Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

Đề tài: Thực trạng sản xuất, chế biến và tiêu thụ dưa chuột bao tử ở tỉnh Bắc Giang pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (240.88 KB, 38 trang )

Luận văn
Đề tài: Thực trạng sản xuất, chế biến và
tiêu thụ dưa chuột bao tử ở tỉnh Bắc
Giang


Mục lục
I. Phần mở đầu :..............................................................................................3
1.1 Lý do chọn đề tài :.....................................................................................3
1.2 Mục tiêu nghiên cứu :................................................................................4
1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu :...........................................................4
1.4 Đặc điểm địa bàn và phương pháp nghiên cứu :.......................................5


I. Phần mở đầu :
1.1 Lý do chọn đề tài :
Sau khi giải quyết vấn đề an ninh lương thực, ngành sản xuất rau quả
Việt Nam đã có những bước phát triển mạnh mẽ, góp phần đáng kể trong
q trình phát triển và xây dựng nông thôn mới theo hướng cơng nghiệp hố
và hiện đại hố, nâng cao đời sống cho người dân nông thôn. Với ưu thế về
sự đa dạng của điều kiện sinh thái cả về tài nguyên đất cũng như thời tiết khí
hậu và sự phong phú về kinh nghiệm truyền thống của từng địa phương và
đặc biệt là sự quan tâm của Đảng và nhà nước, sản xuất rau quả ở Việt Nam
nói chung và các vùng sản xuất rau quả nói riêng có một số thuận lợi rất cơ
bản., diện tích và sản lượng những năm gần đây có sự gia tăng nhanh chóng.
Trong số các cây thực phẩm thì dưa chuột bao tử là cây trồng ngắn
ngày, cung cấp nguyên liệu cho ngành chế biến rau quả xuất khẩu được
nhiều quốc gia ưa thích. Kết quả nghiên cứu cho thấy, dưa chuột bao tử là
cây ăn quả có giá trị dinh dưỡng cao, trong quả có nhiều vitamin A, B, B6,
E…và đặc biệt có nhiều men tiêu hố làm cho q trình đồng hố và hấp thụ
thức ăn được tốt hơn. Nhận thức được vai trị đó của dưa chuột bao tử,


những năm gần đây đã có nhiều cơ quan, doanh nghiệp trong và ngoài nước
đã khảo sát nghiên cứu và chọn Việt Nam là nơi sản xuất dưa chuột bao tử
làm nguyên liệu chế biến xuất khẩu sang nước ngồi.
Bắc Giang có 382.200 ha đất tự nhiên, bao gồm 123 nghìn ha đất nơng
nghiệp, 110 nghìn ha đất lâm nghiệp, 66,5 nghìn ha đất đơ thị, đất chun
dùng và đất ở, cịn lại là các loại đất khác. Nhìn chung, tỉnh Bắc Giang có
nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển cơng nghiệp, nông nghiệp, lâm nghiệp


và thuỷ sản. Quốc lộ 1A mới hoàn thành tạo ra quỹ đất lớn có nhiều lợi thế
cho phát triển công nghiệp - dịch vụ. Đất nông nghiệp của tỉnh, ngồi thâm
canh lúa cịn thích hợp để phát triển rau, củ, quả cung cấp cho thủ đô Hà Nội
và các tỉnh lân cận. Tỉnh đã có kế hoạch chuyển hàng chục nghìn ha trồng
lúa sang phát triển cây ăn quả, cây cơng nghiệp và ni trồng thuỷ sản có giá
trị kinh tế cao.
Bên cạnh những thuận lợi như trên, việc kinh doanh dưa chuột bao tử
của tỉnh Bắc Giang còn gặp nhiều khó khăn. Trước hết về trình độ khoa học
kỹ thuật của người nơng dân cịn thấp, cơng tác quản lý thị trường của nhà
nước cũng chưa đáp ứng với yêu cầu của từng ngành. Vì thế năng suất và
hiệu quả của cây dưa chuột bao tử chưa tương xứng với tiềm năng và lợi thế
của nó. Vì thế việc nghiên cứu tình hình sản xuất, chế biến và tiêu thụ dưa
chuột bao tử ở tỉnh Bắc Giang, từ đó tìm ra giải pháp nhằm góp phần phát
triển, nâng cao hiệu quả kinh tế của cây trồng dưa chuột bao tử của tỉnh là
rất cần thiết và có ý nghĩa thực tế. Xuất phát từ thực tế đó, nhóm chúng tôi
đã chọn nội dung “ Thực trạng sản xuất, chế biến và tiêu thụ dưa chuột
bao tử ở tỉnh Bắc Giang” làm đề tài nghiên cứu.

1.2 Mục tiêu nghiên cứu :
Nghiên cứu và đánh giá thực trạng sản xuất, chế biến và tiêu thụ dưa
chuột bao tử ở tỉnh Bắc Giang. Nghiên cứu, đề xuất định hướng và giải pháp

chủ yếu nhằm phát triển dưa chuột bao tử trên địa bàn tỉnh.

1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu :
1.3.1 Đối tượng nghiên cứu:


Đề tài tập trung nghiên cứu những vấn đề kinh tế, kỹ thuật và tổ chức
quản lý trong sản xuất, chế biến và tiêu thụ dưa chuột bao tử với chủ thể là
các nông hộ sản xuất dưa chuột bao tử, các đối tượng tham gia thị trường
xuất khẩu dưa chuột bao tử như Công ty cổ phần Chế biến thực phẩm xuất
khẩu Bắc Giang, Công ty cổ phần Chế biến thực phẩm xuất khẩu GOC,
Công ty cổ phần Chế biến thực phẩm xuất khẩu Đông Hải.
1.3.2 Phạm vi nghiên cứu:
-

Nội dung: Đề tài tập trung nghiên cứu các vần đề lý luận, thực tiến và

các yếu tố ảnh hưởng đến việc sản xuất, chế biến và tiêu thụ dưa chuột bao
tử trên địa bàn huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang
-

Thời gian: Số liệu thu thập từ năm 2006 đến đầu năm 2010

1.4 Đặc điểm địa bàn và phương pháp nghiên cứu :
1.4.1 Đặc điểm địa bàn :
Huyện Lạng Giang nằm ở phía Đơng Bắc tỉnh Bắc Giang, có vị trí là
cửa ngõ nối liền các tỉnh phía Đơng Bắc với thành phố Bắc Giang. Huyện
Lạng Giang có diện tích tự nhiên 246,06 km2. Dân số của huyện đến 2010
khoảng gần 250.000 người, trong đó số người trong độ tuổi lao động chiếm
khoảng 42%.

Với vị trí thuận lợi, hiện nay, Lạng Giang là một trong 4 huyện thành phố
của tỉnh được xác định là vùng trọng điểm phát triển KT-XH. Nơi đây đã
hình thành một số cụm cơng nghiệp và một số vùng sản xuất nguyên liệu
phục vụ công nghiệp chế biến nông sản. Điều kiện tự nhiên về đất đai, khí


hậu tốt, rất thích hợp cho việc trồng cây nơng sản, đặc biệt là dưa chuột bao
tử.
1.3.3 Phương pháp nghiên cứu :
-

Phương pháp chọn điểm nghiên cứu: nghiên cứu 14 xã thuộc địa bàn

huyện Lạng Giang tỉnh Bắc Giang
-

Phương pháp thu thập số liệu

-

+ Số liệu thứ cấp:
* Thông qua các luận án, luận văn, sách báo và tạp chí liên quan.
* Niên giám thống kê của tỉnh Bắc Giang đã được công bố
* Niên giám thống kê của huyện Bắc Giang đã được công bố
* Số liệu tổng quan chung của các xã trong huyện
+ Số liệu sơ cấp: Phiếu điều tra các nông hộ trồng dưa chuột bao tử

trên địa bàn Huyện Lạng Giang tỉnh Bắc Giang
-


Xử lý số liệu: sử dụng các phép toán học, phần mềm Excel…

Phần II: Nội dung :
2.1 Cơ sở lý luận :
2.1.1 Đặc điểm kinh tế, kỹ thuật của dưa bao tử :
Cây sinh trưởng khỏe, phát triển nhanh, khả năng chống chịu bệnh, đặc
biệt là các bệnh sương mai, đốm vàng trên lá tốt hơn, giảm được chi phí sản


xuất do ít phải phun thuốc phịng trừ sâu bệnh. Sức cây bền, thời gian cho
thu hoạch kéo dài nên đạt năng suất cao.
Thực tế 3 vụ sản xuất vừa qua cho thấy năng suất trung bình đạt từ 1,51,6 tấn/sào, có hộ chăm sóc tốt, thu hái kịp thờ đã đạt tới 2,4 tấn/sào, cao
hơn các giống khác từ 10-15%. Ưu điểm nổi bật là quả ra đồng đều về kích
cỡ cho từng lứa nên dễ thu hái đạt chất lượng cao và có thể cung cấp cho chế
biến nhiều loại sản phẩm theo kích thước quả: dưa bao tử, dưa trung tử, dưa
6-9 nên hiệu quả kinh tế đạt cao. Quả dưa màu xanh, thn đều nên ít bị thải
loại; không biến màu sau vài ngày thu hoạch; vỏ dày, đặc ruột, nhiều gai vẫn
giữ được sau khi rửa, ăn giòn.
Dưa bao tử dễ chế biến, mẫu mã đẹp, chất lượng sản phẩm sau chế biến
cao, giòn, giữ được hương vị đặc trưng, thích hợp cho cả dưa dầm dấm đóng
lọ và dưa muối.
Theo quy trình kĩ thuật áp dụng trên đồng đất miền Bắc, cây dưa chuột
bao tử được gieo trồng một năm 2 vụ. Vụ xuân, từ 15/2 đến 28/2 dương lịch
và kết thúc thu hoạch vào khoảng 30/5 dương lịch. Vụ đông, từ 20/9 đến
15/10 dương lịch và kết thúc thu hoạch vào khoảng 31/1 dương lịch năm
tiếp theo. Tính từ lúc trồng, đến ngày thứ 30 là cây đã cho thu hoạch. Cây
dưa chuột rất khoẻ và sinh trưởng nhanh, các loại sâu bệnh thường gặp chỉ là
sâu đơn thuần như sâu xám, sâu xanh, sâu vẽ bùa; bệnh thì chỉ phịng ngừa
sương mai, chết yểu, bệnh chết xanh. Kĩ thuật trồng cũng tương đối đơn
giản, mọi người dân đều có thể làm được từ khâu xử lý hạt giống, ngâm ủ

hạt, làm bầu, tra hạt vào bầu và đưa bầu ra ruộng…
2.1.2 Tổ chức sản xuất, chế biến và tiêu thụ dưa chuột bao tử :


Dưa bao tử được sản xuất dưới sự kết hợp chặt chẽ giữa Hội nông
dân, cán bộ khuyến nông và nhà thu mua trong việc tập huấn kỹ thuật,
chuyển giao công nghệ, thông tin tuyên truyền và bao tiêu sản phẩm.
Từ kết quả bước đầu, cây dưa chuột xuất khẩu được lãnh đạo địa
phương và ngành chức năng đánh giá là cây trồng thích hợp với điều kiện
thổ nhưỡng một số đồng đất trên địa bàn huyện. Trồng 1 sào dưa chuột bình
quân thu 1,5 tấn quả loại 1 và 3-400 kg loại 2, Công ty bao tiêu sản phẩm
với giá cố định 3.000 đồng/kg loại 1; 2.200 đồng/kg loại 2 thì mỗi sào trung
bộ thu được trên 5 triệu đồng/vụ, trừ đi chi phí ban đầu mỗi sào lãi rịng từ 3,
5 -3,7 triệu đồng. Có nhà trồng 2 sào mỗi vụ có thu nhập trên 7 triệu đồng
trong 3 tháng. Ba công thức so sánh giữa trồng dưa, trồng ngô hoặc rau màu
các loại được bà con nông dân đánh giá cao cây dưa. Hơn nữa, một ưu điểm
vượt trội của trồng dưa chuột bao tử là có thể trồng quanh năm đặc biệt là vụ
đông muộn, giúp giải quyết được việc làm thường xun khi nơng nhàn.
Ngồi lợi ích kinh tế trước mắt, việc trồng dưa bao tử đã giúp người dân
quen hơn với sản xuất nông nghiệp hàng hố - một điều vơ cùng cần thiết
khi nơng nghiệp nước ta hội nhập. Dưa bao tử địi hỏi rất cao về tiêu chuẩn
kỹ thuật như kích thước, trọng lượng, màu sắc… do vậy đỏi hỏi người nông
dân phải ln tn thủ đúng quy trình canh tác. Điều này là rất tốt cho những
chương trình, dự án nơng nghiệp hàng hoá sẽ được triển khai ở xã trong thời
gian tới.
2.1.3 Những nhân tố ảnh hưởng tới tổ chức sản xuất, kinh doanh dưa bao tử
Thuận lợi trong sản xuất vụ này là thời tiết ít mưa tạo điều kiện cho
nông dân làm đất trồng các loại rau màu đúng thời vụ. Giá các loại giống
cây trồng, vật tư kỹ thuật nơng nghiệp, nhất là phân bón giảm. Tại các địa



phương, đạm u-rê đang được bán phổ biến ở mức giá 6,3 nghìn đồng/kg,
giảm 300-400 đồng/kg so với vụ mùa và gần 3 nghìn đồng/kg so với vụ
đơng năm trước; phân tổng hợp NPK 3,3 nghìn đồng/kg, lân 2,4 nghìn
đồng/kg, ka li 10,5-11 nghìn đồng/kg, giảm nhẹ so với vụ trước. Đặc biệt,
Công ty cổ phần Vật tư kỹ thuật nơng nghiệp Bắc Giang tiếp tục triển khai
chương trình cung ứng phân bón trả chậm tạo điều kiện cho những hộ kinh
tế khó khăn có đủ phân bón đầu tư thâm canh ngay từ đầu vụ.
Nhận thức rõ vai trò của vụ đơng nên chính quyền các cấp, ngành chức
năng có sự quan tâm, chỉ đạo sát sao. UBND tỉnh trích ngân sách hơn 4,2 tỷ
đồng hỗ trợ nơng dân trồng khoai tây chất lượng sạch bệnh và sử dụng phân
bón Neb-26 với diện tích khoảng 1.500 ha nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất
nông nghiệp. Nhiều địa phương cũng dành hàng trăm triệu đồng hỗ trợ nông
dân mở rộng diện tích cây trồng chủ lực, có giá trị kinh tế cao.
Do ảnh hưởng của sự biến đổi khí hậu tồn cầu mà trong nhiều tháng
qua khơng có mưa. Điều đó ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất nơng
nghiệp. Các ao hồ chứa nước trên địa bàn bị khô hạn khơng có đủ nước tưới
và có thể dẫn đến tình trạng cây bị chết do thiếu nước. Vì thế nguy cơ mất
mùa đối với các lồi cây cơng nghiệp trên địa bàn là hiện hữu. Từ năm 1998
đến nay chưa có năm nào hạn hán như năm này, các sơng suối chính trên địa
bàn huyện hầu như là khơ cạn. Nước sinh hoạt cịn khơng đủ dùng huống chi
là nước dùng cho việc tưới tiêu. Điều đó có thể ảnh hưởng đến năng suất,
chất lượng dưa bao tử và một số cây trồng khác trên địa bàn huyện trong
năm 2010.
Năm nay mưa ít, tổng lượng mưa trung bình từ tháng 1 đến tháng 9 chỉ
đạt 928,4 mm, bằng 77,6% so với bình quân cùng kỳ nhiều năm trước. Đây


là nguyên nhân mực nước tại nhiều hồ, đập trên địa bàn hiện đạt thấp hơn
nhiều so với dung tích thiết kế. Theo Chi cục Thuỷ lợi (Sở Nông nghiệp và

PTNT), hiện chỉ có 4/24 hồ, đập đạt dung tích thiết kế, cá biệt có hồ chỉ đạt
17,3% dung tích thiết kế. Không chỉ nguồn nước tưới hạn chế, hệ thống
kênh mương của hai cơng ty khai thác cơng trình thuỷ lợi lớn trên địa bàn là
Cầu Sơn và Sông Cầu đang được cứng hoá hàng tháng phải cắt nước một
thời gian dài phục vụ thi cơng gây khơng ít khó khăn cho việc cung cấp
nước tưới thường xuyên liên tục cho cây trồng vụ đơng.
Tình hình sâu bệnh phát sinh gây hại trên cây trồng cũng là một trong
những khó khăn lớn cho sản xuất vụ đơng năm nay. Ngun nhân là do
người dân khơng có thói quen ln canh cây trồng trên cùng một thửa ruộng,
công tác vệ sinh đồng ruộng khơng tốt, kỹ thuật chăm sóc cây trồng cịn hạn
chế (ít bón lót, chỉ bón thúc), chủ quan trong phòng trừ và sử dụng thuốc bảo
vệ thực vật không theo nguyên tắc 4 đúng (đúng thuốc, đúng thời điểm,
đúng nồng độ và đúng kỹ thuật); một số loại cây rau nhập khẩu thích nghi
chưa cao với điều kiện thời tiết, khí hậu địa phương. Bà Đỗ Thị Luyến, Phó
Chi cục trưởng Chi cục Bảo vệ thực vật nói: "Những năm trước do khơng
làm tốt cơng tác phịng trừ sâu bệnh nên một số diện tích ngơ bị bệnh héo
khô, dưa bao tử bị nhiễm bệnh giả sương mai, cà chua bị héo xanh… làm
giảm đáng kể năng suất cây trồng".
2.2 Cơ sở thực tiễn :
* Tình hình sản xuất dưa bao tử trong nước và nước ngoài:
Dưa bao tử được trồng ở nước ta từ lâu do cây dễ trồng, cho năng suất
cao.Nhưng nhiều năm trước, dưa bao tử chưa được xem là cây trồng chính


mà cây lúa được người dân chú trọng hơn. Chỉ khi đời sống người dân tăng
lên thì được xem là cây trồng chính.
Dưa bao tử được trồng ở rộng khắp các tỉnh thành phía bắc và trung
đặc biệt ở Bắc Giang, Hà Tây, Hưng Yên, Hà Nam… với diện tích ngày
càng tăng.
Năm 2007, tổng công ty rau quả Việt Nam xuất khẩu 47,425 tấn dưa

chuột hộp, 552 tấn dưa chuột đóng lọ thủy tinh. Năm 2008, tổng diện tích
dưa là 1.685,56 ha. Sản lượng xuất khẩu đạt 70,478 tấn dưa chuột hộp và
1.718 tấn đóng lọ thủy tinh, tổng giá trị xuất khẩu đạt 7,98 triệu USD.
Điều kiện sinh thái của Việt Nam, đặc biệt của miền Bắc rất thuận lợi
cho trồng dưa bao tử, đây là ưu thế cạnh tranh của VN trên thì trường nước
ngồi. Khu vực sản xuất chủ yếu là Đồng bằng sông Hồng 25,26% diện tích
và 30,78 % sản lượng dưa cả nước. Đồng bằng sơng Cửu Long là 23,28% về
diện tích và 25,46% về sản lượng. Dưa bao tử thực sự trở thành cây làm giàu
cho nơng dân, cho nơng thơn.
Tính đến nay, Dưa bao tử của nước ta đã có mặt trên 50 quốc gia cả
những thị trường khó tính như Mỹ, EU. Theo điều tra IFPRI, hiện nay nước
ta có hàng trăm nhà máy quy mô nhỏ và vừa, công suất trung bình khoảng
1000-1500 tấn nguyen liệu/năm.
Đơn giá xuất khẩu sản phẩm dưa chuột trong quý I/2010 tiếp tục
giảm nhẹ: Qua bảng giá FOB xuất khẩu dưa chuột có thể thấy giá xuất khẩu
dưa chuột bao tử dầm dấm loại 720 ml sang Mơng Cổ đã giảm 20% xuống
cịn 0,4 USD/lọ so với cùng kỳ 2009. Đơn giá xuất khẩu Dưa chuột trung tử
dầm dấm720 ml sang Ukraina giảm 20% xuống còn 5,2 USD/thùng. Tuy
nhiên, đơn giá xuất khẩu dưa chuột muối sang thị trường Nga tăng 39,3%
đạt mức 0,39 USD/lọ.


Có 31 thị trường nhập khẩu dưa chuột chế biến từ Việt Nam, tăng 12
thị trường so với 3T/2009. Đó là các thị trường như: Slovakia, Trung Quốc,
NewZealand, Ôxtrâylia, Amenia, Singapo, Slovenia, Ixraen, Đan Mạch,
Saudi Arabia, Bỉ và Belarut. Trong quý I/2010, kim ngạch xuất khẩu sản
phẩm dưa chuột chế biến sang thị trường Nga vẫn đạt cao nhất với hơn 4
triệu USD chiếm 53,8% tổng kim ngạch xuất khẩu dưa chuột ;giảm 41,5%
so cùng kỳ năm 2009.
Trong số các sản phẩm dưa chuột xuất khẩu thì kim ngạch xuất khẩu

dưa chuột dầm dấm 720 ml đạt kim ngạch cao nhất với hơn 2,1 triệu USD.
Tiếp đến là dưa chuột bao tử dầm dấm 720 ml đạt 1,2 triệu USD. Dưa chuột
trung tử dầm dấm 1500 ml đạt 50,1 nghìn USD tăng 145,6%; dưa chuột bao
tử dầm dấm vị hạt tiêu 500 ml đạt 118,1 nghìn USD tăng 116,6%; dưa chuột
bao tử dầm dấm vị hành tây 500 ml đạt 118,1 nghìn USD tăng 71,5%;...
2.3 Kết quả nghiên cứu và thảo luận :
2.3.1 Thực trạng sản xuất dưa chuột bao tử trên địa bàn huyện Lạng Giang,
tỉnh Bắc Giang:
2.3.1.1 Tình hình sản xuất dưa chuột bao tử trên địa bàn huyện :
a. Diện tích
Bảng A1.1 – Diện tích dưa chuột bao tử trên địa bàn huyện Lạng Giang
giai đoạn 2007 – 2009
( Nguồn số liệu thống kê huyện Lạng Giang )
Vùng

2007

Toàn

DT
120,28

huyện

2008
CC
100,00

DT
136,44


2009
CC
SL
CC
100,00 148,2 100,00

2009/2007
SL
CC
27,92 23.21


Hương

45,10

37,50

49,57

36,33

50,1

33,76

5

11,08


Sơn
Tân

15,90

13,22

18,89

13,85

19,5

13,14

3,6

22,6

Thịnh
Hương

8,83

7,33

10,42

7,64


11,9

8,02

3,07

34,76

Lạc
An Hà
Nghĩa

2,73
1,12

2,27
0,93

3,35
1,45

2,46
0,84

5,2
1,1

3,5
0,74


2,47
-0,02

90,47
-1,78

Hòa
Nghĩa

0,00

0,00

0,00

0,00

0,00

0,00

0,00

Hưng
Đào

9,83

8,17


10,80

7,92

14,8

9,97

4,97

50,55

Mỹ
Tiên

3,90

3,24

4,16

3,05

5,1

3,43

1,2


30,76

Lục
Xuân

1,31

1,09

1,65

1,21

2,2

1,48

0,89

67,93

Hương
Thái

2,74

2,28

3,26


2,39

3,9

2,63

1,16

42.33

Đào
Đại

0,30

0,25

0,60

0,44

0.66

0,44

0,36

120

Lâm

Tân

5,26

4,37

6,14

4,50

6,24

4,2

0,98

18,63

Hưng
Yên

0,27

0,23

0,55

0,40

0,73


0,5

0,46

170,3

Mỹ
Quang

23,00

19,12

25,90

18,98

26,95

18,2

3,95

17,17

_

Thịnh
Với tiềm năng về đất đai và đặc biệt là thổ nhưỡng rất thích hợp cho

việc phát triển cây dưa chuột bao tử, diện tích dưa chuột bao tử của huyện đã
giữ ở mức ổn định trên 100ha trong những năm qua. Bảng A1.1 cho thấy
diễn biến về diện tích trồng dưa chuột bao tử trên địa bàn. So với năm 2007


tổng diện tích đất trồng dưa bao tử năm 2009 tăng 27,92 ha, với tốc độ phát
triển 23,21%. Diện tích dưa chuột bao tử thời gian qua vừa tăng là do
chuyển dịch một số đất xấu, đất kém hiệu quả, đất trồng lúa trước đây sang
trồng dưa chuột bao tử, do chính quyền địa phương hoạt động khá hiệu quả
trong việc khuyến khích hỗ trợ các nơng hộ sản xuất dưa chuột bao tử.
Tuy nhiên, cây dưa chuột bao tử được trồng tập trung ở các xã đồng
bằng hoặc bán sơn địa, nơi có truyền thống, điều kiện đất đai tự nhiên phù
hợp với việc phát triển cây dưa chuột bao tử. Đây là vùng có tỷ lệ lớn đất đai
có thuộc nhóm đất thịt nhẹ, đất thịt pha có độ pH 6,5 – 7,5 ( đất có độ pH
trung tính ), đất khá tơi, xốp, nhiều mùn, thích hợp cho cây dưa chuột bao tử
phát triển. Một số công ty trong và ngoài nước đã tiến hành đưa dưa chuột
bao tử giống của Pháp, Hà Lan vào sản xuất và thu mua để chế biến và xuất
khẩu. từ đó, thị trường xuất khẩu dưa chuột bao tử cưa Lạng Giang đã được
mở rộng và bắt đầu có nhiều giống dưa chuột bao tử có năng xuất cao được
đưa vào sản xuất.
Bảng A1.2 Diện tích dưa chuột bao tử chia theo mùa vụ trên địa bàn
huyện Lạng Giang giai đoạn 2007 – 2009
Diễn

Năm 2007
SL
CC
giải
Cả năm 120,28
100

+ Vụ 49,12
40,84

Năm 2008
SL
CC
136,44
100
59,12
43,33

Năm 2009
SL
CC
148,38 100,00
61,3
41,31

xn
+
vụ 71,16

77,31

86,9

59,16

56,67


58,69

đơng
(Nguồn số liệu Phịng nơng nghiệp và phát triển nơng thơn huyện Lạng
giang)
Diện tích gieo trồng dưa chuột bao tử tiếp tục tăng qua các năm. Vụ
đông là vụ sản xuất quan trọng đối với cây dưa chuột bao tử của Lạng


Giang. Bảng A1.2 cho thấy diện tích dưa chuột bao tử vụ đông năm 2007 là
71,16 ha chiếm 59,16%, năm 2008 là 71,31ha chiếm 56,67%, năm 2009 là
86,9 ha chiếm 58,69%. Như vậy diện tích dưa chuột bao tử vụ đơng ln cao
hơn vụ xn do vụ đơng ln có điều kiện thời tiết phù hợp với cây dưa
chuột bao tử, do vậy cây trồng cho năng xuất cao hơn vụ xuân. Tuy nhiên,
qua nhiều năm sản xuất người nông dân đã có kinh nghiệm hơn trong việc
chăn bón và làm hạn chế sự tác động của thời tiết nên cơ cấu diện tích vụ
đơng và vụ xn đã dần cân đối.
b. Năng xuất và sản lượng dưa chuột bao tử của huyện thời kì 2007 –
2009:
Mức độ đầu tư cho cây dưa chuột bao tử không đồng đều giữa các
vùng, các xã dẫn đến năng xuất có sự khác biệt. Trong giai đoạn 2007 –
2009, năng xuất dư chuột bao tử của huyện Lạng Giang gia tăng nhưng
không đáng kể, năng xuất dưa chuột bao tử năm 2009 so với năm 2007 đạt
109,2% và đạt 26,6 tấn/ha trong năm 2009. Mức năng xuất này đạt ở mức
trung bình so với năng xuất dưa chuột bao tử trên địa bàn toàn tỉnh Bắc
Giang, nhưng lại tăng chậm và thấp hơn các tỉnh khác.
Nguyên nhân chính là:
Thứ nhất, theo cán bộ khuyến nông, tỷ lệ các hộ dùng giống và chăm bón
khơng đúng kỹ thuật cịn cao.
Thứ hai, hầu hết đất trồng dưa chuột bao tử là đất được chủ động nước tưới

nhưng không ổn định và phụ thuộc chủ yếu vào nước mưa. Một số xã có
nhiều đồi núi thì hệ thống các cơng trình thủy lợi chưa thể đáp ứng được nhu
cầu nước cho các cây trồng ngắn ngày trong đó có cây dưa chuột bao tử.
Thứ ba, một số loại sâu bệnh như vàng lá, lở cổ rễ, chết ẻo, sâu ăn lá…
bùng phát mạnh. Công tác bảo vệ thực vật vẫn còn nhiều hạn chế.


Thứ tư, mức độ đầu tư cho sản xuất dưa chuột bao tử còn thấp đã lam hạn
chế đến năng xuất dưa chuột bao tử ở huyện.
Bảng A2.1 Năng xuất sản lượng dưa chuột bao tử trên địa bàn huyện Lạng
Giang giai đoạn 2007 – 2009
Vùng
Toàn

NS(tấn/ha)
2007 2008
25,3 26,5

2009
27,2

Sản lượng(tấn)
2007
2008
3043,0 3611,1

2009
4439,9

2009/2007

NS
SL
107,5
145,9

huyện
Hương

29,5

32,0

32,3

1329,3

1587,2

1752,3

109,5

131,82

Sơn
Tân

18,8

19,5


19,97 298,8

369,1

432,4

106,2

144,7

Thịnh
Hương

17,9

18,3

19,00 158,1

190,8

235,3

106,14

148,83

Lạc
An Hà

Nghĩa

15,8
15,8

16,1
17,0

16,9
18,6

43,1
17,7

53,9
19,5

76,4
28,6

106,96
117,72

177,26
161,58

Hòa
Nghĩa

_


_

_

_

_

_

_

_

Hưng
Đào Mỹ
Tiên Lục
Xuân

18,4
17,1
15,5

19,9
18,5
16,7

20.74 180,7
19,30 66.5

17,2 20,3

215,1
76,9
27,6

421,7
92,7
41,2

112,71
112,86
110,96

233,33
139,39
202,9

Hương
Thái Đào
Đại Lâm
Tân Hưng
Yên Mỹ
Quang

18,4
_
18,1
_
34,0


19,9
_
19,4
_
34,2

20,87
_
20,18
_
35,07

65,0
_
119,2
_
886,8

71,8
_
236,3
_
1051,2

113,42
_
111,49
_
103,14


142,74
_
248,47
_
134,25

50,3
_
95,1
_
783,0

Thịnh
( Nguồn số liệu thống kê huyện Lạng Giang)
Bảng A2.2 Năng xuất sản lượng dưa chuột bao tử chia theo mùa vụ trên địa
bàn huyện Lạng Giang giai đoạn 2007 – 2009


Diễn giải

ĐVT

-Năng suất Tấn/ha
+Vụ xuân
+Vụ đông
-Sản lượng Tấn

Năm 2007
SL

CC

Năm 2008
SL
CC

Năm 2009
SL
CC

22,80
27,03
3043,0

_
24,37
_
28,07
100,0 3611,1

_
_
100

26,03
29,7
4439,9

+Vụ xn


1119,8

0
36,80 1440,8

_
_
100,0
0

39,9

43,44

+Vụ đơng

1
1923,1

5
63,20 2170,3

1929,0
6

60,1

2510,7
4


56,56

5
0
(Nguồn số liệu Phịng nơng nghiệp và phát triển nông thôn huyện Lạng
Giang)
Một số xã có năng xuất dưa chuột bao tử cao và ổn định chủ yếu là do có
kinh nghiệm sản xuất dưa chuột bao tử, có trình độ thâm canh cao hơn:
Hương Sơn, Hương Lạc, Tân Thịnh…Những xã có diện tích dưa chuột bao
tử lớn và có tỷ lệ dưa chuột bao tử hàng hóa cao thì năng xuất ln giữ được
ở mức ổn định như: Hương Sơn, Tân Thịnh, Quang Thịnh.
Mặc dù năng suất dưa chuột bao tử tăng chậm nhưng do diện tích
trồng dưa chuột bao tử tăng lên làm cho sản lượng dưa chuột bao tử tăng
đáng kể, sản lượng năm 2009 so với năm 2007 là 145,9%. Sản lượng dưa
chuột bao tử năm 2009đạt 4439,9 tấn chiếm 27,8% sản lượng dưa chuột bao
tử của tỉnh. Một số xã có sản lượng dưa chuột cao và ổn định là Hương Sơn,
Hương Lạc, Tân Thịnh, Quang Thịnh…Tuy nhiên sản lượng dưa chuột bao
tử vẫn không đáp ứng đủ nhu cầu nguyên liệu cho các nhà máy chế biến trên
địa bàn huyện. Vì thế các nhà máy này vẫn phải thu mua dưa nguyên liệu từ
các huyện, tỉnh khác và dưa chuột bao tử được sản xuất trên địa bàn rất được
thị trường ưa thích.
2.3.1.2 Kết quả sản xuất của các nông hộ :


a. Tình hình đầu tư sản xuất dưa chuột bao tử của các hộ :
• Đặc điểm sử dụng các yếu tố đầu vào trong quá trình sản xuất dưa
chuột bao tử
Kết quả sản xuất phụ thuộc rất nhiều yếu tố đầu vào, bao gồm những yếu tố
có thể kiểm sốt được và những yếu tố khơng thể kiểm sốt được. Để tìm ra
các nhân tố làm ảnh hưởng tích cực đến sản xuất dưa chuột bao tử của các

hộ, đặc biệt là những nhân tố kiểm soát được, chúng ta xem xét những điểm
khác nhau về đầu tư của nhóm hộ có năng suất khác nhau. Ta chia các hộ ra
3nhóm:
- Nhóm hộ sản xuất dưa chuột bao tử kém: dưới 550 Kg/sào
- Nhóm hộ sản xuất dưa chuột bao tử trung bình: 550 – 650 Kg/sào
- Nhóm hộ sản xuất dưa chuột bao tử khá giỏi: trên 650Kg/sào
Bảng A3.1 Mức độ đầu tư các yếu tố trong sản xuất dưa chuột bao tử của
các nhóm hộ ( tính bình quân 1 sào)
Chỉ
tiêu

Số hộ
1.NS
trung
bình
2.Giốn
g
3.phân
chuồng
4.đạm
Urê
5. lân
6. kali

ĐVT

Hộ kém

Hộ trung bình


SL

Khoản SL
g
tin
cậy
41
40
Ta/sà 462,4 26,10
613,0
o
3
8
kg/sà
o
Tạ/sà
o
Kg/s
ào
Kg/s
ào
Kg/s
ào

Khoản
g tin
cậy
15,21

Hộ khá


Bình quân

SL

Khoản SL
g
tin
cậy
39
120
737,1 24,87
604,2
5
2

Khoả
ng tin
cậy
24,00

21,00 0,42

21,38 0,31

21,21 0,33

21,20 0,20

5,22


6,54

7,67

6,47

0,3

0,28

0,21

0,24

20,89 0.20

22,34 0,24

24,32 0,21

22,51 0,28

41,66 0,32

44,65 0,35

48,1

0,47


44,80 0,52

14,13 0,04

14.44 0,04

14,86 0,08

14,47 0,06


7. vôi

Kg/s 20,79 0,20
ào
1000 236,3 3,74
đ/sào 3

22,26 0,20

2,07

0,24

22,37 0,27

208,7 4,00
8


191,7 5,05
8

212,2 4,11
9

1000 71,01 0,29
đ/sào

74,03 0,40

77,63 0,54

74,22 0,54

Ngày 25,69 0,23
28,85 0,42
33,10 0,55
ngườ
i/sào
(Nguồn số liệu điều tra các hộ năm 2009- độ tin cậy 95% )

29,21 0,60

8.
thuốc
hóa
học
9. CP
làm

đất
10.
Cơng


Tóm lại, mức độ đầu tư của các yếu tố đầu vào cho một sào dưa
chuột bao tử chưa cao và có sự chênh lệch giữa các nhóm hộ, nhất là nhóm
hộ có năng suất khá và năng suất kém. Mức độ thâm canh sản xuất dưa
chuột bao tử của các nơng hộ cịn thấp so với yêu cầu. Đây là tiềm năng để
có thể tăng năng suất dưa chuột bao tử trong thời gian tới.
• Tình hình đầu tư sản xuất dưa chuột bao tử của các hộ
Tuy là vùng chuyên sản xuất dưa chuột bao tử của tỉnh nhưng phương
thức sản xuất của các hộ được tiến hành theo lối kinh nghiệm. Các yếu
tố về giống, về khoa học kỹ thuật như mức độ đầu tư, quy trình kỹ thuật
do trung tâm Khuyến Nơng và Phịng Nơng Nghiệp huyện chuyển giao.
Mức độ đầu tư và cơ cấu đầu tư cho sản xuất dưa chuột bao tử của các
hộ được trình bày ở bảng A3.2
Bảng A3.2 Chi phí sản xuất dưa chuột bao tử của các nhóm hộ
( tính bình qn 1 sào)

ĐVT: SL: 1000 đồng
CC: %

Chỉ tiêu

Hộ kém
SL
CC

Hộ trung bình

SL
CC

Hộ khá
SL

CC

Bình quân
SL
CC


1.Giống 136,00 8,25
2.Phân 555,71 33,72

143,90
604,73

8,34
35,05

158,90
656,31

8,64
35,69

146,08
604,75


8,42
34,84

bón
3.Thuốc 236,33 14,34

208,78

12,10

191,78

10,43

212,66

12,25

hóa học
4.CP

71,01

74,03

4,29

77,63


4,22

74,17

4,27

làm đất
5.Cơng

639,63 38,81

683,90

39,64

743,40

40,43

688,11

39,64


6. Khác
Tổng

9,36
1648


10,02
1725,3

0,58
100

10,83
1838,8

0,59
100

10,06
1735,8

0,58
100

4,31

0,57
100

cộng
(Nguồn số liệu điều tra năm 2009)
Chi phí sản xuất dưa chuột bao tử của các hộ có sự gia tăng theo kết
quả sản xuất. Bình quân mỗi hộ chi phí 1735,80 nghìn đồng/sào. Nhóm hộ
khá có mức đầu tư cao nhất và hơn các nhóm hộ trung bình và kém. Chi phí
của nhóm hộ trung bình là 1725,35 nghìn đồng/sào cao hơn nhóm hộ kém là
4,69% và ít hơn nhóm hộ khá là 6,58%. Mặc dù sự khác biệt về tổng đầu tư

giữa các nhóm hộ là khơng lớn nhưng một số chi phí quan trọng lại có sự
chênh lệch rõ rệt.
Nhóm hộ sản xuất kém và trung bình là nhóm hộ có mức đầu tư thâm
canh thấp hơn. Đặc biệt mức độ đầu tư về phân chuồng, phân bón hóa học
cịn thấp và chưa cân đối. Vì vậy, để tăng năng suất dưa chuột bao tử các hộ
cần đầu tư thâm canh, nhất là đầu tư phân bón và đồng thời cần phổ biến
kinh nghiệm, tiến bộ kỹ thuật cho các hộ về làm đất, mật độ gieo trồng hơp
lý, phát hiện và phòng trừ sâu bệnh kịp thời và hiệu quả.
b. Hiệu quả kinh tế sản xuất dưa chuột bao tử của các hộ
Kết quả và hiệu quả sản xuất dưa chuột bao tử luôn là mối quan tâm
hàng đầu của các hộ. Do mức đầu tư và kinh nghiệm sản xuất dưa chuột bao


tử của các hộ khác nhau dẫn đến hiệu quả kinh tế sản xuất dưa chuột bao tử
của các nhóm hộ cũng khác nhau. Ta có bảng số liệu điều tra như sau:
Chỉ tiêu
1.NS TB
2.GO
3.IC
4.VA
5.VA/GO
6.VA/IC
7.GO/IC
8.VA/công

ĐVT
Tạ/sào
1000 đ
1000 đ
1000 đ

Lần
Lần
Lần
1000 đ

Hộ kém
462,43
2293,50
1648,03
645,47
0,28
0,39
1,39
25,13

Hộ TB
613,08
2867,65
1725,35
1142,30
0,40
0,66
1,66
39,59

Hộ khá
737,15
3380,08
1838,84
1541,24

0,46
0,84
1,84
46,56

BQ
604,22
2838,02
1735,80
1102,22
0,39
0,63
1,63
37,73


( Nguồn số liệu điều tra các hộ năm 2009 )
Kết quả sản xuất dưa chuột bao tử ở các hộ là khá cao. Bình quân 1 sào
sản xuất dưa chuột bao tử đem lại GO là 2838,02 nghìn đồng, VA là
1102,22 nghìn đồng. GO giữa các nhóm hộ có sự chênh lệch khá lớn, GO
nhóm hộ sản xuất kém đạt 2293,50 nghìn đồng, hộ trung bình và nhóm hộ
khá giỏi đạt cao hơn lần lượt là 23,74% và 25,03%. Có 3 ngun nhân chính
dẫn đến tình trạng trên:
- Thứ nhất, do chất lượng ( tỷ lệ loại quả I ) dưa chuột bao tử của các hộ
khá giỏi đạt cao hơn nhóm hộ kém nên có giá bán cao hơn
- Thứ hai, năng suất dưa chuột bao tử thu được cao hơn
- Thứ ba, nhóm hộ khá, giỏi có kinh nghiệm sản xuất dưa chuột bao tử tốt
hơn, đầu tư tốt hơn nên họ thường thu được quả dưa loại I nhiều hơn,
dẫn đến bán được giá cao hơn.
Tóm lại, sản xuất dưa chuột bao tử cho hiệu quả tương đối cao. Đầu tư về

phân bón, vơi, cơng lao động có ảnh hưởng tích cực đối với việc nâng cao


năng suất dưa chuột bao tử. Nếu được đầu tư và áp dụng các kỹ thuật tiến
bộ thì hiệu quả sản xuất dưa chuột bao tử của các hộ còn cao hơn nữa.
2.3.2 Tình hình chế biến dưa chuột bao tử ở Bắc Giang :
Song song với việc không ngừng mở rộng diện tích trồng cây dưa
chuột xuất khẩu trên địa bàn tỉnh, các doanh nghiệp tham gia hoạt động sản
xuất chế biến dưa chuột xuất khẩu cũng gia tăng nhanh chóng, góp phần
thúc đẩy sản xuất nơng nghiệp và hoạt động chế biến nông sản trên địa bàn.
Tuy nhiên sản xuất chế biến dưa chuột xuất khẩu nói riêng và rau quả
nói chung trên địa bàn tỉnh nhìn chung chưa đáp ứng được yêu cầu về chế
biến nông sản xuất khẩu trong giai đoạn hiện nay.
Thực tế là doanh nghiệp, cơ sở chế biến dưa chuột xuất khẩu của tỉnh
nhiều nhưng nhìn chung quy mơ sản xuất nhỏ, đầu tư trung bình từ vài trăm
triệu đến vài tỷ đồng, trình độ khoa học cơng nghệ thấp, sản xuất chưa ổn
định, dây chuyền khơng đồng bộ. Chỉ có một vài doanh nghiệp có cơng nghệ
chế biến hiện đại hoặc bán tự động, có quy trình sản xuất, sản phẩm một
cách bài bản, cịn lại là chế biến thủ cơng, nhất là các cơ sở chế biến.
Hầu hết các doanh nghiệp đều phát triển từ mơ hình kinh tế hộ gia
đình, vốn hạn chế nên thường tận dụng mặt bằng sẵn có và ít có điều kiện
đầu tư mở rộng nhà xưởng, lắp đặt công nghệ sản xuất hiện đại. Thậm chí ở
các cơ sở sản xuất nhỏ, lẻ mà quy trình sản xuất từ khâu thu gom, sơ chế,
đóng lọ, dán nhãn… đều làm bằng phương pháp thủ công.
Dưa bao tử sau khi thu hoạch được dùng để chế biến ra nhiều loại sản
phẩm khác nhau để phục vụ cho nhu cầu của xã hội. Các sản phẩm sản xuất
ra chủ yếu do các công ty chế biến trên địa bàn lân cận. Sản phẩm chủ yếu
nhất là: Dưa chuột bao tử dầm dấm.



Dưa bao tử được sản xuất thành nhiều loại sản phẩm khác nhau để
phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu nước ngồi.Cịn một số ít sản
phẩm được người dân trực tiếp sử dụng để chế biến thàh các món ăn phục vụ
nhu cầu hàng ngày của mình.
Dùng làm thực phẩm dùng cho xuất khẩu : dưa sau khi chế biến được
xuất khẩu sang các nước khác.các sản phẩm thường là trung tử đóng lọ, dưa
6-9 dầm dấm đóng lọ, dưa muối nguyên quả v.v…
Dùng làm thực phẩm tiêu dùng trong nước:các sản phẩm đóng lọ
ngồi đem xuất khẩu còn được tiêu thụ ở thị trường trong nước.đặc biệt dưa
dược dùng trực tiếp để chế biến làm các món ăn như: Món bao tử trộn dưa
kiệu, Bao tử khìa nước dừa tiêu xanh, cá xào dưa bao tử
2.3.3 Tình hình tiêu thụ dưa chuột bao tử ở huyện :
2.3.3.1 Tình hình cung cấp dưa chuột bao tử cho các cơ sở chế biến :
a/ Tình hình chung của huyện
Lạng Giang là huyện có diện tích đất canh tác, sản lượng rau quả phục chế
biến thuộc dạng cao của cả nước. Bao gồm các sản phẩm như dưa chuột bao
tử, ớt xuất khẩu, cà chua xuất khẩu … đã thu hút các doanh nghiệp xuất
khẩu, chế biến nông sản đầu tư sản xuất, hợp đồng thu mua sản phẩm. Diện
tích sản xuất, sản lượng hàng hóa DCBT thực hiện theo hợp đồng.
Diện tích sản xuất, sản lượng hàng hóa DCBT thực hiện theo hợp đồng


Năm 2007
DT
SL
(ha)

Hương Sơn

44.7


Tân Thịnh

14.9

(tấn)
1317.1
280.6

Năm 2008
DT
SL
(ha)
49.6
18.9

(tấn)
1587.2
369.1

Năm 2009
DT
SL
(ha)
50.1
19.5

(tấn)
1752.3
432.4



Hương Lạc

8.9

159.3

10.4

190.8

11.9

235.3

An Hà

2.7

43.1

3.4

53.9

5.2

76.4


Nghĩa Hịa

1.1

17.7

1.1

19.5

1.1

28.6

181.7

10.8

215.1

14.8

421.7

3.8

64.5

4.2


76.9

5.1

92.7

1.3

20.4

1.7

27.6

2.2

41.2

Thái Đào

2.7

50.3

3.3

65.0

3.9


71.8

Tân Hưng

5.3

95.1

6.1

192.2

6.8

236.3

23

783.0

25.9

886.8

27.6

1051.2

148.2


4439.9

Đào Mỹ
Tiên Lục
Xn
Hương

Quang
Thịnh
Tồn
huyện

9.9

118.3

3012.8

136.4 3611.1

( Nguồn số liệu báo cáo các xã của huyện Lạng Giang)
Thư vậy ta có thể thấy, năm 2007 tồn huyện có 118.3 ha đất canh tác thì
dến năm 2009 đã có 148.2 ha đất canh tác được đưa vào sản xuất theo hợp
đồng, tăng gần 1.3 lần so với năm 2007. Cùng với sự tăng lên về về diện tích
đất trồng DCBT là sự tăng lên về sản lượng hàng hóa dưa chuột bao tử ở các
xã cụ thể là năm 2007 sản lương dưa chuột bao tử mới đạt 3012.8 tấn mà
đến năm 2009 con số đó đã lên tới 443.9 tấn tăng gấp gần 1.5 lần trong đó
tăng mạnh nhất là tại xã Hương Sơn sản lượng đạt 1752.3 tấn chiếm 39.47%
tổng sản lượng dưa chuột bao tử cả huyện năm 2009. Đây là dấu hiệu cho
thấy cây dưa chuột bao tủ thích hợp với vùng đất Lạng Giang và được người

nông dân trong huyện tập trung đưa vào sản xuất.
Đến nay, tình sản xuất của cơng ty, cả doanh nghiệp xuất khẩu không
ngừng tăng lên dẫn đến nhu cầu mở rộng nguồn cung ứng đã thực hiện và


tận dụng ngay địa thế thuận lợi của mình là ở trên địa bàn có nguồn nguyên
liệu dồi dào, tiết kiệm được chi phí vận chuyển. thêm vào việc giảm được
chi phí các doanh nghiệp, các cơng ty xuất nhập khẩu dưa chuột bao tử nội
tỉnh đã tăng giá mua dưa chuột bao tử của nông dân lên từ 100-200 đồng/kg
nhằm tạo nguồn cung cấp nguyên liệu ỏn định cho chế biến ( có nghĩa là
cơng ty mua dưa chuột bao tử của nông dân với mức giá 5.400 – 6.500
đồng /kg). Các công ty nội tỉnh khai thác nguồn tiềm năng này sẽ tạo điều
kiện rất thuận lợi cho hoạt động thu gom dưa chuột bao tử phục vụ cho hoạt
động xuất khẩu dưa chuột bao tử của tỉnh.
Tóm lại, sản lượng dưa chuột bao tử của huyện càng ngày càng tăng.Sự
tăng lên và ổn định về diện tích và sản lượng đặc biệt năng suất khá cao của
cây dưa chuột bao tử được các hộ chú ýđầu tư thâm canh và mong muốn của
họ là được mở rôm\ngj diện tích và làm ăn lâu dài với cơng ty xuất nhập
khẩu nơng sản.
b/ Tình hình tiêu thụ dưa chuột bao tử của các hộ:
Trên địa bàn huyện Lạng Giang thì dưa chuột bao tử là cây đem lại thu
nhập cao hơn so với các loại cây trồng khác. Giá bán dưa chuột bao tử vào
thời điểm thu hoạch thường thấp hơn thời điểm gieo trồng. giá bán bình
quân loại I là 6500 đồng/kg và loại II là 3500 đồng/kg dưa chuột bao tử. Sản
lượng dưa chuột bao tử tuy cao nhưng vẫn chưa đáp ứng đủ nhu cầu của các
nhà máy nằm trên địa bàn huyện như vậy, cây dưa chuột bao tử huyện đã trở
thành mặt hàng có tiềm năng mở rộng và phát triển.
Tình hình tiêu thụ dưa chuôt bao tử của các hộ được thể hiện qua bảng
Chỉ tiêu
Sản lượng của các hộ


SL (kg)
79518.63

%
100


×