quan tâm của nhiều ngành như Nông –Lâm - Thuỷ sản và dịch vụ du lịch cũng
như các cấp chính quyền để quá trình phát triển của Phù Long phải gắn liền với
việc bảo tồn các hệ sinh thái tự nhiên, đặc biệt là việc bảo tồn rừng ngập mặn
trên tinh thần chủ động - tự giác của chính cộng đồng nơi đây.
• Quan sát và cảm nhận tại thị trấn Cát Bà:
Thị trấn là trung tâm của du lịch Cát Bà. Ta thấy ngay một không gian đảo
biển với cảnh quan tấp nập của tàu thuyền, trong đó có những bãi tắm đẹp với
màu xanh của biển, màu xanh của rừng. Đồng thời với những công trình xây
dựng phục vụ du khách như: khách sạn, trung tâm vui trơi, công viên…khá là
khang trang và sạch đẹp.
Gần TT Cát Bà có 3 bãi biển sạch và rất đẹp (Cát Cò 1; 2 và 3), 2 cảnh du
lịch (bến tầu Cát Bà và Bến Bèo) và một cảng cá được bố trí hài hoà dọc bờ biển,
rất thuận tiện cho việc phát triển du lịch biển.
6
2. Tuyến VQG Cát Bà – Việt Hải – Vịnh Lan Hạ - TT nghiên cứu viện
Khoa học Thuỷ sản :
• Quan sát và cảm nhận tại VQG Cát Bà:
VQG Cát Bà được thành lập vào năm 1986 và hiện nay là một trong 2 vùng
lõi của khu DTSQ quần đảo Cát Bà.
Là mẫu điển hình cho hệ sinh thái rừng thường xanh trên nền địa chất đảo
karst (đảo đá) với đa dạng sinh học rất phong phú.
7
Hệ sinh thái rừng trên đảo Cát Bà (ảnh sưu tầm)
Có những hệ sinh thái đặc thù như rừng mưa nhiệt đới, hệ sinh thái đất ngập
nước trên núi đá vôi với nhiều loái sinh vật đặc hữu như Voọc Đầu Vàng, cây Và
nước (họ Liễu) đây là những loài đặc hữu của Cát Bà.
HST đất ngập nước
“Cây Và nước”
Rừng thường xanh trên núi
đá vôi
Voọc Cát Bà
VQG Cát Bà được đầu tư xây dựng gần 50% đường nội bộ là bê tông hóa,
thuận tiện cho công tác tuần tra, bảo vệ rừng và là tuyến cho khách tham quan rất
thuận tiện.
Chiến lược bảo tồn và phát triển đã được VQG Cát Bà. Ngoài công tác bảo
tồn đa dạng sinh học , VQG Cát Bà đang xây dựng và phát triển các mô hình du
lịch sinh thái, được khách trong và ngoài nước biết tới. Nhưng song song với
những kết quả đã đạt thì nhìn lại ta thấy nhiều mâu thuận trong công tác quản lý
ví dụ việc quản lý và xây dựng các tuor xuyên qua vùng lõi làm ảnh hưởng đến
sự đa dạng sinh học (tiếng ồn; rác thải…).
Như vây việc bảo tồn và phát triển tại VQG Cát bà vẫn còn là nhiệm vụ
trách nhiệm vô cùng khó khăn của cán bộ lãnh đạo Vườn, lãnh đạo các cấp chính
8
quyền và người sống trong khu vực vườn mà giờ đây Quần đảo Cát Bà đã được
công nhận là khu dự trữ sinh quyển và được lựa chọn làm mô hình “Phòng học
tập thí nghiệm” của khu vực Châu Á Thái Bình Dương.
• Quan sát và cảm nhận tại xã Việt hải:
Việt Hải là một xã nằm trong
lõi của VQG cuộc sống của
nhân dân trước đây gắn liền
với kinh tế nông – lâm – ngư
nghiệp. Nhưng trong những
năm gần đây hầu như không
còn nhiều hộ dân sống bằng
nghề củ mà chủ yếu đầu tư
xây dựng những mô hình kinh
tế du lịch sinh thái và dịch vụ
du lịch. Các loài cây trồng ngắn ngày ở đây là các loài rau cung cấp cho khách,
còn các loài cây ăn quả chủ yếu trồng lấy không gian và bóng mát.
Với đặc thù nằm trong vùng lõi của VQG, có điều kiện thuận lợi cho việc
xây dựng và phát triển các mô hình du lịch sinh thái. Song nó chứa đựng đựng
một tiềm ẩn gây hại đối với tài nguyên thiên nhiên khu vực, như những tác động
quá mức của khách, các nguồn chất thải từ khu dịch vụ… Vậy nên để phát triển
được một cách bền vững thì công tác quản lý và quy hoạch phải được thực hiện
một cách nghiêm túc, không yêu tin cho riêng bên nào (kinh tế - môi trường).
Đặc biệt đối với người dân sinh sống trong khu vực này, phải tuyên truyền, giáo
dục cho người dân ở đây hiểu rõ được vai trò và chức năng của tài nguyên thiên
nhiên và những biện pháp tránh những gây hại cho môi trường.
• Quan sát và cảnh nhận trên vịnh Lan Hạ:
Vịnh Lan Hạ là một bộ phận quan
trọng của khu DTSQ quần đảo Cát Bà với
quần thể núi đá vôi phong phú và đa dạng,
xen ở đó là những bãi cát nhỏ và những
cụm dân cư làm nghề nuôi trồng và đánh
bắt hải sản sống trên biển. Ngoài ra trong
quần thể vịnh còn có nhiều giá trị về địa
chất đang được các nhà khoa học nghiên
cứu.
9
Với chức năng là một khu bảo tồn biển và là vùng lõi của khu DTSQ thì
việc bảo tồn các giá trị tự nhiên của Lan Hạ mà không tách khỏi quá trình phát
triển chung đang được định hương và tại đây thì yếu tố con người được chú ý
quan tâm hàng đầu cùng với việc phát triển các sản phẩm gắn liền với thương
hiệu của khu Sinh quyển. Mặt khác công tác bảo vệ tổng hợp với sự gắn kết của
các cơ quan thi hành pháp luật và người dân.
Quan điểm và biện pháp bảo tồn và phát triển ở đây là bài học thực tiễn rất
bổ ích trong công tác bảo tồn.
• Quan sát và cảnh nhận tại Trạm NC hải sản:
Trạm thuộc Viện NC hải sản
với khoảng 10 cán bộ nghiên cứu, 30
lồng nuôi trồng và một tàu nghiên
cứu khoa học.
Trạm là nơi nghiên cứu, phát
triển và cung cấp những nguồn giống
hải sản có giá trị kinh tế cũng như
giá trị về đa dạng sinh học của đảo
3. Tuyến VQG Cát Bà – Gia Luận - Hiền Hào - Xuân Đám - TT Khoa
học Thuỷ sản - KĐT Cái Giá:
• Quan sát và cảm nhận tại xã Gia Luận:
Về vị trí địa lý: Có phía Bắc giáp biển, một mặt giáp Phù Long và Hiền Hào
và một mạt giáp với xã Trân Châu.
Trên đường từ VQG đến bến cảng Gia Luận
Tại đây có những mô hình nông lâm kết hợp chải dài và hầu như xuyên suốt
xã và một cảng đón khách du lịch đến từ Quảng Ninh.
Qua tìm hiểu sơ bộ việc khai thác và sử dụng tài nguyên thiên nhiên trong
phát triển kinh tế xã hội nhận thấy: Việc khai thác và sử tài nguyên đất của xã
bằng việc phát triển các mô hình nông lâm kết hợp khá hợp lý và và phù hợp với
thiên nhiên.
Về cảng du lịch được xây dựng tạo được nhiều thuận lợi cho việc đi lại của
khác du lịch đến với Cát Bà nhưng quy mô và phương pháp quản lý cảng cần
phải được cân nhắc kỹ đặc biệt phải gắn kết được với người dân địa phương sẽ
tạo dựng được sự phát triển bền vững không những tại địa bàn xã mà sẽ góp
phần đáng kề cho sự phát triển bền vững của cả khu DTSQ.
10
• Quan sát và cảm nhận tại xã Hiền Hào:
Hiền Hào cũng như các xã vùng đệm khác có một ý nghĩa vô cùng quan
trọng của khu DTSQ nó không những là nơi giam thiểu tác động tới vùng lõi mà
góp thêm phần phong phú cho các vùng lõi, với các loài cây trồng xen canh giưa
cây ăn quả (Vải thiều) và các loài cây nông nghiệp dưới tán.
Đề đáp ứng nhu cầu phát triển hiện tại việc các hệ sinh thái tự nhiên cũng
như những mô hình kinh tế sinh thái hiện có sẽ phải gánh chịu nhiều sức ép như
việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất, chuyển đổi cơ cấu cây trồng sẽ là nguy cơ
dẫn đến sự mất cân bằng sinh thái. Nên việc duy trì cơ cấu cây trồng cũng như
các hệ sinh thái tự nhiên khác là rất cần thiết đối với xã Hiền Hào.
• Quan sát và cảm nhận tại xã Xuân Đám:
Là địa bàn có dân cư sinh sống đầu tiên trên đảo Cát bà, là vùng đệm của
khu DTSQ với định hướng phát triển thành khu đô thị sinh thái và là khu công
nghiệp chế biến thuỷ sản đáp ứng phát triển nghề cá của đảo.
Xuân Đám đang trong quá trình chuyển đổi từ kinh tế nông nghiệp truyền
thống sang phát triển công nghiệp, dịch vụ và nông nghiệp sạch.
Mô hình dịch vụ và Nông nghiệp sạch, xã Xuân Đám
Việc chuyển cơ cấu kinh tế tại Xuân Đám là động thái quan trong quá trình
phát triển nhưng trong giai đoạn chuyển tiếp hiện nay cần có biện pháp chuyển
bị để có thể thích ứng với những biến đổi trong tương lai - vấn đề này cũng đước
phó chủ tịch xã khẳng định.
• Quan sát và cảm nhận tại TT Khoa học Thuỷ Sản Miền Bắc:
11
Trung tâm đang được hoàn thiên với sự hỗ trợ kỹ thuật của các nhà chuyên
môn Đài Loan. Khi hoàn thành đây sẽ là một trung tâm lớn của Miền Bắc trong
công tác nghiên cứu và phát triển nghề cá đặc biệt đối với vịnh Bắc Bộ.
Trung tâm Khoa hoc Thuỷ Sản Miền Bắc
Trung tâm khi đi vào hoạt động cũng sẽ góp phần đáng kể trong công tác
bảo tồn đa dạng sinh học cho quần đảo Cát Bà và cũng góp phần quan trong
trong chiến lược phát triển nghề cá của Khu DTSQ này.
• Quan sát và cảm nhận tại khu ĐTM Cái Giá:
Khu đô thi sinh thái Cai Giá đang trong giai đoạn san lấp mặt bằng trên bền
một bãi triều thuộc xã Xuân Đám. Theo thiết kế đây sẽ là một khu đô thi với các
dịch vụ tổng hợp của một khu đô thị hiên đại.
Quy hoạch Khu du lịch Cái Giá
12
Trong bức tranh tổng thể của khu DTSQ thì Cái gia thuộc vùng chuyển tiếp
nên việc khu đô thi sẽ tác động ít nhất tới khu DTSQ. Khi khu đô thi hoàn thành
sẽ góp thêm một nét mới cho quần đảo.
Việc phát triển khu ĐTM Cái Giá cần chú ý các vấn đề ô nhiễm. Nếu các
vấn đề ô nhiễm đô thi không có được biện pháp cũng như sự quan tâm đúng mức
sẽ gây ra những hậu quả khôn lường.
II. THỰC TẾ TIẾP CẬN SINH THÁI HỌC TRONG QL TNTN & PTBV
• Để được công nhận là Khu DTSQ Thế giới và trở thành một mô hình phát
triển bền vững đại diện cho cả khu vực Châu Á Thái Bình Dương, tại Quần đảo
Cát Bà đã có những phương pháp tiếp cận phù hợp với thiên nhiên để gìn giữ lại
những giá trị mang tầm khu vực và quốc tế.
• Ví dụ điển hình hợp lý trong công tác khai thác & quản lý TNTN:
- Tai xã Xuân Đám có thể nhận thấy một mô hình tổng hợp bền vững trong
việc khai thác và sử dụng hợp lý TNTN thông qua việc phân tích lát cát từ ven
biển lên rừng:
Vấn
đề
Loại
hình
Ven biển Vùng
chuyển tiếp
Đồng
ruộng
Vườn đồi Rừng
Hiện
trạng
- Rừng
ngập mặn
luôn được
duy trì ổn
định.
- Nước ngọt
chiếm ưu
thế.
- Phát triển
những ao
nuôi thuỷ
sản
- Canh tác
lúa nước 2
vụ
- Canh các
loại rau
theo hướng
nông
nghiệp hữu
cơ.
- Trồng các
loại cây ăn
quả.
- Xen canh
các cây
nông
nghiệp
ngắn ngày.
- Rừng tái
sinh tự hiên
được bảo
vệ thông
qua hộ gia
đình.
- Rừng
trồng
(thông)
Phân
tích /nhận
xét
- Giữ cân
bằng sinh
thái tạo
cảnh quan.
- Ngăn sâm
nhập măn
- Mang lại
thu nhập
cao cho
người dân
- Đảm bảo
an ninh
lương thực
cho địa
phương.
- Đáp ứng
- Bổ sung
sinh dương
cho gia
đình
- Nâng cao
thu nhập.
- Duy trì
nguồn
nước, bảo
vệ đất và
tạo cảnh
quan
13
xói lở vùng
bờ
- Tạo thêm
sinh kế và
đa dạng
sinh học
nhu cầu
thiết yếu
của thi
trường và
tăng thu
nhập cho
gia đình
- Tạo cảnh
quan sinh
thái
- Làm cơ sở
phát triển
các lâm sản
ngoài gỗ
mang lại
giá trị kinh
tế cao.
- Góp thêm
thu nhập
cho hộ gia
đình
Trên nền tảng đó hiện nay Xuân Đám đang có những hướng đi mới phù hợp
và đáp ứng nhu cầu phat triển như: Du lịch sinh thái; Tăng diện tích và sản lượng
rau sạch; Phát triển đàn ong lấy mật…
• Ví dụ điển hình không hợp lý trong công tác khai thác&quản lý TNTN:
- Tại thị trấn Cát Bà có thể nhận thấy ngay sự phát triển vượt bậc nhưng lại
ẩn chứa những điều không hợp lý trong công tác khai thác và quản lý TNTN:
+ Các bãi biển sạch với cảnh quan đẹp nhưng nhỏ và việc phát triển các
dịch vụ đồ sộ đã làm một đi sự cân đối tự nhiên của các khu vực này.
+ Việc sẻ núi mở những con đường tới các bãi biển bày đã phá vỡ nghiêm
trọng cảnh quan tự nhiên không nhưng thế gay ra những phản cảm cho con
người.
+ Mật độ khách quá lớn tập trung đã vượt quá ngưỡng chịu tải của các bãi
biển(đặc biệt ở Cát cò 1).
III. KẾT LUẬN:
• Khu DTSQ quần đảo Cát Bà với chiến lược phát triển bền vững đã được
quy hoạch phân vùng chức năng chi tiết khi hoàn thành sẽ trở thành một mô mẫu
bền vững cho tương lai và có tầm ảnh hưởng rộng lớn.
• Trong quá trình quy hoạch và xây dựng tại Cát Bà cần song song quan tâm
chú ý tới những sư thay đổi ở mức độ vi mô như cảnh du lịch ở Gia luận, các vấn
phát triển du lịch ở thi trấn Các Bà đồng thời phát hiện và phát huy các vốn sẵn
có của cộng đồng, tri thức bản địa…Nêu không chú ý thì có thể khi Khu dự trữ
sinh quyển sẽ chỉ như một ngôi nhà trống.
14