Tải bản đầy đủ (.pdf) (28 trang)

Giả thuyết về quá trình lão hóa pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (131.69 KB, 28 trang )



Giả thuyết về
quá trình lão hóa




Nguyên nhân gây lão hóa được giải
thích bằng nhiều thuyết khác nhau:
thuyết di truyền, thuyết gốc tự do,
Ngoài ra, hiện tượng lão hóa có liên
quan đến đột biến gen còn gây hội
chứng già trước tuổi hay liên quan
đến tuổi thọ con người. Quá trình
lão hóa diễn ra ở mọi cơ quan trong
cơ thể và gây ra những hậu quả rất
nghiêm trọng. Tuy nhiên nếu thực
hiện tích cực một số biện pháp,
chúng ta có thể trì hoãn quá trình
lão hóa. Tại các nước tiên tiến
như Nhật Bản, các kiến thức về sự
lão hóa được phổ biến rộng rãi cho
người dân và các biện pháp này đã
giúp cho tuổi thọ của người Nhật
kéo dài đến 86 tuổi. Ở Hàn Quốc,
các dược thảo chống lão hóa như
nhân sâm, dinh dưỡng, thuốc bổ
dưỡng, thể dục, các yếu tố gây ra
lão hóa được phổ cập cho người
dân và đã giúp kéo dài tuổi thọ đến


78,5 tuổi. Các danh nhân Hy
Lạp có các nhân tố di truyền tốt hầu
hết đều có tuổi thọ rất
cao, Pythagoras sống gần 80
tuổi, Sophocles thọ gần 90 tuổi.
Triết gia nổi tiếng như Gorgias107
tuổi, Democritus 90 tuổi, Platon 80
tuổi, Diogenes thành Sinope 89
tuổi, Cleanthes 99 tuổi.
Ở Việt Nam, lão hóa là một trong
những vấn đề đang rất được quan
tâm, tuy nhiên tài liệu và thông tin
về lão hóa còn rất giới hạn.
Thuyết di truyền
Thuyết di truyền có lẽ là thuyết
khoa học nhất. Theo thuyết này thì
con người có sẵn trong các tế bào
của mình một chương trình – mang
trong các “gen”. Các gen hoạt động
theo thứ tự, bất di bất dịch: sinh,
lão, bệnh, tử.
Các tế bào soma của người bình
thường đều có một đời sống có giới
hạn. Thông thường tế bào chết đi
sau 40-60 chu kì sao chép. Thời
gian sống của mỗi tế bào được
quyết định về di truyền họcbởi hai
hệ thống độc lập với nhau.
1.Hệ thống kiểm soát đời sống tế
bào nhờ quà trình làm hao mòn các

telomere ở các đầu tận cùng nhiễm
sắc thể:
Ở động vật có vú, các đầu
tận nhiễm sắc thể được bảo vệ bằng
các telomere (theo tiếng Hy Lạp,
telo có nghĩa là cuối, còn mere là
phần), tức là những cấu trúc đặc
biệt được hình thành bởi các chuỗi
TTAGGG lặp lại kế tiếp nhau. Ở
người các chuỗi lặp lại của
telomere có từ 5000 đến 15000
base. Telomere có nhiệm vụ bảo
đảm sự bền vững của nhiễm sắc
thể, chống lại thoái hóa có hại,
chống lại sự tái tổ hợp sai lạc và có
vai trò điều hòa gen.
Mỗi lần phân chia, các nhiễm sắc
thể đều mất một số lượng nhỏ ADN
của telomere, khoảng chừng 50-100
base. Khi các telomere trở nên quá
ngắn thì các nhiễm sắc thể sẽ kém
bền vững, chúng không thể bám
vào được màng nhân tế bào, bị dính
vào nhau và có hình dạng kì dị.
Hậu quả là các tế bào không thể
phân chia được nữa. Các nhà
nghiên cứu đang bắt đầu đánh giá
kích thước của telomere như một “
thước đo” chuẩn xác tuổi thọ của
các tế bào. Tuy nhiên enzym

telomerase hoạt động ở tế bào
mầm và tế bào ung thư, giúp cho tế
bào phân chia liên tục bằng cách
kéo dài các chuỗi ADN của
telomere, khiến cho tế bào trở nên
“bất tử”.
Cấu tạo của telomerase: telomerase
của người gồm 2 tiểu đơn vị
là hTR và hTERT. hTR (human
template for replication)
là ARN làm khuôn để sao chép,
hTERT (human telomerase reverse
trancriptase) là protein xúc tác
sự polymer hóa nucleotid. Thành
phần ARN của telomerase người có
chừng 445 nucleotid, trong đó các
nucleotid 46-56 là vị trí gắn vào
đầu cùng của telomere, và đó là
khuôn để từ đó thêm vào các ADN
của telomere. Trong việc kéo dài
telomere, đầu tiên telomerase sẽ
nhận dạng đầu cùng của telomere
thông qua các hoạt động giữa
telomere và cả 2 tiểu đơn vị hTR và
hTERT của telomerase, nhận dạng
xong thì thêm chuỗi sáu base
TTAGGG của telomere, như vậy là
kéo dài thêm một telomere và cứ
thế tiếp tục.
2.Hệ thống kiểm soát sự tiến

triển chu kì tế bào thông qua các
gen p53, ADN- PK và INK4:
Gen ADN- PK sửa chữa những gen
bị tổn thương.
Trong khi gen p53 không cho các
gen bị tổn thương tự nhân lên. Khi
có một biến cố lớn trong tế
bào, protein p53 còn gọi là “vệ sĩ
của bộ gene” sẽ phát đi một hiệu
lệnh để tế bào này tự hủy. Các nhà
khoa học cũng cho biết rằng các
yếu tố lối sống ảnh hưởng đến cơ
chế hoạt động bình thường của gen
p53. Việc tránh các chất độc hại tác
động đến p53 là một bước đi quan
trọng tiến tới một lối sống lành
mạnh hơn.
Protein p16INK4a là sản phẩm
chính từ sự mã hóa của gen INK4,
còn được gọi là protein ức chế ung
thư p16INK4a . Protein này có vai
trò trong sự điều hòa chu trình tế
bào khi ở dạng liên kết và làm bất
hoạt các dạng CDK vòng khác
nhau. Sự biểu hiện p16INK4a sẽ
gia tăng theo tuổi tác và quá trình
biểu hiện này thì liên quan đến quá
trình già hoá của tế bào và được
thừa nhận là chi phối tới quá trình
lão hóa. Khi càng lớn tuổi thì nồng

độ p16INK4a sẽ càng cao. Kết quả
nghiên cứu từ các tế bào có các
nguồn gốc khác nhau như tủy
xương, tuyến nội tiết ở tụy. Cũng
như não cho thấy là p16INK4a đã
chi phối quá trình lão hóa bằng
cách giới hạn sự tự làm mới của
các tế bào có khả năng nhân đôi.
Thuyết gốc tự do
Các phản ứng sinh hóa bên trong tế
bào “phóng” ra các gốc tự
do (radical libre, free radical). Thực
chất một gốc tự do là một nguyên
tử oxy “không ổn định”, sẵn sàng
bám vào các phân tử quanh nó (để
trở thành ổn định), Thuyết này phát
xuất từ ý kiến của BS. Denham
Harman (Trường Đại
học Nebraska) đưa ra hồi 1950: các
gốc tự do là nguyên nhân chính gây
xáo trộn hoạt động của các ty lạp
thể (mitochondries), bám vào các
ADN. Nguyên liệu chính của
các mật mã di truyền, gây đột biến
bên trong các tế bào….Nói một
cách khác là các gốc tự do là
nguyên nhân của sự tự hủy hoại,
của sự lão hóa ở cấp tế bào.
Gốc tự do là những tiểu phân hóa
học (phân tử, nguyên tử, ion) có

một nguyên tử đơn dộc ở lớp ngoài
cùng. Với áp lực mạnh của điện
tử đơn độc, gốc tự do có khả năng
tương tác với tất cả các phân tử của
những tế bào bên cạnh nó, phá vỡ
hoàn toàn màng tế bào, làm hư hại
gen di truyền hoặc hủy hoại toàn bộ
tế bào. Nó làm tế bào già đi và gây
ra các bệnh lý tim mạch, viêm
khớp, bệnh dạ dày- ruột, đục thủy
tinh thể,thoái hóa võng mạc, bệnh
phổi, tiểu đường, ung thư, sa sút trí
tuệ, parkinson, suy giảm hệ thống
miễn dịch…
Gốc tự do sinh ra do chính hoạt
động sống của mỗi tế bào và do tác
động của môi trường sống (tia
phóng xạ, các bức xạ có năng
lượng cao, tia tử ngoại, bụi, các
chất độc). Thông thường, chúng
được sinh ra với lượng rất nhỏ và bị
phá hủy ngay bởi các hệ thống
chống gốc tự do của cơ thể. Nhưng
khi hệ thống bảo vệ này bị quá tải
hay rối loạn (do môi trường ô
nhiễm, tân lý căng thẳng, tuổi
tác…), quá trình lão hóa và các
bệnh lý sẽ tiến triển rất nhanh.
Gốc tự do và hiện tượng nhăn da:
Các phân tử của chất tạo

keo collagen (vốn đứng riêng rẽ với
nhau) bị các gốc tự do dán vào
nhau, gây nên những “liên kết
chéo” (cross- linkage): cấu trúc căn
bản của collagen bị xáo trộn. Các tế
bào của mô liên kết chịu trách
nhiệm bài tiết và trùng tu collagen
cũng bị hư hại… nên da mất dần
tình đàn hồi. Các vết nhăn xuất
hiện. Biết rằng mô liên kết là cái
nền chung cho hết thảy các loại mô
trong cơ thể thì ta hiểu vai trò của
các gốc tự do trong sự lão hóa của
cơ thể. Nhưng mâu thuẫn thay, gốc
tự do rất cần thiết cho đời sống,
nhờ có gốc tự do mà các bạch
cầu bám vào được các vi
khuẩn và siêu vi để tiêu diệt chúng!
Nhưng tế bào cũng sản xuất ra các
chất kháng oxy (anti- oxydants) và
sự sống bên trong tế bào được thể
hiện bởi sự xuất hiện liên tục của
hai chất – gốc tự do và kháng oxy -
trong khoảnh khắc ngắn ngủi
(1/1000 giây đồng hồ)!
Thuyết kích tố
Thuyết này dựa vào nhận xét rằng
mọi giai đoạn của đời sống đều
do kích tố điều hành. Lúc nhỏ có
kích tố tăng trưởng. Từ tuổi dậy thì

có các kích tố nam, nữ. Khi sự bài
tiết các kích tố yếu đi thì cơ thể già
dần. Còn nhiều loại kích tố khác
cũng ảnh hưởng tới sự lão hóa, ví
dụ như DHEA và Melatonin.
Đáng chú ý nhất là hormone tăng
trưởng hGH.
Hormone tăng trưởng được sản
xuất ở tuyến yên. Các nhà khoa học
đã khám phá một yếu tố quan trọng
liên quan mật thiết với tuổi già, đó
là sự thiếu hụt hormone tăng trưởng
hGH. Việc tìm ra các chất kích
thích cơ thể sản xuất hGH đã tạo
niềm hy vọng về chuyện đảo
ngược quá trình lão hóa. hGH được
phóng thích bởi tuyến yên từ lúc
mới sinh cho đến khi cao tuổi. Sau
khi vào máu, nó nhanh chóng đến
gan để được chuyển thành chất
DGF-1, DGF-2. Đây là những phân
tử truyền tin và được xem là “yếu
tố tăng trưởng”, kích thích sự phát
triển các phần khác nhau của cơ
thể.
Phân tử hGH (Hình 1.1) là một chất
đạm (protein) được tạo bởi một
chuỗi 190 amino acid và có phân tử
lượng là 22 kilo daltons5 (khoảng
120 lần phân tử lượng của

thuốc Aspirin).
Giống như các hormone khác,
lượng hGH phóng thích vào hệ
tuần hoàn sẽ đạt tối đa lúc 20 tuổi
và sau đó giảm dần. Đến tuổi 60 thì
lượng hGH chỉ bằng khoảng 15-
20% so với lúc trẻ. hGH giúp tăng
chiều dài xương đến tuổi 20 (vì vậy
qua tuổi này chúng ta không thể
cao hơn); một số người cao to bất
thường là do tình trạng cường hGH
làm cơ thể phát triển quá mức. Nó
cũng làm tăng tổng hợp protein
trong tế bào, giúp cho cơ rắn chắc,
phục hồi sự hư hỏng của da và tim,
chống lại sự thoái hóa của tế bào,
từ đó ngăn chặn được sự lão hóa.
hGH được phóng thích từ tuyến
yên vào máu trong khi ngủ. Khi trẻ
đang tuổi lớn, hGH sẽ giúp các chất
dinh dưỡng hấp thu và chuyển tới
xương, cơ, các mô khác mà không
tích tụ thành mở (còn ở người cao
tuổi thì hay tích tụ thành mỡ).
Hormon này kích thích sự tổng
hợp hallogen – một chất có tính đàn
hồi giúp tạo sự khỏe mạnh, dẻo dai
cho sụn, gân, dây chằng và xương.
Khi tuổi cao, việc giảm collagen
dẫn đến nhăn da, yếu cơ xương

khớp…
Tập tin:Effectofhgh.jpg
Hình 1.2: Tác dụng của kích thích
tố tăng trưởng đế tế bào xương
(chondrocytes), mỡ (adipose tissue
or fat), và cơ bắp (skeletal muscle).
Việc tổng hợp hGH rất khó khăn
và tốn kém. Trước đây, người ta chỉ
sản xuất hGH để điều trị những vấn
đề đặc biệt do thiếu hụt hGH. Vào
giữa những năm 1980, công
ty Genetech và Eli Lilly đã tổng
hợp được hGH thông qua kỹ thuật
ADN. Năm 1989, các nhà khoa học
ở bệnh
viện St.Thomas (London,Anh) do
bác sĩFranco Salomon chủ trì đã
tiêm hGH cho 24 người trưởng
thành bị cắt tuyến yên do khối u
trong 6 tháng. Kết quả là họ tăng
trọng lượng nhưng lượng mỡ
vàcholesterol trong máu giảm.
Salomon và cộng sự tiếp tục nghiên
cứu để tìm hiểu xem tại sao hGH
lại có tác dụng trên những người
trưởng thành, bởi từ trước tới nay
người ta cho rằng hGH không có
tác dụng gì đối với đối tượng này
nên mới bị giảm đi.
Douglas Crist, một chuyên gia ở

Đại học Y khoa New Mexico đã
tiêm hGH cho 8 vận động viên điền
kinh (5 nam, 3 nữ tuổi 22-23) ba
lần một tuần trong 6 tuần. Kết quả
thể hình phát triển rất tốt, khối
lượng cơ bắp tăng thêm nhưng
lượng mỡ giảm, chỉ số cơ/mỡ đạt
mức lý tưởng.
Đối với người lớn tuổi, việc bổ
sung hGH cho kết quả rất tốt. Tiến
sĩ lão khoa Julian Whitaker thuộc
viện Wellness ở California cho
rằng những khám phá về hGH thực
sự là một cuộc cách mạng. Nghiên
cứu của bác sĩ Beng Ale
Bengtsson ở Thụy Sĩ cũng cho kết
quả tương tự về tác dụng của hGH
trên người già. Khó khăn lớn nhất
là sản phẩm tổng hợp hGH còn quá
đắt tiền, chỉ mới có thể dùng
trong nghiên cứu. Vì vậy, các nhà
khoa học đã nỗ lực tìm kiếm nhằm
đưa ra các sản phẩm có thể áp dụng
một cách rộng rãi, và người ta đã
tìm ra được hai chất: Alpha-
GPC và Somabol. Alpha-GPC là
một chất chiết xuất từ đậu nành,
được chứng minh là có kích thích
tuyến yên tiết ra hGH và cũng có
thể ức chế vùng dưới đồi trong việc

tiết somatostatin (chất ngăn cản
việc sản xuất hGH). Somabol là
toàn bộ nhóm yếu tố tăng trưởng
như EGF, FGF, TGF, được chiết
xuất từ lòng đỏ trứng hữu cơ. Như
đã nêu trên, khi hGH được phóng
thích vào máu, chúng sẽ đến gan và
được chuyển hóa thành các yếu
tố tăng trưởng và chính các yếu tố
này mới có hoạt tính sinh học của
hormone tăng trưởng.
Thuyết miễn dịch
Cơ thể sinh ra đã được trang bị một
hệ thống phòng thủ chống sự xâm
nhập của các vật lạ. Đó là sự miễn
dịch. Miễn dịch bảo vệ cơ thể bằng
nhiều cách. Có thể là các bạch
cầu trực tiếp tấn công, vô hiệu hóa
vi trùng, nấm bệnh. Có thể là các
bạch cầu đặc biệt tạo ra chất kháng
thể, lưu thông trong máu và vô hiệu
hóa tác nhân ngoại nhập. Lý thuyết
này dựa vào hai nhận xét: thứ nhất
là với tuổi già, cơ thể sản xuất ít
kháng thể đồng thời phẩm chất
cũng kém, thứ hai là với tuổi già,
cơ thể đôi khi lại tạo ra kháng thể
chống lại chính các phân tử cấu tạo
cơ thể, đưa tới bệnh hoạn, suy yếu.
Như trường hợp viêm khớp ở người

cao tuổi. Một thí dụ nữa là khi bị
bệnh cảm cúm thì sức chịu
đựng của người cao tuổi kém người
trẻ và lâu bình phục hơn.
Thuyết về sự lầm lẫn
Sự lầm lẫn có thể do:
Sự hư hao, cơ thể với các chức
năng hao mòn theo thời gian vì
những va chạm, xâm lấn. Nếu
không được tu bổ, chữa trị thì cơ
thể sẽ bị tiêu hủy. Thuyết này được
bác học người Đức August
Weismann đưa ra năm 1882. Theo
ông ta, sự chết xẩy ra vì khi một
mô hư hao không bao giờ tự nó tân
trang được. Sự hư hao tả tơi còn
làm xói mòn các diễn tiến sinh
hóa bình thường trong cơ thể. Theo
Dan Georgakas, cơ thể già vì
thường xuyên bị tác hại bởi các áp
lực từ bên ngoài như xúc động, va
chạm thực chất, nhiễm độc ]]môi
trường]].
Phản ứng tròng tréo:Chất tròng tréo
thường thường là một hóa chất cột
hai phân tử riêng rẽ với nhau. Sự
tròng tréo (cross linkage) chất đạm
làm tổn thương mô và tế bào, ngăn
cản sự thu nhập chất dinh dưỡng,
giảm bài tiết chất phế thải, đưa tới

sự suy yếu cơ thể. Sự tròng tréo
thường thấy ở các phân tử đạm
trong chất tạo keo khiến cho da
khô, nhăn, không đàn hồi. Thuyết
này cũng liên hệ tới sự sử dụng
chất đường. Khi đường vào máu,
nó sẽ bám vào chất đạm, làm đạm
chuyển sang màu vàng, không dùng
được và thành nguy hiểm cho cơ
thể.
Thuyết về sự tích lũy những sai lầm
Để tăng trưởng, cơ thể liên tục biến
chế các phân tử đạm và ADN.
Nhưng những phần tử này không
phải lúc nào cũng được sản
xuất hoàn hảo. Có nhiều tổn
thương trong việc tổng hợp chất
đạm, tạo ra chất đạm bất thường mà
khi tích tụ với nhau sẽ gây hư hao
cho tế bào, mô và các bộ phận.
Theo thuyết này, khi ta về già thì
cơ thể dễ phạm các lỗi lầm kể trên,
đưa đến sự già.

×