Tải bản đầy đủ (.doc) (100 trang)

Sổ tay thuật ngữ Địa lý

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (484.31 KB, 100 trang )

NGUYỄN DƯỢC (chủ biên) TRUNG HẢI
Sổ tay

THUẬT NGỮ ĐỊA LÝ

(Các thuật ngữ dùng trong sách giáo khoa địa lí)

- 2001 -
THUẬT NGỮ ĐỊA LÍ
A

AGAT : (mã não) khoáng vật (SiO
2
ở dạng ẩn tinh) có độ cứng cao (6,5) và chịu axit, thường có trong
các loại đá núi lửa và được dùng để chế tạo các bộ phận máy móc, thiết bị chịu ma sát. Agat thuộc
loại đá quý, loại đẹp có thể dùng để làm các đồ trang sức.
AHAGA : cao nguyên xếp tầng ở trung tâm hoang mạc Xahara
ALIT : thuật ngữ có nhiều cách hiểu khác nhau:
1. Sản phẩm phong hoá hoá học có thành phần chủ yếu là các hydrat của ôxyt nhôm (Al
2
O
3
)
(theo Haratxôvich 1927)
2. Các đá trầm tích có tương quan trọng lượng các thành phần AL
2
O
3
/SiO
2
> 1. Nếu có lượng


Fe
2
O
3
bằng hoặc lớn hơn Al
2
O
3
thì gọi là Pheralit (theo Malapkina 1937)
ALIT HOÁ : kiểu phong hoá hoá học của các loại đá và đất ở nhiệt đới và cận nhiệt đới ẩm, trong đó
xảy ra quá trình phá huỷ các loại silicat, rửa trôi các chất kiềm, kiềm thổ, silic, tích tụ các ôxyt
nhôm, sắt và titan. Kết quả của kiểu phong hoá này là sự hình thành một lớp vỏ phong hoá dày và
các sản phẩm alit.
ALƠRIT : (đá bột) đá trầm tích có cấu trúc gồm những hạt (thạch anh, phenxpat, mica) mịn, kích thước
từ 0,1 đến 0,05mm.
ALUMINÔ- SILICAT : khoáng vật tham gia vào cấu trúc của hầu hết các loại đá trong lớp vỏ Trái Đất.
Thành phần chủ yếu gồm có các ôxyt nhôm (Al
2
O
3
) và silic (SiO
2
).
ALUVI : X. Trầm tích sông
AMIĂNG : khoáng vật mềm, có dạng sợi, thuộc nhóm silicat canxi và manhê ngậm nước. Amiăng có
màu từ xám đến xanh vàng , thường có trong các loại đá phún xuất và trầm tích. Nhờ đặc tính
cách điện, cách nhiệt, nen được dùng phổ biến trong công nghiệp chế tạo các vật liệu xây dựng
(tấm lợp amiăng), vật liệu cách điện, cách nhiệt, quần áo cứu hoả vv Còn có các tên gọi khác: đá
sợi, thạch miên, atbet
AMPHIBÔN : nhóm khoáng vật gồm có các silicat canxi, natri, manhê, sắt, nhôm Có cấu trúc tinh thể

dạng kim, dạng sợi màu xanh, nâu, đen hoặc dạng hạt gắn kết. Amphibôn là thành phần
của nhiều loại đá măcma và biến chất. Khối lượng chiếm khoảng 10% lớp vỏ Trái Đất.
ANBÊĐÔ : phần bức xạ của Mặt Trời do mặt đất hoặc các vật thể khác phản xạ lại không trung.
Anbêđô được tính bằng tương quan (%) giữa lượng phản xạ của mặt đất hoặc của các vật thể khác
so với toàn bộ lượng bức xạ của Mặt Trời. (A (%) = PX / BX ), trong đó PX là lượng phản xạ, còn
BX là lượng bức xạ. Ví dụ : ở đất ẩm ướt A= 5 - 10%, ở lớp tuyết phủ A= 70 - 90%.
ANĐÊDIT (Andezit) : loại đá phún xuất có màu xẫm, thường thấy đi kèm với đá badan ở những vùng
có dung nham núi lửa cổ và hiện đại. Dùng làm vật liệu xây dựng, chịu được môi trường axit.
ANGLÔ- XĂCXÔNG : (Anglo xaxons) tên chung chỉ các bộ tộc Giecmanh trước kia sinh sống ở phía
Bắc đế quốc La Mã (vào thế kỉ 6) đã xâm nhập đảo Anh (Grit Britên) và trở thành tổ tiên của người
Anh hiện nay.
ANH ĐIÊNG : (Indien) tên chỉ người dân sinh sống trên lãnh thổ Ân Độ. Từ cuối thế kỉ 15, thuật ngữ
Anhđiêng còn chỉ người dân bản địa ở châu Mĩ. Khi C. Côlômbô đặt chân lên các quần đảo Trung
Mĩ, chính vì ông tưởng là đất Ân Độ, nên đã gọi người dân bản xứ là Anh điêng. Tên đó tồn tại
đến ngày nay. Người Anh điêng châu Mĩ vốn có da màu vàng xẫm, nhưng người châu Âu lại nhầm
tướng là màu đỏ xẫm, nên cũng gọi là người da đỏ.
ANPHA : tên một loại cỏ gai ở Bắc Phi dùng làm nguyên liệu cho ngành công nghiệp giấy và đan, dệt
các đồ dùng gia đình.
ANTIMET : loại khí áp kế hộp (kim loại) dùng để đo độ cao của địa hình, dựa trên nguyên tắc đo sự
chênh lệch của áp suất không khí giữa nơi đo và mặt đất hoặc mặt nước biển trung bình.
ANTIMON : kim loại cứng, dòn, màu trắng bạc hơi xanh, tỉ trọng khoảng : 6,8 , có tên khoa học là
Stibium (Sb). Antimon được dùng trong công nghiệp để chế tạo các chất màu, các mĩ phẩm. Lĩnh
vực sử dụng chính của Antimon là chế các hợp kim để đúc chữ in và đúc các đồ mĩ nghệ, bởi vì
đặc điểm của nó là khi hoá rắn thì nở ra, do đó các mẫu đúc được tái tạo lại với những chi tiết rất
đầy đủ và rõ nét.
ANTRAXIT : loại than đá già, cứng, màu đen, bóng, có thành phần cacbon cao (90-98%), nằm thành
từng vỉa giữa các lớp đá trầm tích. Antraxit là loại than có chất lượng tốt, hàm lượng nước thấp, khi
cháy có ngọn lửa ngắn và không khói. Nhiệt lượng từ 8.000 đến 8.200 Kcal/kg. Nước ta có nhiều
Antraxit ở khu mỏ Quảng Ninh.
APACTHAI : (Apartheid) chủ nghĩa phân biệt chủng tộc một cách triệt để ở Nam Phi. Theo chủ nghĩa

này thì người da màu không thể bình đẳng được với người da trắng ở bất cứ đâu và trong bất cứ
lĩnh vực hoạt động nào (chính trị, kinh tế, văn hoá )
APATIT : khoáng vật có màu khác nhau : từ xanh xám đến hồng nhạt ,thường gặp trong các loại đá
phún xuất. Tuy nhiên, Apatit cũng có trong các loại đá trầm tích như trong mỏ Cam Đường (Lào
Cai) ở nước ta. Apatit là nguyên liệu chủ yếu để chế tạo phân lân. Thành phần chính của khoáng
vật là phôtphat canxi Ca
5
[(PO
4
)
3
(F,Cl,OH)].
ARABUXTA : giống cà phê lai có đặc tính thơm,ngon của cà phê Arabica, nhưng đồng thời cũng có sức
phát triển nhanh của cà phê Rôbuxta. Giống cà phê này tỏ ra có nhiều triển vọng tốt về mặt kinh tế.
Nó được tạo ra trong những năm gần đây do các nhà nông học Capôt và Đubelin.
ARIAN : (Aryen) tên những bộ tộc người da trắng đã xâm nhập miền Bắc Ân Độ vào thời Cổ Đại. Có
lẽ họ là dân cư gốc ở vùng bờ biển phía đông Địa Trung Hải, gần gũi với tổ tiên những người sống
ở vùng núi Anpơ. Ngôn ngữ thuộc nhóm Ân-Âu. Sau nay,đôi khi thuật ngữ Arian cũng được dùng
một cách không có cơ sở đẻ chỉ các bộ tộc người da trắng nói chung và tổ tiên của những người da
trắng ở Bắc Âu nói riêng.
Từ Arian có nghĩa là "người cao quý", vì vậy phát xít Đức trước đây đã dựa vào ý nghĩa này để
tự coi là dân tộc thượng đẳng và biện hộ cho hành động tàn sát các dân tộc khác mà họ cho là hạ
đẳng.
ATBET : X. Amiăng
ATLAT : tên chung chỉ các tập bản đồ địa lí, lịch sử, thiên văn vv vì trên bìa của những tập bản đồ
xuất bản lần đầu tiên có vẽ tượng thần Atlat vác quả địa cầu trên vai (Trong thần thoại Hi Lạp,
Atlat là con của thần Titang Đapê và là anh em ruột với thần Prômêtê, người đã đem ngọn lửa cho
loài người. Do thần Atlat chống lại Dơt, vị thần chúa tể thế giới, nên đã bị trừng trị phải giơ vai
gánh đỡ cả bầu trời). Tất cả các tập bản đồ in sau này, tuy bìa không vẽ tượng thần Atlat nữa, nhưng
theo thói quen, người ta vẫn gọi chung là Atlat (kể cả một số tập tranh ảnh của các môn khoa học

khác, như sinh học vv ).
ATMÔTPHE : đơn vị đo khí áp, tính bằng áp suất gây ra bởi một cột thuỷ ngân cao 760mm, (có khối
lượng riêng bằng: 13,5951 g/cm
3
,ở nhiệt độ 0
o
C và tại nơi có gia tốc trọng trường bằng 980,665
cm/s
2
).
ATÔN : (Atoll) đảo san hô có hình vành khăn,thành hình trong các vùng biển nhiệt đới. Địa hình
tương đối bằng phẳng, chỉ cao hơn mặt biển khoảng vài mét. Chu vi đảo có thể từ 2 đến 90km. Đảo
được hình thành do sự tích luỹ xác các loại san hô,sinh sống ở vùng biển nóng, bám quanh sườn
những đỉnh núi đá ngầm dưới đáy đại dương. Khi trồi lên mặt nước, các đảo này bao giờ cũng có
hình vành khăn. Dừa là loại thực vật sinh sống phổ biến trên các atôn.
AXƠTÊCH : (azteques) dân tộc sống ở vùng núi cao phía nam Mêhicô. Người Axơtêch đã từng có
một tổ chức chính trị, một nền văn hoá khá cao và chữ viết riêng. Từ thế kỉ 16, quốc gia của người
Axơtêch đã bị bọn thực dân Tây Ban Nha xâm lược và tiêu diệt. Những di tích của nền văn hoá
này hiện nay còn lại nhiều tượng đá, nhiều nền cũ của các công trình xây dựng trong vùng núi cao
ở Trung Mĩ.
ÁM TIÊU SAN HÔ : khối san hô ngầm hình thành ở dưới mặt nước biển, nhiều khi có tác dụng cản trở
và gây nguy hiểm cho việc đi lại của tàu bè trên biển ( nhất là ở ven bờ các đảo vùng nhiệt đới).
Dải ám tiêu san hô dài và lớn nổi tiếng trên thế giới là: "Dải ám tiêu chắn lớn " ở đông bắc lục địa
Ôxtrâylia .
Á NHIỆT ĐỚI : đới tự nhiên phụ có những đặc điểm gần giống như nhiệt đới, nhưng thấp hơn một bậc.
Đới này có những đặc điểm chung:
- có vị trí chủ yếu nằm giữa khoảng các vĩ độ 30-40
o
Bắc và Nam, giữa ôn đới và nhiệt đới.
- nhận được một lượng bức xạ khá lớn : 70-100 Kcal/cm

2
(không kể miền núi cao).
- có nhiệt độ trung bình các tháng trong năm từ 4
o
C đến trên 20
o
C.
- có mùa đông khá lạnh và có thể có băng giá.
Còn gọi là: cận nhiệt đới (không coi là đới phụ của nhiệt đới) X. Đới cận nhiệt.
ÁP THẤP NHIỆT ĐỚI : khu vực khí xoáy có đường kính 200-300 km,thường hình thành ở các vùng
biển nhiệt đới,trong khoảng từ vĩ tuyến 5
o

đến chí tuyến. Ap suất khí quyển ở trung tâm khu vực
thường xuống thấp dưới 1000 mb
.
Gió từ phía ngoài thổi vào tâm theo chiều ngược kim đồng hồ ở
Bắc bán cầu với tốc độ cấp 6. Ap thấp nhiệt đới thường gây ra thời tiết âm u,có gió, mưa. Một số
khu áp thấp nhiệt đới trong quá trình phát triển có thể chuyển thành bão, ngược lại một số cơn bão
khi đổ bộ vào đất liền, yếu đi cũng có thể chuyển thành các khu áp thấp nhiệt đới.
ẢNH HÀNG KHÔNG : ảnh chụp các vùng đất đai từ trên cao bằng máy bay hoặc trực thăng chuyên
dụng. Ảnh hàng không được sử dụng nhiều trong ngành quân sự, ngành vẽ bản đồ cũng như
ngành điều tra tài nguyên, khoáng sản. Ưu điểm chính của ảnh hàng không là cung cấp được những
hình ảnh chính xác và chi tiết về các vùng đất đai có phạm vi rộng lớn cũng như các vùng mà con
người khó đặt chân tới được.
ẢNH VỆ TINH : ảnh chụp những vùng đất đai rộng lớn trên bề mặt trái đất bằng các vệ tinh do con
người phóng lên, hoạt động ở những quỹ đạo khác nhau, với những mục đích nhất định.
ẢNH VIỄN THÁM : ảnh chụp từ xa nhờ những phương tiện thăm dò hiện đại như các tên lửa, các vệ
tinh, các tàu vũ trụ vv
ẢO ẢNH SA MẠC : hình ảnh không thực, tạo thành một ảo ảnh,do hiện tượng ánh sáng bị khúc xạ khi

đi qua các lớp không khí có mật độ khác nhau trên sa mạc. Ví dụ: những người đi trên sa mạc có
thể nhìn thấy ở xa xa trước mặt có hồ nước, có làng,xóm vv nhưng đi mãi mà vẫn không tới được,
vì những hình ảnh nhìn thấy đó chỉ là những hình ảnh phản xạ của những đối tượng ở cách đó rất
xa.
ĂN MÒN : (Corrosion) hiện tượng phá hoại đá do tác động hoá học của nước trong tự nhiên (nước có
chứa CO
2
) . Đá vôi và các loại đá dễ hoà tan trong nước có thể bị hoạt động ăn mòn mà hình thành
nên các dạng địa hình Cacxtơ khác nhau.
ẨM KẾ : dụng cụ dùng để đo độ ẩm của không khí Âm kế có nhiều loại. Điển hình là loại ẩm kế
tóc,được cấu tạo theo nguyên tắc: sợi tóc của người có khả năng thay đổi chiều dài rất nhạy, phù
hợp với độ ẩm của không khí. Trong ẩm kế,sợi tóc được gắn với một kim chuyển động trên mặt
khung có khắc độ. Khi chiều dài của sợi tóc thay đổi theo độ ẩm,thì kim cũng quay theo, chỉ vào số
đo độ ẩm tương ứng.
ẤN - ÂU : (indo-europeen) nhóm ngôn ngữ hiện đang được sử dụng của nhiều dân tộc sống chủ yếu ở
châu Âu và ở một số nơi khác thuộc châu A,như Ân Độ, Iran vv Nhóm dân tộc đang nói ngôn
ngữ Ân - Âu cũng được gọi là nhóm dân tộc Ân -Âu.
B
BACBA : (barbara) trước đây,người Hi Lạp gọi tất cả các dân tộc khác, kể cả người La Mã, có nền
văn minh khác của họ là Bacba. Trong lịch sử, thuật ngữ Bacba dùng để chỉ các đội quân đã
xâm lược và lật đổ đế quốc La Mã ( từ thế kỉ 4 đến thế kỉ 6). Nói chung, thuật ngữ Bacba chỉ
các dân tộc ngoại lai với ý nghĩa khinh miệt.
BACKHAN : cồn cát hình lưỡi liềm, hình thành trong các sa mạc do tác động của gió. Bộ phận lồi
của hình lưỡi liềm bao giờ cũng quay về hướng gió thổi. Backhan có hai sườn không đối xứng:
sườn hướng gió thoải hơn sườn khuất gió. Cồn cát thường cao từ 30m trở lên và có thể di
chuyển với tốc độ mỗi năm vài chục hoặc vài trăm mét, làm cho nhiều ruộng, vườn, nhà cửa bị
vùi lấp.
BADAN : loại đá phún xuất kiềm, màu xẫm, có tinh thể mịn, đặc trưng cho những vùng có dung
nham núi lửa. Đá badan thường phủ những diện tích rộng hàng trăm, hàng nghìn km
2

. Đá được
dùng làm vật liệu xây dựng. Khi bị phân huỷ, trở thành loại đất đỏ phì nhiêu, thuận lợi cho
việc trồng các loại cây công nghiệp quý như: cao su, cà phê, hồ tiêu vv
BÃI BỒI : bộ phận của thung lũng sông do phù sa bồi đắp, thường bị ngập nước vào mùa lũ. Kích
thước của bãi bồi rộng hẹp, tuỳ thuộc vào vị trí của nó trong thung lũng sông và chiều rộng của
các dòng sông. Ơ gần cửa sông và trong các thung lũng lớn, bãi bồi có thể dài, rộng hàng chục
km. Đất trên các bãi bồi thường phì nhiêu, có thể canh tác được vào mùa nước cạn.
BÃI TRIỀU : dải đất thấp ven biển bị ngập nước lúc triều lên và lộ ra lúc triều xuống. Bãi triều
thường là nơi có đầm lầy hoặc rừng ngập mặn.
B.A.M. : (Baikal-Amour-Magistral) tên viết tắt chỉ đường xe lửa chạy điện trên lãnh thổ Liên bang
Nga (ở phía bắc đường sắt cũ xuyên Xibia) nối vùng hồ Baican với vung sông Amua, dài trên
4.000km. Đường được hoàn thành vào năm 1987. Dọc theo đường này, có tới 4.000 công trình
xây dựng lớn, trong đó có khoảng trên 150 cầu dài hàng trăm mét.
BAN TU : tên chỉ các tộc người da đen sống ở phía nam vùng xích đạo châu Phi, họ có ngôn ngữ
gần nhau, nhưng thuộc nhiều dân tộc khác nhau. Người Ban tu có tóc quăn, thân hình cao lớn
(từ trung bình trở lên), sinh sống chủ yếu về săn bắn, chăn nuôi trâu, bò. Một số ít cũng làm
nông nghiệp.
BÁN BÌNH NGUYÊN : khái niệm cũ chỉ loại bình nguyên được hình thành do hoạt động xâm thực
của nước chảy, làm cho địa hình hạ thấp. Kết quả là địa hình có dạng tương đối bằng phẳng, mềm
mại với những thung lũng sông mở rộng. Hiện nay, người ta dùng thuật ngữ bề mặt san bằng để
chỉ loại địa hình này.
BÁN CẦU : (nửa cầu) bộ phận của Địa cầu khi chia đôi thành hai nửa bằng nhau.
- nếu mặt chia cắt là mặt phẳng xích đạo, thì nửa cầu có chứa cực Bắc là bán cầu Bắc,
nửa cầu có chứa cực Nam là bán cầu Nam.
- nếu mặt cắt là mặt phẳng chứa vòng kinh tuyến 20
o
T - 160
o
Đ, thì nửa cầu trên đó có
các châu lục Âu, A, Phi, Ôxtrâylia là bán cầu Đông, nửa cầu trên đó có toàn bộ châu Mĩ là

bán cầu Tây. Việc phân chia hai bán cầu Đông, Tây theo vòng kinh tuyến 20
o
T , 160
o
Đ có
thuận lợi là bảo đảm được sự toàn vẹn của lãnh thổ nước Anh khi biểu hiện nó trên bán cầu
Đông.
BÁN ĐẢO : bộ phận đất liền nhô ra biển hoặc đại dương, có 3 mặt tiếp giáp với nước, còn một mặt
gắn với lục địa. Ví dụ: bán đảo Đông Dương, bán đảo Triều Tiên vv
BÁN HOANG MẠC : 1 kiểu cảnh quan ở các vùng có khí hậu khô hạn
2 đới tự nhiên trên lục địa, có vị trí giữa các đới thảo nguyên và hoang
mạc (trong các vòng đai ôn đới và cận nhiệt) hoặc giữa các đới hoang mạc và xavan (trong vòng
đai nhiệt đới). Đới bán hoang mạc được phân bố trên khắp các lục địa (trừ Nam Cực), chủ yếu ở
các vùng giữa và gần bờ phía tây vùng vĩ độ thấp, có khí hậu lục địa khô khan. Lượng mưa hàng
năm không quá 300mm (ít hơn lượng nước bốc hơi 5 - 6 lần). Mùa hạ nóng (nhiệt độ trung
bình từ 20 đến 30
o
C), mùa đông lạnh (ở ôn đới bán cầu Bắc, nhiệt độ trung bình tháng 1 dưới
0
o
C, ở cận nhiệt đới từ 0 đến 10
o
C, ở nhiệt đới từ 12 đến 20
o
C).
Thổ nhưỡng chủ yếu là đất xám nhạt, đôi chỗ có đất mặn. Thực vật chính là các loài cây gai,
cây lá bóng hoặc cây bụi và cỏ. Đới bán hoang mạc có ở Trung A, ở châu Phi (phía nam
Xahara), ở Nam Mĩ và ở Ôxtrâylia.
BÁN NHẬT TRIỀU : loại hình nước triều lên xuống theo chế độ mỗi ngày có hai lần lên và hai lần
xuống. Ví dụ : thuỷ triều ở bờ biển phía Đông miền Nam nước ta. Chế độ bán nhật triều là chế độ

hoạt động của thuỷ triều ở phần lớn những vùng biển mở rộng ra đại dương, không bị các
đảo và quần đảo che chắn.
BẢN ĐỊA : tại chỗ, có gốc ở địa phương. Ví dụ : dân bản địa là dân sinh sống lâu đời tại địa
phương.
BẢN ĐỒ CHUYÊN MÔN : bản đồ biểu hiện sự phân bố những hiện tượng và quá trình có liên quan
đến một ngành chuyên môn,có mục đích và tính chất chuyên dụng như: bản đồ hàng hải, bản đồ
hàng không vv
BẢN ĐỒ ĐỊA LÍ : hình vẽ thu nhỏ bề mặt Trái Đất hoặc một bộ phận của bề mặt Trái Đất trên mặt
phẳng, dựa vào các phương pháp toán học, phương pháp biểu hiện bằng kí hiệu để thể hiện các
thông tin cần thiết về địa lí.
Về nội dung, các bản đồ địa lí được phân ra hai nhóm lớn: bản đồ địa lí tự nhiên và bản đồ
địa lí kinh tế xã hội. Trong mỗi nhóm lại có những bản đồ chuyên đề, thể hiện những thông tin
về một loại yếu tố hoặc hiện tượng địa lí như: bản đồ địa hình, bản đồ khí hậu, bản đồ thuỷ
văn, bản đồ dân cư, bản đồ công nghiệp, bản đồ nông nghiệp vv
Các bản đồ địa lí chuyên đề rất phong phú về đề tài và về phương pháp thể hiện. Có những
bản đồ phân tích chỉ quan tâm đến việc thể hiện một mặt cụ thể nào đó của đề tài như: bản đồ
phân bố các thành phần dân tộc, bản đồ mật độ dân số vv ,nhưng cũng có những bản đồ tổng
hợp lại quan tâm tương đối đầy đủ đến các mối quan hệ giữa các yếu tố (cả về mặt số lượng
cũng như chất lượng) như: bản đồ sản xuất nông nghiệp, bản đồ địa lí công nghiệp vv
Trên bản đồ, việc biểu hiện các lãnh thổ lớn bao giờ cũng có những biến dạng về phương
hướng, về khoảng cách và về diện tích.
Cơ sở của việc vẽ bản đồ là lưới chiếu (mạng lưới kinh vĩ tuyến). Để giúp cho việc sử dụng
bản đồ được thuận tiện,trên bản đồ bao giờ cũng có ghi tỉ lệ và bảng chú giải.
Tỉ lệ bản đồ có thể phân ra: tỉ lệ lớn (> 1/200.000), tỉ lệ trung bình (từ 1/200.000 đến
1/1.000.000) và tỉ lệ nhỏ ( < 1/1.000.000).
Số lượng địa danh và kí hiệu ghi trên bản đồ phụ thuộc vào tỉ lệ bản đồ, bởi vì khi biểu hiện
diện tích 1km
2
mặt đất thực tế lên bản đồ, thì với :
- tỉ lệ 1/1.000, diện tích 1km

2
trên bản đồ là 1m
2
- tỉ lệ 1/10.000 " " " " " 1dm
2

- tỉ lệ 1/100.000 " " " " " 1cm
2
- tỉ lệ 1/1.000.000 " " " " " 1mm
2
Tỉ lệ bản đồ càng nhỏ, những chi tiết ghi trên bản đồ càng bị hạn chế, do đó số lượng các
đối tượng lựa chọn để ghi lên bản đồ càng phải giảm bớt.
BẢN ĐỒ HỌC : khoa học nghiên cứu về lí luận, phương pháp và các biện pháp kĩ thuật để xây dựng
bản đồ,sử dụng bản đồ cũng như các sản phẩm khác có liên quan đến bản đồ như : quả địa cầu, các
mô hình, lát cắt
BẢN ĐỒ TÔPÔ : loại bản đồ có tỉ lệ lớn (từ 1/200.000 trở lên) biểu hiện một cách chính xác và chi
tiết mặt đất các lãnh thổ. Các yếu tố biểu hiện bao gồm : vị trí, hình dáng lãnh thổ, các đặc
điểm địa hình (bằng các đường bình độ), và những đối tượng địa lí cụ thể cố định trên lãnh thổ
(bằng các kí hiệu) như : đường xá, thành phố, làng xóm vv Hai mép bên phải, bên trái bản đồ
bao giờ cũng trùng với hướng của các đường kinh tuyến.
BẢN ĐỒ XINÔP : bản đồ phục vụ cho việc dự báo thời tiết. Trên bản đồ Xinôp có ghi vẽ những số
liệu, những kí hiệu về nhiệt độ,khí áp,độ ẩm,về hướng di chuyển của các khối khí,các phrông
vv
BẢN SẮC DÂN TỘC : tính bền vững và độc đáo của dân tộc thể hiện trong truyền thống về ngôn
ngữ, tư duy,nghệ thuật,phong tục,tập quán vv
BAO BAP : (Adansonia digitata) cây to ở vùng xavan nhiệt đới châu Phi và Ôxtrâylia. Thân cây
có chu vi từ 20 đến 30m, dự trữ được nhiều nước để sử dụng trong mùa khô. Quả có thể ăn được.
Cây bao bap sống được tới 4 - 5 nghìn năm.
BÁO : thú ăn thịt, thuộc họ Mèo, leo trèo giỏi, có lông màu vàng đốm đen, sống ở châu A,châu Phi
và châu Mĩ.

BÀO MÒN : (corrasion) tác dụng làm mòn các lớp đất đá khi bề mặt các lớp này chịu sự cọ xát của
những vật liệu rắn do các dòng nước chảy hoặc băng hà mang theo.
BẢO VỆ ĐẤT : hệ thống những biện pháp nhằm ngăn ngừa các hiện tượng : xói mòn, phá huỷ, ô
nhiễm đất cũng như việc sử dụng đất không hợp lí, kém hiệu quả.
BÃO : gió mạnh kèm theo mưa rất to do sự xuất hiện và hoạt động của các khu áp thấp rất sâu. Tốc
độ gió từ 65km/h trở lên. Bão thường có sức phá hoại rất lớn như : làm đổ cây cối, phá hoại nhà
cửa, gây ngập úng.
BÃO CÁT : hiện tượng gió mạnh cuốn theo cát bụi mù mịt, thường xảy ra ở các vùng hoang mạc
và bán hoang mạc. Rất nguy hiểm cho sự đi lại của người và súc vật trên sa mạc. Khối cát di
chuyển nhiều khi có thể vùi lấp hàng nghìn ha đất trồng trọt ở những vùng xung quanh.
BÃO TUYẾT : hiện tượng mưa tuyết lớn kèm theo gió mạnh, xuất hiện ở những vùng có khí hậu
lạnh.
BATLEN : (badland) thuật ngữ gốc tiếng Anh, chỉ loại địa hình bị xâm thực rất mạnh, nên có một
hệ thống khe rãnh dày đặc, thường gặp ở những miền trước núi hoặc đồi thấp có phủ trầm tích
sét, sét pha, nhưng không có lớp phủ thực vật ( do đã bị phá huỷ). Loại địa hình này không
những không thích hợp cho việc canh tác mà còn gây nhiều khó khăn, trở ngại cho việc giao
thông, đi lại.
BATÔLIT : khối đá xâm nhập lớn, thuộc loại đá granit, thường không có hình thù nhất định, nằm
xen giữa các lớp đá trầm tích và chiếm những diện tích rộng hàng trăm km
2
.
BẮC CỰC : khu vực ở xung quanh cực Bắc, phía nam được giới hạn ở đường đẳng nhiệt 10
o
C về
mùa hạ. Nằm trong khu vực Bắc cực có Bắc Băng Dương, vùng rìa phía bắc của các đại lục
Âu - A, Bắc Mĩ và các đảo phụ cận. Diện tích khu vực rộng khoảng 25 triệu km
2
, trong đó 3/5
là biển và đại dương, thường xuyên bị băng bao phủ. Chiều dày của lớp băng từ 2 đến 4m.
Trong khu vực Bắc cực cũng có nhiều núi băng trôi, hầu hết theo hướng từ đông sang tây. Khu

vực Bắc cực có khí hậu lạnh giá, nhiệt độ trung bình tháng 1 ở bộ phận trung tâm vào khoảng -
40
o
C .Nhiệt độ thấp nhất ghi được là - 52
o
C ,cao nhất là +6
o
C . Lượng mưa dao động từ 100mm ở
trung tâm đến 400mm ở rìa phía nam. Độ bốc hơi rất yếu, vì vậy không khí ở đây lúc nào cũng bão
hoà hơi nước. Đêm cực trong khu vực kéo dài từ vài ngày ở 66
o
33' B đến 179 ngày ở ngay điểm cực
Bắc. Kiểu cảnh quan chủ yếu trong khu vực là đới băng tuyết vĩnh cửu và đài nguyên.
BĂNG BIỂN : Lớp băng mỏng dày từ 2 đến 4m hình thành ở lớp nước trên mặt của các biển và
đại dương, về mùa đông trên các vùng vĩ tuyến cao. Về mùa hạ, lớp băng này nứt vỡ thành từng
mảng, trôi theo các dòng hải lưu, nhiều khi chờm ghếch lên nhau thành các khối băng trôi cao
tới 8 - 10m.
BĂNG HÀ : hình thức di chuyển chậm của các khối băng lớn từ cao xuống thấp, doc theo các sườn
hoặc thung lũng núi ở các miền núi cao có băng tuyết. Các khối băng này được hình thành do
quá trình tích tụ và bị nén chặt của một khối lượng lớn tuyết trên các núi cao. Tốc độ di chuyển
của băng hà rất khác nhau, có thể từ 10 đến 100m/năm. Tốc độ lớn nhất quan sát được là tốc độ
của một số băng hà trên đảo Grơnlen (10 - 40m/ngày).
Trong quá trình di chuyển,ngay các bộ phận trong nội bộ một băng hà cũng có tốc độ khác
nhau, vì vậy băng hà thường có nhiều khe nứt, chiều rộng đôi khi đạt tới vài mét và chiều sâu tới
vài chục mét. Các khe nứt này thường có một lớp tuyết mỏng phủ kín, nên rất nguy hiểm đối
với những nhà thám hiểm, nghiên cứu băng hà.
Trong quá trình di chuyển, băng hà cũng bào mòn các lớp đá, vận chuyển theo nó các khối
đá tảng ở trước lưỡi băng, ở hai bên sườn hoặc ở giữa (nếu có sự gặp nhau của hai băng hà) tạo
thành các dải đôi thạch đầu, đôi thạch bờ và đôi thạch giữa.
Về mùa đông, dòng chảy của băng hà bao giờ cũng kéo dài, lấn xuống dưới đường giới hạn

tuyết. Về mùa xuân, khi bộ phận đầu của lưỡi băng hà tan thành nước, băng hà lại rút lui về phía
trên đường giới hạn tuyết.
Nước băng tan là nguyên nhân gây ra các trận lũ mùa xuân của các sông bắt nguồn ở các
vùng núi cao. Băng hà có ở hầu khắp các châu lục (trừ Ôxtrâylia).
BĂNG HÀ HỌC : Khoa học nghiên cứu về nguồn gốc phát sinh, sự phát triển, các hoạt động và sự
phân bố địa lí của các băng hà trên bề mặt Trái Đất. Hiên nay, các băng hà bao phủ khoảng trên
10% diện tích các lục địa và giữ lại một khối lượng nước ngọt bằng khoảng 240 triệu km
3
.
BĂNG KẾT VĨNH CỬU : lớp băng phủ lâu dài (từ hàng chục đến hàng vạn năm) ở trên mặt và cả
ở trong các lớp đất sâu của những vùng có khí hậu rất lạnh ( vùng hai cực và trên các núi cao).
BĂNG LỤC ĐỊA : lớp băng cứng và dày ( từ vài trăm mét đến 1500m) ,bao phủ những diện tích
rộng lớn trên các đảo vùng Bắc cực ( Grơnlen, Bapphin vv ) và trên lục địa Nam cực. Băng lục
địa luôn luôn di chuyển từ những nơi cao ở vùng trung tâm ra vùng ngoài rìa, rồi trườn xuống
biển. Khi đứt gãy, trở thành các núi băng trôi. Độ cao của băng nổi trên mặt nước biển thường
từ 30 đến 50m. Các núi băng này rất nguy hiểm cho tàu bè đi lại trong các biển và đại dương
vùng gần cực.
BẬC THỀM : dạng địa hình bồi tụ trông giống như những bậc thềm, được hình thành trong các
thung lũng sông, trên các dải bờ biển, bờ hồ do kết quả hạ thấp mực nước của lòng sông, của
biển hay của hồ, khi các loại địa hình này bị nâng cao.
BECBE : tộc người sinh sống trước đây ở các vùng núi thuộc Bắc Phi. Tôn giáo chính của họ là đạo
Hồi. Ngôn ngữ Becbe cũng là ngôn ngữ cổ nhất ở vùng này ( hiện nay còn được dùng ở một số
vùng núi thuộc các quốc gia Angiêri và Marôc). Sau này người Becbe chịu ảnh hưởng của văn
hoá và ngôn ngữ Aráp, nên được gọi là người Becbe - Aráp.
BENGALI : ngôn ngữ của các tộc người sinh sống ở vùng Bengan, ở phía đông bắc bán đảo Ân Độ.
BENTÔT : thuật ngữ chỉ chung các loài sinh vật sinh sống ở đáy các biển, đại dương hoặc ở đáy các
hồ nước ngọt.
BÊĐUIN : (Bédouins) thuật ngữ chỉ các tộc người Aráp sống du mục trong các hoang mạc ở Bắc
Phi và Trung Đông.
BỀ MẶT SAN BẰNG : dạng địa hình tương đối bằng phẳng trên các lục địa được hình thành do tác

động bào mòn của các ngoại lực. Dạng địa hình này trước đây được gọi là bán bình nguyên. X.
Bán bình nguyên.
BẾN CẢNG : khoảng bờ biển, bờ hồ, bờ sông được che khuất sóng, gió vv thuận lợi cho việc ra vào,
trú ẩn của tàu, thuyền , xây dựng các công trình phục vụ cho việc giao thông, vận tải và bốc dỡ
hàng hoá.
BICH BANG : (Bigbang=tiếng nổ lớn) thuyết về sự hình thành vũ trụ,cho rằng vũ trụ lúc đầu chỉ là
một khối vật chất hết sức nhỏ bé,đậm đặc và vô cùng nóng goị là"nguyên tử nguyên thuỷ".Các
nhà thiên văn học cũng gọi nó là "trứng vũ trụ."Cách đây 15 tỉ năm,sau một vụ nổ lớn,vũ trụ
được hình thành.Hiện nay nó đang giãn nở và loãng dần.
BIÊN ĐỘ NHIỆT ĐỘ : khoảng chênh lệch giữa nhiệt độ cực tiểu và nhiệt độ cực đại ghi đượ trong
một khoảng thời gian (một ngày, một tháng, một năm ). Ví dụ : ở một địa phương, nhiệt độ cực
tiểu và cực đại trong một ngày đêm là 28
0
C và 33
0
C, chúng ta nói : biên độ nhiệt độ trong ngày hôm
đó là 5
0
C, ở một địa phương khác, nhiệt độ cực tiểu và cực đại trong một tháng là: 18
0
C và 25
0
C ,
chúng ta nói : biên độ nhiệt độ trong tháng đó là : 7
0
C vv
BIÊN GIỚI : đường ranh giới phân chia lãnh thổ có chủ quyền của quốc gia này với quốc gia khác.
Biên giới quốc gia bao gồm : đường biên giới trên đất liền ,đường biên giới trên biển và đường
biên giới trên không. Đường biên giới trên đất liền được vạch ra trên cơ sở thoả thuận giữa các
quốc gia có lãnh thổ tiếp giáp, kề nhau. Đường biên giới quôc gia trên đất liền thường dựa vào

các yếu tố tự nhiên như: địa hình (sống núi, dải đồi, thung lũng ), thuỷ văn (dòng chảy của
sông, suối, ) hoặc theo các đường quy ước như các đường thẳng nối các điểm mốc, các đường
kinh tuyến, vĩ tuyến vv Đường biên giới trên biển là ranh giới phía ngoài của vùng lãnh hải
của quốc gia đó được quy định đúng theo luật pháp và tập quán quôc tế . Trong điều kiện lãnh
hải của các quốc gia kề nhau hoặc đối diện có sự chồng lấn lên nhau, thì đường biên giới trên
biển sẽ được hoạch định thông qua thương lượng giữa các bên có liên quan. Còn đường biên
giới trên không là đường chiếu thẳng từ biên giói trên đất liền và trên biển lên không ( đến một
độ cao nào, thì hiện nay chưa có một văn bản pháp lí nào quy định rõ).
BIẾN CHẤT : hiện tượng thay đổi tính chất ( cả về mặt vật lí và hoá học) của các loại đá măcma và
trầm tích thường trong điều kiện có nhiệt độ cao và áp lực lớn. Đièu kiện này chỉ có thể xảy ra khi
các lớp đá bị vùi sâu trong lòng đất hoặc nằm cạnh các lò măcma nóng chảy của núi lửa.
Một số loại đá biến chất thưòng gặp là: đá gơnai, đá hoa,đá phiến thạch mica vv
BIỂN : bộ phận của đại dương, nằm ở gần hoặc xa đất liền,, nhưng có những đặc điểm riêng, khác
với vùng nước của đại dương bao quanh (như về nhiệt độ, độ mặn, chế độ thuỷ văn, các vật liệu
trầm tích đáy, các sinh vật vv ). Theo thói quen, thuật ngữ biển còn dùng để gọi những hồ có
diện tích rất lớn như: biển Aran, biển Caxpi, biển Chết vv Tuỳ theo vị trí (nằm ở ven bờ hoặc
ăn sâu vào các lục địa) mà biển lại phân ra: biển ven bờ, biển nội lục hoặc biển kín Biển ven
bờ là những biển nằm sát ngay bờ các lục địa . Phần lớn các biển này đều rộng, nông, có chế độ
thuỷ văn riêng và thường mở rộng ra đại dương.
Cũng có khi phía ngoài bi ển có đảo hoặc quần đảo ngăn cách với đại dương như: biển Nhật
Bản, biển Măngsơ Biển nội lục hoặc biển kín là những biển nông,nằm lõm sâu vào các lục địa,
chỉ thông với đại dương nhờ những eo biển hẹp như Biển Đen, biển Bantich vv Đặc biệt, cũng
có biển nằm giữa đại dưong,nhờ có tính độc đáo về sinh vật như: biển Xacgat với rừng tảo nổi
ở giữa Đại Tây Dương
BIỂN THOÁI : hiện tượng nước biển rút ra xa bờ lục địa, làm cho diện tích đất liền tăng lên. Nguyên
nhân của hiện tượng này có thể là do mực nước của đại dương thế giới hạ thấp xuống hoặc do sự
vận động nâng lên của lục địa. Hiện tượng này trái ngược với hiện tượng biển tiến. Hiện tượng biển
tiến và thoái là những quá trình xảy ra rất chậm chạp, lâu dài và kế tiếp nhau trong suốt quá trình
phát triển của các lục địa.
BIỂN TIẾN : hiện tượng nước biển tràn vào đất liền, phủ ngập các vùng đất thấp ven biển do

nguyên nhân lục địa dần dần bị hạ thấp hoặc do mực nước biển dâng cao trong quá trình tan
băng trên các lục địa. Biển tiến là hiện tượng ngược lại với biển thoái.
BIỂU ĐỒ : hình thức trực quan hoá các số liệu thống kê trong các mối quan hệ giữa số lượng,thời
gian và không gian bằng các cấu trúc đồ hoạ. Ví dụ: biểu đồ cơ cấu các ngành công nghiệp,
biểu đồ phát triển dân số thế giới, biểu đồ mật độ dân số, biểu đồ phân bố dân cư vv
Về hình thức biểu hiện, biểu đồ có các loại : hình tròn, hình cột, hình vuông, đường biểu
diễn vv
BÌNH NGUYÊN : loại địa hình thấp,rộng, bề mặt tương đối bằng phẳng, đôi khi có xen đồi hoặc
gợn sóng. Độ cao trên mực nước biển không quá 200m là bình nguyên thấp hay vùng đất thấp.
Từ 200m đến 500m là bình nguyên cao hay vùng đất cao, trên 500m mà bề mặt vẫn tương đối
bằng phẳng và có sườn dốc là cao nguyên.( Cách phân loại trên đây phù hợp với các loại địa
hình bị băng hà bào mòn ở ôn đới . Đối với các loại địa hình ở nhiệt đới có lẽ về mặt hình thái
và độ cao có khác, nhưng chưa được nghiên cứu kĩ).
BÌNH SƠN NGUYÊN : bộ phận rộng lớn của địa hình miền núi, có bề mặt tương đối bằng phẳng,
đôi khi gợn sóng và bị nhiều thung lũng sâu cắt xẻ. Độ cao từ 500 đến 1000m. Thuật ngữ bình
sơn nguyên ít được sử dụng trong các tài liệu địa lí. Phần nhiều nó được thay thế bằng thuật
ngữ cao nguyên. Ví dụ : cao nguyên Trung Xibia, cao nguyên Iran vv Thực ra, khái niệm cao
nguyên có khác với bình sơn nguyên ở chỗ : cao nguyên bao giờ cũng có sườn rất dốc, còn
bình sơn nguyên thì không.
BIÔTIT : khoáng vật silicat màu đen, thành phần gồm có các ôxyt silic, nhôm, sắt, mangan và kali.
Còn gọi là mica đen.
BOM NÚI LỬA : khối dung nham đặc quánh hoặc đã đông cứng ( có đường kính tới vài mét) ở
miệng núi lửa bị đẩy bật lên không trung, kèm theo tiếng nổ khi núi lửa hoạt động.
BORA : loại gió lạnh, mạnh như gió bão thường xuất hiện trong những thánh mùa đông ở các
vùng bờ biển gần các dãy núi cao ven Hắc Hải và Địa Trung Hải. Nguyên nhân chủ yếu là do sự
chênh lệch khí áp đột ngột giữa biển ( khí áp thấp) và lục địa ( khi áp cao). Khi gió Bora thổi,
thường đem theo mưa tuyết lớn, kéo dài tới vài ngày.
BÓC MÒN : ( denudation) hiện tượng phá huỷ các loại đất đá do ngoại lực (nước, băng hà, gió v.v )
bằng cách bóc dần từng lớp mỏng trên mặt và vận chuyển các sản phẩm phong hoá đi nơi khác.
BÓN LÓT, BÓN PHÂN LÓT : biện pháp kĩ thuật trong nông nghiệp được thực hiện bằng cách bón

phân trước khi gieo hạt hoặc trồng cấy các cây trồng, nhằm mục đích cung cấp đầy đủ các chất dinh
dưỡng cho thực vật trong giai đoạn đầu của quá trình sinh trưởng.
BÓN THÚC, BÓN PHÂN THÚC : biện pháp kĩ thuật nông nghiệp được thực hiện bằng cách bón
thêm phân, chuẩn bị cho thực vật bước vào một giai đoạn quan trọng của quá trình sinh trưởng,
nhằm đẩy mạnh việc nâng cao năng suất. Ví dụ : bón thúc cho cây để chuẩn bị cho giai đoạn ra
hoa, kết quả vv
BÓNG THÁM KHÔNG : bóng bơm loại khí nhẹ, dùng trong các trạm nghiên cứu khí tượng để thả
lên các tầng khí quyển trên cao. Bóng thường mang theo một máy phát vô tuyến để chuyển về
mặt đất những thông tin về tình trạng của các yếu tố khí tượng trên cao như : nhiệt độ, khí áp,
gió vv
BÔXIT : loại đá trầm tích có màu hồng, nâu vv Thành phần chủ yếu gồm có : hyđrôxit nhôm lẫn
với các chất khác như : sắt, silic Từ bôxit có thể tách ra chất alumin ( Al
2
O
3
), nguyên liệu
chính để luyện nhôm trong các lò điện phân.
BỒI TÍCH : tác động bồi đắp và tích tụ phù sa của một con sông. Bồn địa : địa hình trũng, thấp,
dạng chậu hoặc lòng chảo, hình thành do kết quả của nhiều quá trình địa chất như : sự sụt lún
của một bộ phận vỏ Trái Đất, sự bào mòn của băng hà vv Bồn địa thấp nhất trên bề mặt Trái
Đất là bồn địa Tuôcphan , nằm ở phía đông dãy Thiên Sơn thuộc đất Tân Cương, Trung Quốc
(154m dưới mực nước biển). Có những bồn địa bị ngập nước, tạo thành các hồ như : hồ Caxpi,
hồ Aran vv Bồn địa còn gọi là vùng trũng.
BỜ BIỂN : dải đất tiếp xúc với mép nước biển và chịu tác động qua lại giữa biển và đất liền. Phạm
vi của dải bờ biển được giới hạn trên đất liền ở chỗ mực nước biển tràn vào xa nhất
khi thuỷ triều lên hoặc khi có gió bão, còn ở ngoài biển là khoảng nước, mà tác động của
sóng không còn ảnh hưởng gì đến đáy biển.
BỜ LỤC ĐỊA : bộ phận của rìa lục địa tương đối bằng phẳng, nằm ở phía ngoài dốc lục địa, có độ
dốc trung bình khoảng trên dưới 1/300, rộng từ 100 đến 1000km., và chấm dứt ở một vùng
có độ sâu từ 2000 đến 5000m. Ngoài bờ lục địa là đáy đại dương.

BUA : (Boers) dân tộc sinh sống ở Nam Phi, vốn là dòng dõi những người dân gốc Hà Lan di
cư đến đây vào giữa thế kỉ 17. Đã lập nen hai quốc gia : nước Cộng hoà Tranxvan và nước tự trị
Ôrêngiơ.
BỤI TINH THẠCH : ( Bụi vũ trụ) khối vật chất nhỏ, rải rác trong không gian vũ trụ với mật độ
tập trung thấp. Giả thuyết về sự hình thành Trái Đất của O. Xmit đã cho rằng : Trái Đất là một
thiên thể được hình thành từ một đám mây bụi tinh thạch. Những hạt bụi này, khi bị sức hút của
Trái Đất, rơi vào lớp khí quyển, bốc cháy sáng rực, trở thành các ngôi sao sa.
BÙN LỤC NGUYÊN : bùn trầm tích ở thềm lục địa có nguồn gốc từ những vật liệu trên lục địa, bị
xâm thực và bị cuốn trôi xuống biển theo các dòng chảy.
BÙNG NỔ DÂN SỐ : sự phát triển dân số vượt bậc về số lượng đã xảy ra ở các nước châu Âu vào
thế kỉ 19, khi tỉ lệ sinh vẫn không thay đổi, nhưng tỉ lệ tử giảm xuống rất thấp, nhờ những tiến
bộ về y tế, và nhờ việc cải thiện những điều kiện sinh hoạt.
Hiện nay, hiện tượng bùng nổ dân số vẫn đang xảy ra, chủ yếu trong các nước đang phát triển
ở châu Phi, châu A và châu Mĩ Latinh.
BỨC XẠ : quá trình toả năng lượng của một vật thể. Bức xạ mặt trời là quá trình toả năng lượng
của Mặt Trời ra khoảng không gian vũ trụ. Một phần xuống đến mặt đất dưới hình thức nhiệt
năng, làm cho mặt đất nóng lên. Mặt đất ban ngày tiếp thu được nhiệt năng của Mặt Trời, ban
đêm lại bức xạ ra không trung, rồi dần dần lạnh đi.
BƯNG : (miền Nam) chỗ đất trũng giữa cánh đồng, mùa khô không có nước đọng, mùa mưa thì nước
đọng khá sâu và có cỏ lác mọc. Mùa nước ở bưng thường có rất nhiều cá đồng.

C
CACAO : thuật ngữ có gốc từ tiếng địa phương của thổ dân Trung Mĩ, chỉ một loại cây trồng ở xứ
nóng, quả có nhiều hạt nhỏ nằm trong một vỏ cứng. Người Axơtếch xưa kia dùng hột cacao rang
vàng, tán nhỏ trộn với ngô (bắp) và ớt làm thức ăn. Bột cacao hiên nay được dùng phổ biến trên thế
giới để làm thức uống, làm kẹo và sôcôla. Ngày nay, cacao đã trở thành một cây thực phẩm có giá trị
kinh tế cao, được đem sang trồng ở nhiều vùng nhiệt đới châu Phi và châu A ( kể cả ở miền Nam
nước ta).
CACBON ĐIÔXIT : X. khí cacbônic
CACBON PHÓNG XẠ : tên gọi của chất đồng vị C

14
. Chất này có đặc tính tự phân huỷ trong một
khoảng thời gian nhất định. Người ta nghiên cứu tính chất tự phân huỷ của C
14
để có thể xác định
được tuổi của các hoá thạch chứa nó.
CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP : cuộc thay đổi lớn về kĩ thuật sản xuất từ lao động thủ công sang lao
động cơ giới với máy móc.Cuộc Cách mạng công nghiệp bắt đầu trước tiên ở nước Anh với ngành
dệt vào những năm 60 của thế kỉ 18 và cơ bản hoàn thành vào những năm 30 của thế kỉ 19. Cuộc
Cách mạng công nghiệp không chỉ hoàn toàn thay đổi kĩ thuật sản xuất, tạo ra cơ sở vật chất cho
chủ nghĩa tư bản ở châu Âu,mà còn mở đầu cho thời đại Đại công nghiệp cơ khí, mở rộng sự phân
công lao động xã hội, làm xuất hiện nhiều ngành sản xuất mới, xúc tiến sự hình thành các đô thị và
các trung tâm công nghiệp. Tiền đề của cuộc Cách mạng công nghiệp là những tiến bộ lớn lao về
lĩnh vực khoa học kĩ thuật trong thế kỉ 18 và thắng lợi của cuộc cách mạng xã hội chống phong
kiến của giai cấp tư sản ở Anh và Pháp trong các thế kỉ 17-18.
CÁCH MẠNG KHOA HỌC-KĨ THUẬT HIỆN ĐẠI : thuật ngữ dùng để chỉ cuộc cách mạng khoa học kĩ
thuật bắt đầu từ giữa thế kỉ 20, phân biệt với cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật đã xảy ra vào giữa
thế kỉ 19. Tiền đề của cuộc Cách mạng KHKT hiện đại là những phát minh về KHKT từ cuối thế kỉ
19 đến đầu thế kỉ 20. Cuộc Cách mạngKHKT hiện đại có 2 giai đoạn: giai đoạn 1 từ năm 1940 đến
năm 1970 và giai đoạn 2 từ năm 1970 đến nay. Đặc trưng cơ bản của giai đoạn đầu là: sự phát
triển mạnh mẽ các ngành khoa học kĩ thuật,phù hợp với thời kì khôi phục và phát triển nền kinh tế
thế giới đã bị kiệt quệ sau chiến tranh, tập trung vào bốn hướng chủ yếu : tăng cưòng khai thác các
nguồn năng lượng mới, mở rộng các cơ sở nguyên vật liệu, nâng cao năng suất lao động và đẩy
mạnh phạm vi nghiên cứu ra các đại dương và khoảng không vũ trụ. Đặc trưng của giai đoạn hai là
tập trung vào các hướng: a) thay thế và giảm bớt việc sử dụng các nguồn năng lượng,nguyên vật
liệu truyền thống, b) tăng cường trình độ tự động hoá trong công nghiệp, c) phát triển mạnh các
ngành công nghệ sinh học để có được những sản phẩm mới,có năng suất cao,phẩm chất tốt , d) phát
triển nhanh và không ngừng hoàn thiện kĩ thuật điện tử và tin học.
CÁCH MẠNG TRẮNG : thuật ngữ được dùng ở Ân Độ để chỉ sự thay đổi lớn lao trong ngành chăn
nuôi, nhờ đó mà năng suất sữa trâu, bò được tăng vượt bậc.

CÁCH MẠNG XANH : thuật ngữ được dùng để chỉ sự thay đổi lớn lao trong nông nghiệp, tạo ra một
quá trình tăng trưởng vượt bậc về sản xuất lương thực trong các nước đang phát triển, sau khi đã đưa
vào sản xuất đại trà một số giống lúa mới,có năng suất cao (chủ yếu là lúa mì và lúa nước). Mêhicô
và Ân Độ là những nước đã đi đầu trong cuộc Cách mạng xanh và đã thoát khỏi nạn đói trong những
năm giữa thế kỉ 20.
Hiện nay,ở Philippin đã thành lập Viện Nghiên cứu lúa quốc tế, chuyên nghiên cứu về cách lai tạo
ra những giống lúa mới, có năng suất cao. Những giống này đã được phổ biến và trồng ở nhiều nước
châu A.
CACTEN : tổ chức kết hợp nhiều xí nghiệp độc lập trong một ngành công nghiệp ( nhiều khi thuộc các
nước khác nhau) nhằm bảo vệ giá bán các sản phẩm bằng cách hạn chế việc sản xuất hoặc việc cạnh
tranh giữa các xí nghiệp với nhau.
CACXTƠ : loại địa hình độc đáo hình thành trong các lớp đá vôi. Trong địa hình cacxtơ thường có
những hang động, những cửa biến, cửa hiện của các dòng chảy vv Thuật ngữ cacxtơ bắt nguồn từ
tên một địa phương ở Nam Tư (cũ), nơi có những cao nguyên đá vôi, rất điển hình cho loại địa hình
này.
CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT : sự thay đổi có tính chất cách mạng dân chủ,chống phong kiến về chế độ
chiếm hữu và sử dụng ruộng đất. Ơ các nước tư bản,cải cách ruộng đất nhằm mục đích thúc đẩy sự
phát triển chủ nghĩa tư bản trong nông nghiệp và trong nền kinh tế nóí chung,còn ở các nước tiến
hành quá trình cách mạng dân tộc, dân chủ và xã hội chủ nghĩa,cải cách ruộng đất nhằm mục đích
xoá bỏ chế độ ruộng đất phong kiến,địa chủ, thực hiện khẩu hiệu"người cày coa ruộng" bằng cách
tịch thu hoặc trưng thu ruộng đất của địa chủ,quốc hữu hoá ruộng đất và chia cho nông dân.
CẢI TẠO TỰ NHIÊN : tổ hợp các biện pháp nhằm khắc phục những điều kiện tự nhiên không thuận lợi
để phục vụ cho những mục đích nhất định như : bảo vệ sản xuất, bảo vệ sức khoẻ cho con
người Việc đào hồ chứa nước, làm các công trình thuỷ lợi, trồng rừng vv đều là những công
trình cải tạo tự nhiên. Tuy nhiên, việc cải tạo tự nhiên phải hợp lí, thuận với các quy luật tự nhiên,
nếu không, tự nhiên sẽ "trả thù con người" và gây ra những hậu quả xấu không thể lường hết được.
CAMBRI : ( Cm) kỉ đầu tiên trong đại Cổ sinh, kéo dài trong khoảng 80 triệu năm. Trong kỉ Cambri đã
có sự phát triển của một số loài sinh vật đơn giản.
CAMPÔT : (Campos) thuật ngữ có gốc từ tiếng Bồ Đào Nha chỉ kiểu xavan có những dải rừng hành
lang trên các cao nguyên ở Braxin.

CANGURU : thú ăn cỏ ở châu Uc, có hai chân sau rất dài. Chiều cao khi đứng tới 1,5m. Di chuyển chủ
yếu bằng động tác nhảy. Canguru có cái túi ở bụng để đựng và nuôi con mới đẻ trong vòng 6 tháng.
CANHÔN : thuật ngữ gốc tiếng Tây Ban Nha chỉ loại thung lũng sông bị cắt xẻ sâu, hẹp, có sườn là
vách đá dốc đứng. Nổi tiếng nhất trên thế giới là các canhôn của sông Côlôrađô ở Hoa Kì (dài trên
3.000km, sâu tới 1.800m). Còn gọi là hẻm sông.
CANXIT : khoáng vật màu trắng, vàng hoặc hồng nhạt, có thành phần chủ yếu là cacbônat canxi
(CaCO
3
) nguyên chất hoặc lẫn manhê, sắt, mangan, kẽm vv
CÁN CÂN ẨM : tương quan so sánh giữa lượng nước rơi (mm) và lượng bốc hơi (mm) ở một địa điểm,
trong một khoảng thời gian nhất định (năm, tháng, vv ). Cán cân ẩm là dương, nếu lượng bốc hơi
nhỏ hơn lượng nước rơi, là âm nếu lượng bốc hơi lớn hơn lượng nước rơi.
CÁN CÂN BỨC XẠ : tương quan so sánh giữa lượng bức xạ thu được và mất đi. Có cán cân bức xạ khí
quyển và cán cân bức xạ mặt đất. Tham gia vào cán cân bức xạ khí quyển, trong phần thu có lượng
bức xạ trực tiếp, lượng bức xạ tán xạ của Mặt Trời, lượng bức xạ của mặt đất. Trong phần mất đi, có
lượng bức xạ của chính bản thân khí quyển hướng về mặt đất và ra khoảng không gian vũ trụ.
Tham gia vào cán cân bức xạ mặt đất, trong phần thu có lượng bức xạ trực tiếp và tán xạ của Mặt
Trời, của khí quyển. Trong phần mất đi,có lượng bức xạ nhiệt của chính mặt đất. Cán cân bức xạ
cũng có dương (nếu phần thu lớn hơn phần mất đi) và âm ( nếu phần thu nhỏ hơn phần mất đi).
CÁN CÂN NƯỚC : X. Cân bằng nước
CÁN CÂN THƯƠNG MẠI : tương quan so sánh về giá trị hàng hoá (hoặc giá trị tiền tệ) giữa việc nhập
khẩu và xuất khẩu của một nước. Sự so sánh này thường được biểu hiện dưới dạng một bảng thống
kê đối chiếu trong một khoảng thời gian nhất định.
Khi giá trị các hàng nhập khẩu tương đương với giá trị các hàng xuất khẩu thì cán cân thăng
bằng. Nếu giá trị các hàng nhập khẩu nhỏ hơn thì là xuất siêu, nếu lớn hơn thì là nhập siêu.
CẢNG : khu vực ở bờ biển hoặc ở bến sông có các công trình xây dựng và trang,thiết bị phục vụ cho
việc neo, đậu các tàu,thuyền, đổ bộ hành khách,bốc dỡ hàng hoá và thực hiện các dịch vụ sửa chữa kĩ
thuật, bảo quản hàng hoá, và quản lí các công việc khác thuộc phạm vi vận tải đường thuỷ.
CẢNG QUỐC TẾ : cảng lớn, nằm trên các đường giao thông quốc tế, được trang bị tốt,có trình độ quản
lí cao, có khả năng phục vụ cho các tàu nước ngoài ra,vào để bốc dỡ hàng hoá, sửa chữa và tiếp tế

nhiên liệu.
CẢNG TỰ DO : cảng có chế độ ưu đãi về mặt thuế quan. Cảng tự do có hai hình thức : cảng tự do hoàn
toàn và cảng tự do hạn chế. Các cảng tự do hoàn toàn không chịu sự kiểm soát của các cơ quan hải
quan của nước sở tại, hàng hoá ra vào cảng đều được miễn thuế xuất, nhập, còn đối với các cảng tự
do hạn chế, thì một số hàng hoá phải nộp thuế nhập khẩu và chịu sự kiểm soát của hải quan, một số
khác được miễn và cũng không chịu sự kiểm soát của hải quan.
CANHKINA : tên một giống cây thân gỗ to, có nguồn gốc ở Nam Mĩ, được đưa sang trồng ở Inđônêxia
để lấy chất Quinin có trong vỏ cây, dùng làm thuốc chữa sốt rét và chế rượu bổ.
CẢNH QUAN : ( landshaft ) theo nghĩa rộng có thể hiểu tương tự như thuật ngữ phong cảnh. Ví dụ :
cảnh quan miền núi, cảnh quan đồng bằng vv Đó là cảnh (nhìn thấy được) của một vùng, một khu
vực trên bề mặt Trái Đất, có những đặc điểm nhất định về thiên nhiên (địa hình, khí hậu, thuỷ văn,
động thực vật vv ) hoặc về những công trình do con người tạo ra như : nhà cửa, đồng ruộng, kênh
máng vv Trong các tài liệu địa lí, người ta thường nói tới các cảnh quan tự nhiên, cảnh quan văn hoá
hay nhân sinh vv Theo nghĩa hẹp, cảnh quan có thể hiểu là một đơn vị cơ bản của sự phân chia các
tông hợp thể lãnh thổ trong hệ thống phân vị địa lí tự nhiên. Đó là một bộ phận của lớp vỏ địa
lí,tương đối thuần nhất trong cấu trúc, khác với các bộ phận khác do tính đặc thù của sự kết hợp có
tính quy luật của các thành phần,các mối quan hệ bên trong và các mối liên hệ giữa nó với các đơn
vị thấp hơn (cảnh khu,cảnh diện vv )
CẢNH QUAN BĂNG TÍCH : cảnh quan của một bộ phận đất đai trên bề mặt Trái Đất, trước đây đã bị
băng hà bao phủ ( trong thời kì băng hà). Đặc điểm của loại cảnh quan này là có các sản phẩm do
băng hà tạo ra như : các dải đôi thạch, các đồi đôi thạch, các hồ băng hà, các cánh đồng băng tích
vv Cảnh quan băng tích rất phổ biến ở Phần Lan, ở Đông Âu vv
CAOLANH : đất sét trắng, có thành phần chủ yếu là khoáng vật Kaolinit ( Al
2
OH
2
Si
2
O
5

). Được sử
dụng trong công nghiệp hoá chất, công nghiệp giấy, sà phòng và làm đồ sứ.
CAO LƯƠNG : (Sorgho) cây lương thực phụ cho hạt, có nguồn gốc ở châu Phi, Ân Độ và Trung Quốc.
Thân cây cao, giống cây ngô, hạt mọc thành chùm ở trên ngọn.
CAO NGUYÊN : địa hình thuộc miền núi,có bề mặt tương đối bằng phẳng, hoặc gợn sóng, đôi khi có
đồi. Độ cao từ 500m trở lên. Cao nguyên bao giờ cũng có sườn rất dốc, nhiều khi trở thành vách
đứng. Về nguồn gốc, cao nguyên có thể hình thành do tác động bào mòn, san bằng lâu dài các loại
địa hình hoặc do bị một lóp đá phun trào dày như đá badan phủ lên trên mặt. Ơ nước ta, Mộc Châu là
một cao nguyên bóc mòn, còn Bảo Lộc là một cao nguyên bề mặt có phủ đá badan.
CARƯ : địa hình đá vôi bị cắt xẻ mạnh. Còn gọi là địa hình đá tai mèo. Những chỗ đá nhô lên, sắc,
nhọn cao từ vài cm đến vài chục cm. Loại địa hình này nhiều khi có diện tích rất rộng, tạo thành các
cánh đồng carư.
CATINGA : kiểu rừng thưa gồm các loại cây ưa hạn ở Braxin.
CÁT KẾT : loại đá trầm tích được hình thành do sự gắn kết các hạt cát bằng các loại xi măng silic,
canxi, ôxit sắt vv Tuỳ theo các loại chất gắn kết khác nhau, mà đá có các màu sắc từ xám sáng đến
hồng,đỏ gan gà vv Đá cát kết trước đây vẫn gọi là sa thạch. Cát kết được dùng làm đá mài dao, làm
cối đá hoặc làm đá xây dựng.
CẤM VẬN : chính sách ngăn cản,hạn chế,quan hệ kinh tế,thương mại của cộng đồng các quốc gia trên
thế giới đối với một nước bị coi là có ý đồ đe doạ hoà bình,an ninh quốc tế. Cấm vận có thể từng
phần hoặc toàn bộ đối với việc xuất, nhập khẩu các loại vũ khí, nguyên vật liệu, ngoại tệ, các thông
tin về khoa học-kĩ thuật, công nghệ vv Hiến chương Liên Hiệp Quốc cũng thừa nhận biện pháp
cấm vận coi như một biện pháp phòng ngừa, bảo vệ hoà bình thế giới. Việt Nam trước đây đã từng
bị Hoa Kì cấm vận. Chỉ từ tháng 2 năm 1994, lệnh này mới được bãi bỏ.
CÂN BẰNG NƯỚC : tương quan so sánh giữa lượng nước được cung cấp,lượng nước mất đi, lượng
nước còn lại trên phạm vi toàn Trái Đất hay ở một lãnh thổ ( một vùng, một lưu vực sông, một hồ
nước,một thửa ruộng vv ) trong một khoảng thời gian nhất định (năm, tháng, tuần ). Các đối tượng
tính toán bao gồm: toàn bộ lượng nước rơi,lượng hơi nước ngưng tụ, lượng dòng chảy trên mặt và
dưới đất, lượng bốc hơi, lượng nước giữ lại trong thổ nhưỡng, trong cơ thể sinh vật vv Cũng gọi
là : Cán cân nước.
CẬN NHIỆT ĐỚI : X. Đới cận nhiệt

CẤU TẠO TRÁI ĐẤT : theo dự đoán của các nhà khoa học thì Trái Đất hiện nay là một hành tinh đang
trong quá trình nguội dần. Cấu tạo của nó gồm có nhiều lớp đồng tâm. Lõi nằm ở trong cùng có bán
kính khoảng 3400km, được cấu tạo do các loại đá nóng chảy có tỉ trọng gần 12. Ngoài lõi là lớp
trung gian, có độ dày 2900km và tỉ trọng gần 5. Bên ngoài lớp trung gian là lớp đá quánh. Lớp này
được biết tới nhiều hơn, vì măcma bị nén ở đó có thể trào lên mặt đất thành các dòng dung nham
nóng đỏ. Trong lớp đá quánh cũng có những vận động chậm chạp của măcma dẻo. Ngoài cùng là lớp
vỏ mỏng gồm các loại đá nguội cứng. Lớp vỏ Trái Đất lại phân ra hai lớp : lớp vỏ đại dương, chủ
yếu gồm các loại đá nặng thuộc nhóm badan và lớp vỏ lục địa, dày hơn, nhưng có tỉ trọng nhỏ hơn,
chủ yếu gồm các loại đá nhẹ thuộc nhóm granit.
CẤU TRÚC DÂN SỐ : X. Kết cấu dân số
CẤU TRÚC ĐÁ : đặc điểm về sự sắp xếp những khoáng vật có kích thước,hình dáng khác nhau trong
một loại đá. Cấu trúc đá là một căn cứ để phân biệt các loại đá.
CẤU TRÚC ĐẤT : đặc điểm về sự gắn kết các phần tử đất thành các khối có độ bền, hình dáng, kích
thước, khác nhau. Cấu trúc đất có ảnh hưởng đến độ thoáng khí và chế độ lưu thông nước trong thổ
nhưỡng.
CẦU VỒNG : hiện tượng quang học thường xuất hiện trên bầu trời sau những cơn mưa về mùa hạ. Cầu
vồng bao giờ cũng hiện ra ở phía đối diện với Mặt Trời, dưới dạng một vành cung ngũ sắc. Sở dĩ có
hiện tượng này là vì ánh sáng Mặt Trời khi chiếu qua các giọt nước mưa li ti còn lơ lửng trong khí
quyển đã bị khúc xạ, phản xạ và phân tích ra thành quang phổ bảy màu, giống như khi ánh sáng đi
qua một lăng kính.
CÂY BÁ HƯƠNG : (cèdre) cây lớn thuộc lớp Thông, mọc ở châu A và châu Phi, có cành xoè ngang
thành từng tầng. Gỗ bá hương có mùi thơm. Trước kia, những khu rừng bá hương rộng lớn ở LiBăng
rất nổi tiếng thế giới. Người Ai Cập xưa rất chuộng dùng gỗ bá hương của Li Băng để xây cất cung
điện. Dầu và nhựa bá hương được dùng để tẩm vải ướp xác.
CÂY BÁNH MÌ : (Artocarpe) cây mọc phổ biến trên các đảo thuộc châu Đại Dương. Lá giống lá đu đủ,
quả giống như quả mít nhỏ, giàu chất bột. Khi nướng, ăn tựa như bánh mì, vì vậy có tên "cây bánh
mì". Ơ miền Nam nước ta cũng có cây bánh mì gọi là cây xa kê.
CÂY BẮT SÂU BỌ : (Népenthès) thực vật thân cỏ, mọc trên những vùng đất khô ở vùng nhiệt đới châu
A và ở Madagaxca. Có khả năng bắt sâu bọ nhờ một bộ phận ống bẫy có nắp đậy, mọc ở tay cuốn
đầu lá.

CÂY BỤI : cây thân gỗ, phần lớn ưa sáng, thường cao từ 1 đến vài mét, là thành phần chính trong thảm
thực vật tự nhiên ở các vùng khô hạn, nửa hoang mạc hoặc hoang mạc trên thế giới Cũng có một bộ
phận cây bụi không ưa sáng,thường mọc trong rừng, thành một tầng thấp, dưới tán các cây to.
CÂY CHÀ LÀ : cây trồng phổ biến ở vùng Bắc Phi và Trung Đông. Quả có vị ngọt, mọc thành chùm
lớn ở ngọn cây, giống chùm quả cọ. Quả chà là phơi khô là thức ăn dự trữ cho những người đi lại
trong hoang mạc.
CÂY CỌ DẦU : cây thuôc giống cọ cho dầu ăn và dầu dùng trong công nghiệp sán xuất xà phòng. Có
nhiều ở Đông Nam A, đặc biệt là ở Inđônêxia và Malaixia.
CÂY CÔNG NGHIỆP : các loại cây trồng cung cấp các sản phẩm làm nguyên liệu cho các ngành công
nghiệp. Cây công nghiệp có thể phân ra hai loại dựa vào thời gian sinh trưởng : cây công nghiệp
ngắn ngày và cây công nghiệp dài ngày. Dựa vào công dụng, cây công nghiệp cũng có thể phân ra :
cây lấy sợi ( bông, gai,đay,lanh ), cây lấy nhựa ( cao su, thông ), cây lấy dầu ( đậu tương, cọ, ô
liu ), cây lấy chất thơm (khuynh diệp, màng tang, xả ), cây lấy đường ( mía, củ cải đường, thốt
nốt ), cây làm thuốc ( sâm, tam thất, quế ) và cây có chất kích thích ( thuốc lá, thuốc phiện vv )
CÂY HƯỚNG DƯƠNG : (hélianthe) thực vật thân thảo có nguồn gốc ở châu Mĩ, hoa to, màu vàng, ưa
ánh sáng nên luôn luôn quay về phía Mặt Trời. Hoa chứa nhiều hạt, khi ép cho một loại dầu ăn tốt.
Còn có tên : cây quỳ.
CÂY LƯƠNG THỰC : các loại cây trồng cho hạt, củ, phần lớn được nghiền thành bột cung cấp chất
tinh bột dùng làm lương thực, chủ yếu cho người và gia súc. Các cây lương thực chính có : lúa mì,
lúa gạo và ngô.
Ngoài ba loại trên, các cây khác được coi là lương thực phụ có : lúa mạch đen, yến mạch, sắn,
khoai, cao lương.
CÂY PHONG ẤN : cây hoá thạch, cao tới 30m, còn dấu vết trong các lớp than đá tuổi Cacbon.
CÂY SỒI : cây to, cao từ 20 đến 40m, lá có nhiều thuỳ sống phổ biến ở vùng ôn đới.
CÂY THỰC PHẨM : các loại cây trồng dùng làm thức ăn, thức uống hàng ngày cho con người. Ví dụ :
các loại rau, đậu, hoa quả, chè vv Hiện nay, ranh giới giữa các cây thực phẩm và cây công nghiệp
rất khó phân biệt, vì khi ngành công nghiệp thực phẩm phát triển, thì nhiều cây trước kia chỉ là thực
phẩm nay đã trở thành cây công nghiệp, cung cấp nguyên liệu cho ngành này. Ví dụ : mía, chè,
CHANCÔPIRIT : quặng đồng có các hạt lóng lánh màu vàng. Thành phần chủ yếu là : sunphua kép sắt
và đồng ( FeCuS

2
).
CHẢY CHẤT XÁM : thuật ngữ được dùng phổ biến từ năm 1963 trên các báo chí thế giới để chỉ hiện
tượng di cư của một số lượng lớn các cán bộ khoa học-kĩ thuật từ các nước nghèo, có nền kinh tế
kém phát triển sang các nước giàu có nền kinh tế phát triển hơn. Ví dụ : trong hai thập niên 60 và 70
của thế kỉ này, các nước đang phát triển đã bị mất khoảng 10 vạn cán bộ khoa học - kĩ thuật. Ngoài
nguyên nhân kinh tế, các nguyên nhân khác nữa của hiện tượng chảy chất xám là : tình hình chính trị
thiếu ổn định, đời sống xã hội và điều kiện nghiên cứu khoa học-kĩ thuật kém phát triển ở các nước
nghèo.
CHĂN NUÔI : một trong hai ngành chính của nông nghiệp bao gồm : chăn nuôi gia súc, chăn nuôi gia
cầm, nuôi ong, nuôi tôm, nuôi cá vv Ngành chăn nuôi đã cung cấp cho xã hội nhiều thực phẩm
( thịt, sữa, trứng ), sức kéo ( ngựa, trâu, bò, voi, lạc đà ) và nguyên liệu cho các ngành công nghiệp
nhẹ và công nghiệp thực phẩm ( thuộc da, dệt lụa, làm đồ hộp vv )
CHẤN TÂM : vị trí trung tâm của các sóng địa chấn ( trên mặt đất), nằm ngay trên đường thẳng ngắn
nhất nối từ chấn tiêu lên mặt đất.
CHẤN TIÊU : nơi phát sinh ra các chấn động làm rung chuyển mặt đất trong các trận động đất. Chấn
tiêu thường nằm ở độ sâu vào khoảng 15 - 30km dưới mặt đất.
CHẤT DINH DƯỠNG : thuật ngữ chỉ những chất có ý nghĩa hàng đầu đối với sự sinh trưởng của thực
vật và động vật, bao gồm các chất vô cơ và hữu cơ. Đối với thực vật, các chất này phải hoà tan được
trong nước để rễ cây dễ hấp thu. Trong số các chất dinh dưỡng có các nguyên tố đại lượng ( gồm
một lượng lớn như: N, P, K, Ca, Mg, Si, Fe, S ) và các nguyên tố vi lượng ( gồm một lượng rất nhỏ,
nhưng rất cần thiết cho các quá trình sinh hoá như : đồng, kẽm , côban )
CHẤT MỚI SINH : ( trong thổ nhưỡng) chất có hình thù và thành phần hoá học khác nhau mới sinh ra
trong quá trình hình thành và phát triển của thổ nhưỡng, do sự phân bố lại một cách có quy luật
những nguyên tố hoá học trong các lớp đất. Sự tập trung một số nguyên tố có thể tạo nên những hợp
chất mới, đặc biệt khác hẳn với các chất vốn có trong đất. Ví dụ : đá ong trong đất pheralit nhiệt đới,
các hạt kết von sắt trong đất pôtdôn, các hạt cacbônat màu trắng trong đất thảo nguyên vv
CHÂU LỤC : bộ phận của thế giới bao gồm nhiều quốc gia nằm trên các đại lục và các đảo phụ thuộc.
Đại lục là một khái niệm về tự nhiên còn châu lục là một khái niệm về chính trị-lịch sử. Đại lục và
đảo đều là những mảng đất nổi xung quanh có đại dương bao bọc, nhưng khác nhau về quy mô lớn

nhỏ, vì vậy đại lục có thể bao gồm một số đảo xung quanh có quan hệ về nguồn gốc phát sinh, còn
châu lục là những bộ phận lớn đất đai bao gồm nhiều quốc gia, nên trong châu lục có cả các đảo nằm
ở xung quanh thuộc chủ quyền của các quốc gia đó. Trên thế giới có 6 đại lục là : đại lục Âu-Á, đại
lục Phi, đại lục Bắc Mĩ, đại lục Nam Mĩ, đại lục Ôxtrâylia và đại lục Nam Cực, nhưng chỉ có 5 châu
là : châu Á (43,9 triệu km
2
), châu Âụ ( 10 triệu km
2
), châu Phi ( 30 triệu km
2
), châu Mĩ ( 42 triệu
km
2
) và châu Đại Dương (7,7 triệu km
2
).
CHÂU THỔ : đồng bằng phù sa, thấp, bằng phẳng do các sông lớn bồi đắp ở cửa sông. Ví dụ : châu thổ
sông Nin ở Ai Cập rộng 24.000km
2
,châu thổ sông Amadôn ở Nam Mĩ rộng 100.000 km
2
,châu thổ
sông Hồng và Thái Bình ở nước ta rộng 15.000km
2
vv Các châu thổ còn được gọi là tam giác châu
hoặc đenta, bởi vì chúng đều có hình tam giác hoặc giống chữ Hi Lạp cổ : đenta.
CHẾ ĐỘ SÔNG : đặc điếm của một con sông về mặt nước chảy. Chế độ sông phụ thuộc vào các đặc
điểm tự nhiên của lưu vực, chủ yếu là địa hình và khí hậu. Địa hình có ảnh hưởng đến độ dốc của
lòng sông, tốc độ nước chảy ,còn khí hậu thì ảnh hưởng đến sự biến đổi của lượng nước
Chế độ sông biến đổi theo mùa, trong năm vv thể hiện ở sự biến đổi về mực nước, lưu lượng,

nhiệt độ, lượng phù sa và về hàm lượng các chất hoà tan trong nước
CHECNÔDIOM : loại đất rất màu mỡ, có tầng mùn dày, màu đen, phát triển ở miền thảo nguyên khô
phía đông châu Âu, chủ yếu ở Liên bang Nga, Ucraina,Hungari, và Rumani. Lượng mùn chiếm từ 4
đến 15%. Đây là vùng đất sản xuất nhiều lúa mì nổi tiếng. Tuy nhiên, vùng đất này cũng hay bị hạn,
nhiều khi mất mùa hàng chục năm liền như ở nước Nga thời Sa Hoàng. Việc cung cấp nước tưới
cho vùng này là hết sức cần thiết.
CHI LƯU : dòng chảy tiêu nước cho một con sông chính ở phía hạ lưu (chủ yếu trong vùng cửa sông).
Ví dụ : sông Đáy, sông Đuống,sông Luộc là các chi lưu của sông Hồng.
CHÍ TUYẾN : đường vĩ tuyến nằm ở 23
o
27' trên cả hai bán cầu Bắc và Nam. Ơ đây, lúc giữa trưa, Mặt
Trời chỉ xuất hiện trên đỉnh đầu có một lần trong năm. Ơ tất cả các địa điểm trong khu vực giữa hai
chí tuyến, lúc giữa trưa, Mặt Trời đều xuất hiện trên đỉnh đầu 2 lần trong năm. Ngoài khu vực nói
trên, quanh năm lúc giữa trưa, không nơi nào thấy được Mặt Trời lên đỉnh đầu. Như vậy là trong
chuyển động biểu kiến của Mặt Trời trong năm, các đường chí tuyến cũng là những đường giới hạn
tân cùng mà Mặt Trời có thể đạt tới. Vì vậy có tên là chí tuyến.
CHỈ SỐ KHÔ HẠN : chỉ số biểu hiện tình trạng thiếu hoặc thừa ẩm của một địa phương.
Đó là tương quan so sánh giữa cán cân bức xạ của mặt đất so với tổng số nhiệt chi phí cho
sự bốc hơi lượng mưa trong năm. Chỉ số này được tính theo một công thức do M.I. Buđưcô
đưa ra, nhằm đánh giá điều kiện khô,ẩm của một lãnh thổ, phục vụ cho sản xuất nông nghiệp. Nếu chỉ
số nhỏ hơn 1 thì thiếu âm. Theo cách tính này, các vùng đài nguyên, rừng cây lá rộng, rừng cây hỗn
hợp, rừng cây lá kim thuộc ôn đới, rừng rậm nhiệt đới, cận nhiệt đới đều có chỉ số khô hạn nhỏ hơn 1.
Chỉ số lớn nhất : 3 là ở vùng hoang mạc.
CHỈ SỐ PHÁT TRIỂN NHÂN BẢN : (HDI) chỉ số do LHQ đưa ra để đánh giá mức độ phát triển của các
quốc gia không chỉ thuần tuý về mặt kinh tế,mà có chú trọng đến mặt chất lượng cuộc sống của nhân
dân trong quốc gia đó. Chỉ số này được tính dựa vào ba chỉ tiêu : - GNP hoặc GDP tính theo đầu
người
- tỉ lệ người biết chữ và được đi học
- tuổi thọ trung bình
CHIẾN LƯỢC "ĐUỔI BẮT" : (catching-up) chiến lược kinh tế của các nước đang phát triển nhằm đuổi

kịp các nước phát triển,về sản lượng và xuất khẩu sản phẩm (ở một số lĩnh vực nhất định) trong một
thời gian ngắn hơn thời gian mà các nước công nghiệp tiên tiến đã phải trải qua,dựa vào ưu thế của
các nước đi sau đã có kinh nghiệm của các nước đi trước.
CHIẾN LƯỢC "THEO SAU" : (follow-up) chiến lược phù hợp với điều kiện ban đầu còn nhiều khó
khăn của các nước đang phát triển.Theo chiến lược này thì các nước đang phát triển cần tập trung
vốn đầu tư vào các ngành sản xuất hàng tiêu dùng,tốn ít vốn,quay vòng nhanh, sử dụng nhiều lao
động nhằm tăng nhanh tốc độ tích luỹ .Các quốc gia này hợp tác, nhập kĩ thuật của nước ngoài và
bắt chước họ sản xuất các sản phẩm cùng loại (chủ yếu và lắp ráp,gia công). Cũng có khi dùng các
nhãn hiệu của nước ngoài vốn đã nổi tiếng để tiêu thụ sản phẩm.
CHIẾN LƯỢC "VƯỢT TRƯỚC": (pass-over) chiến lược được các công ti tư nhân bản xứ ở các nước
công nghiệp mới (NIC) áp dụng,nhằm chiếm ưu thế so với các công ti đa quốc gia,dựa vào ưu thế
về luật pháp dành cho người bản xứ,cũng như những điều kiện thuận lợi về việc hiểu rõ những
truyền thống về văn hoá ngôn ngữ dân tộc vv Khó khăn chính là phải san bằng được những yếu
kém về mặt kĩ thuật,quản lí sản xuất và về mặt tiếp cận thị trường.
CHIẾN TRANH LẠNH : tình trạng căng thẳng trong các mối quan hệ quốc tế, giữa các quốc gia đối
địch nhau về kinh tế hoặc chính trị mà chưa dùng đến quân sự.
CHIẾU ĐỒ : phương pháp biểu hiện bề mặt hình cầu của Trái Đất hoặc của một bộ phận bề mặt Trái
Đất lên mặt phẳng của giấy. Phương pháp biểu hiện chủ yếu dựa vào cách vẽ hệ thống kinh,vĩ tuyến
của Trái Đất. Phương pháp chiếu đồ nào cũng có nhược điểm là làm cho hình dáng thật của bề mặt
Trái Đất bị biến dạng. Các nhà vẽ bản đồ đã phải dùng các phương pháp toán học để tính toán sao
cho bản đồ vẽ ra có sai số ít nhất.
CHIM CÁNH CỤT : loài chim sống thành bầy ở vùng ven biển lục địa Nam Cực. Chim thường đứng
thẳng, đi trên hai chân. Cánh ngắn không dùng để bay, mà dùng làm bơi chèo khi di chuyển dưới
nước. Khi đứng, chiều cao của chim trưởng thành đạt đến 1m.
CHIM ĐUÔI ĐÀN : (Ménure) loài chim sống ở lục địa Uc, to bằng chim trĩ. Con đực có hai lông đuôi
dài cong giống như chiếc đàn lia.
CHIM ÉN : (hirondelle) loài chim nhỏ, lưng có lông màu đen, bụng có lông trắng, đuôi xẻ thành hai
nhánh. Chim én ăn sâu bọ, bắt mồi trong lúc đang bay. En là loài chim di trú, sống ở các vùng ôn đới
vào các mùa xuân, hạ. Sang thu, đông bay về phía nam để tránh rét. Đến mùa ấm lại trở về ôn đới.
CHIM RUỒI : thuật ngữ chỉ một nhóm chim sẻ ở châu Mĩ, có thân hình rất nhỏ, lông màu sặc sỡ, bay

nhanh và có mỏ dài để hút mật hoa.
CHIM THIÊN ĐƯỜNG : ( paradisier) loài chim thuộc họ chim sẻ, sinh sống ở trên đảo Irian trong
Thái Bình Dương. Con đực có bộ lông sặc sỡ và bóng, đẹp, tạo thành các chùm bông ở bên sườn và
trên đầu.
CHIM YẾN : ( salangane) loài chim nhỏ sống ở bờ biển châu A và châu Đại Dương trên các
vách núi đá vôi. Tổ chim yến được coi là một món ăn quý. Nó được làm bằng rong biển gắn kết với
nước rãi của chim và thường chỉ có ở trên các vách núi đá cheo leo.
CHÓ BIỂN : ( hải cẩu) thú thuộc bộ chân vây, cổ ngắn, tai không có vành, thân dài từ 1,5m đến 2m.
Chó biển sinh sống ở vùng biển cực Bắc, cực Nam và cả trong các vùng bờ biển có khí hậu ấm hơn.
CHÓ DƠI : động vật có vú to bằng con mèo,ăn sâu bọ và biết bay, sống trên quần đảo Xơnđa và bán
đảo Đông Dương. Động vật này bay được nhờ có những màng da ở hai bên thân dính liền với tứ chi
và đuôi. Còn gọi là chồn bay.
CHÒM SAO : nhóm các ngôi sao có vị trí gần nhau, tạo nên một hình thù nhất định, thường được đặt tên
riêng theo trí tưởng tượng của con người. Ví dụ : Chòm sao Gấu Lớn, chòm sao Chiến Sĩ, chòm sao
Thần Nông vv
CHÒM SAO BẮC ĐẨU : tên khác của chòm sao Gấu Nhỏ, gồm có 7 ngôi, trong đó có ngôi sao Bắc
Cực. Gọi là chòm sao Bắc Đẩu, vì chòm sao này nằm ở phương Bắc, có hình thù giống như một cái
đấu đong gạo (đẩu) .
CHỒN BAY : X. Chó dơi
CHU TRÌNH THƯƠNG MẠI : vòng luân chuyển của một sản phẩm trên thị trường qua các khâu trung
gian giữa người sản xuất và người tiêu dùng.
CHỦNG TỘC : tập hợp người có những đặc điểm tự nhiên giống nhau, di truyền từ thế hệ này sang thế
hệ khác như : màu da, màu mắt, tóc, hình dáng xương đầu, xương sọ vv Trên thế giới, người ta
thường phân ra 3 đại chủng : Ơrôpêôit (da trắng), Môngôlôit (da vàng) và Nêgrô-Ôxtralôit (da đen).
(Cũng có tài liệu coi đại chủng Nêgrô-Ôxtralôit là hai đại chủng riêng biệt. Nếu như vậy thì sẽ có :
không phải 3 đại chủng, mà là 4 đại chủng).
CHUỐI GIẺ QUẠT : cây họ chuối ở Mađagaxca, thường được trồng làm cây cảnh vì nó có hình dáng
đẹp, thân cây cao, lá chụm lại ở cuống, ngọn xoè ra như những nan quạt.
CHUỘT NHẢY : (gerboise) loài chuột nhỏ có hai chân sau dài hơn hai chân trước, thuận tiện cho hoạt
động nhảy và đào đất làm hang trong các đồng bằng đất cát.

CHUỘT TÚI : X. Canguru
CHUYÊN MÔN HOÁ : hình thức phân công lao động xã hội giữa các ngành sản xuất khác nhau của nền
kinh tế quốc dân và trong nội bộ một ngành, thậm chí giữa các xí nghiệp ở những giai đoạn khác
nhau của quá trình sản xuất.
CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NỀN KINH TẾ : thuật ngữ trong lĩnh vực kinh tế học mới xuất hiện trong
những năm gần đây để chỉ sự thay đổi dần dần,từng bước cấu trúc của nền kinh tế trong phạm vi các
ngành và các vùng lãnh thổ để thích nghi với hoàn cảnh phát triển của đất nước. Sự chuyển dịch cơ
cấu ngành thể hiện ở sự thay đổi tỉ trọng giữa các ngành nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ và cả
giữa các ngành nhỏ trong nội bộ các ngành kinh tế như: giữa trồng trọt và chăn nuôi trong nông
nghiệp, giữa khai thác và chế biến trong công nghiệp vv
Sự chuyển dịch cơ cấu vùng lãnh thổ thể hiện ở sự thay đổi các địa bàn sản xuất tương ứng với
sự chuyển dịch cơ cấu ngành. Thí dụ: việc hình thành các vùng sản xuất cây công nghiệp ở Tây
Nguyên, ở Đông Nam Bộ,việc hình thành và xây dựng khu công nghiệp dầu khí ở Vũng Tàu, các
đặc khu kinh tế ở ngoại vi các thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Hải Phòng vv
CHUYỂN ĐỘNG BIỂU KIẾN CỦA MẶT TRỜI : chuyển động không có thực của Mặt Trời, nhưng lại
biểu hiện ra trước mắt người quan sát như có thực. Ví dụ : chuyển động của Mặt Trời từ Đông sang
Tây trong ngày, chuyển động của Mặt Trời giữa hai chí tuyến trong năm. Thực ra, những nhận thức
này chỉ là sự lầm lẫn của thị giác con người. Mặt Trời không chuyển động từ Đông sang Tây trong
ngày, mà Trái Đất tự quay quanh trục từ Tây sang Đông. Mặt Trời trong năm không di chuyển giữa
hai chí tuyến mà Trái Đất chuyển động tĩnh tiến quanh Mặt Trời trong điều kiện trục của nó nghiêng
66
0
33' so với mặt phẳng quỹ đạo, nên con người trên Trái Đất thấy Mặt Trời di chuyển giữa hai chí
tuyến.
CHUYỂN ĐỘNG CỦA TRÁI ĐẤT : Trái Đất có rất nhiều chuyển động, trong đó có hai chuyển động
chính là : chuyển động quanh trục và chuyển động quanh Mặt Trời. Chuyển động quanh trục là sự
vận động tự quay của Trái Đất quanh trục theo hướng từ Tây sang Đông. Thời gian Trái Đất tự quay
trọn một vòng là một ngày đêm. Hiện tượng ngày đêm kế tiếp nhau ở khắp nơi trên Trái Đất và hiện
tượng Mặt Trời, Mặt Trăng, các vì sao mọc lặn hàng ngày trên bầu trời, mà con người quan sát được
chính là những kết quả quan trọng nhất của sự chuyển động đó. Vì Trái Đất hình cầu, cho nên tốc

độ vận chuyển của các địa điểm trên bề mặt Trái Đất trong một ngày đêm rất khác nhau.
Các địa điểm nằm trên đường xích đạo có tốc độ lớn nhất (gần 1.700km/h). Càng đi về phía hai
cực, tốc độ đó giảm dần. Ơ hai điểm cực, tốc độ bằng 0, vì hai điểm này chỉ quay tại chỗ, mà không
thay đổi vị trí.
Chuyển động quanh Mặt Trời là sự chuyển động của Trái Đất theo một quỹ đạo ellip (hơi bầu
dục) mà Mặt Trời nằm ở một trong hai tiêu điểm. Tốc độ vận chuyển trung bình của Trái Đất trên
quỹ đạo vào khoảng 30km/s. Thời gian vận chuyển trọn một vòng bằng 365 ngày 5 giờ 48' (năm
thiên văn). Do Trái Đất hình cầu, trục của nó bao giờ cũng nghiêng về một phía và ngả trên mặt
phẳng quỹ đạo một góc 66
o
33', nên bán cầu Bắc và bán cầu Nam luân phiên nhận được tương đối
nhiều ánh sáng và nhiệt trong năm. Kết quả là có hiện tượng các mùa và hiện tượng ngày đêm
dài,ngắn khác nhau. ỏ khắp mọi nơi trên Trái Đất ( trừ hai ngày xuân phân và thu phân). Tất cả các
địa điểm nằm trên đường xích đạo, quanh năm lúc nào cũng có ngày đêm dài bằng nhau. Hiện
tượng ngày đêm chênh lệch biểu hiện rõ nhất vào hai ngày hạ chí (22/6) và đông chí (22/12). Lúc
đó, trong khu vực từ vĩ tuyến 66
o
33' đến cực, hoặc có ngày dài 24 giờ ( bán cầu Bắc vào ngày 22/6,
bán cầu Nam vào ngày 22/12) hoặc có đêm dài 24 giờ (bán cầu Bắc vào ngày 22/12, bán cầu Nam
vào ngày 22/6).
CHUYỂN ĐỘNG NÂNG LÊN VÀ HẠ XUỐNG CỦA VỎ TRÁI ĐẤT : chuyển động làm thay đổi tình
trạng phân bố lục địa và đại dương ở những khu vực rộng lớn trên Trái Đất. Trong trường hợp nâng
lên, diện tích lục địa rộng thêm, còn trong trường hợp hạ xuống, diện tích lục địa giảm đi. Tốc độ
nâng lên và hạ xuống thường chỉ từ một vài phần trăm cm đến vài cm trong một năm. Nguyên nhân
sinh ra các hiện tượng này có thể là do các lực ở bên trong Trái Đất (chuyển động kiéen tạo), nhưng
cũng có thể do các lực ở bên ngoài như sự tăng,giảm trọng lượng của các khối băng lục địa trong các
thời kì băng hà hoặc thời kì tan băng. Chuyển động này xảy ra thường xuyên và ở khắp nơi trong lớp
vỏ Trái Đất.
CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ : hiện tượng xuất khẩu kĩ thuật và phương pháp làm việc từ một nước
này sang một nước khác ( thường là nuức kém phát triển). Các hình thức chuyển giao công nghệ có

thể là : bán trang thiết bị kĩ thuật, bán bằng sáng chế hoặc huấn luyện kĩ thuật, thiết lập các chi
nhánh vv
CHỨNG KHOÁN : chứng từ bảo đảm giá trị một phần vốn trong một xí nghiệp và được quyền hưởng
phần lãi suất hàng năm do xí nghiệp thu được. Trong các nước tư bản, để huy động vốn tổ chức các
xí nghiệp lớn, các tổ chức tư bản, các ngân hàng thường phát hành chứng khoán. Ví dụ : để huy động
một số vốn là 1.000.000 USD,
họ phát hành 1.000 chứng khoán, mỗi tờ có giá trị 1.000 USD. Chứng khoán được bán trên thị
trường chứng khoán. Người nào mua chứng khoán cũng trở thành người tham gia quản lí xí nghiệp
và có quyền được hưởng phần lãi suất hàng năm ( chia theo số lượng chứng khoán). Những người
lãnh đạo xí nghiệp được hội nghị toàn thể những người có chứng khoán bầu ra. Số phiếu bầu căn cứ
vào số chứng khoán, vì vậy những người nắm quyền hành điều khiển xí nghiệp, phần lớn là những
người sở hữu nhiều chứng khoán nhất. Các chứng khoán có thể tự do mua, bán trên thị trường
chứng khoán.
Các chứng khoán lúc đầu bán ra theo đúng giá trị ghi trên giấy, nhưng về sau giá trị đó có thể
thay đổi tuỳ theo tình hình lỗ,lãi của xí nghiệp. Xí nghiệp làm ăn càng nhiều lãi, chứng khoán càng
có giá trị trên thị trường và cũng trở thành đối tượng của các hoạt động buôn bán đầu cơ
CÔBAN : kim loại màu đỏ nhạt, cứng, dòn,có tỉ trọng 8,9 dùng để chế các hợp kim với đồng, sắt, thép
và chế các chất màu, chủ yếu là màu xanh. Trong tự nhiên, côban thường hay gặp trong các hợp
chất với lưu huỳnh và asen . Kí hiệu hoá học : (Co).
CÔNG TI TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN : loại hình công ti gồm ít nhất 2 hội viên góp vốn thành lập và
chỉ có trách nhiệm về tổng số các khoản nợ của công ti không vượt quá toàn bộ giá trị của các cổ
phần (vốn góp).
CÔRIÔLIT : lực làm lệch hướng di chuyển của gió và các dòng sông trên bề mặt Trái Đất do ảnh hưởng
của sự vận động tự quay của Trái Đất. Ơ bán cầu Bắc, nếu hướng di chuyển là từ xích đạo lên cực
thì có sự lệch hướng sang tay phải, nếu hướng di chuyển là từ cực về xích đạo thì có sự lệch hướng
sang tay trái. Ơ bán cầu Nam,hiện tượng cũng tương tự như vậy.
CÔRUNĐUM : tinh thể alumin (Al
2
O
3

) một khoáng vật có độ cứng chỉ kém kim cương, thường được
dùng để làm các loại dao cắt kính,các dụng cụ cần độ cứng lớn chống lại tác dụng mài mòn.
CỔ ĐỊA LÍ HỌC : khoa học nghiên cứu về sự phân bố các lục địa và đại dương trên bề mặt Trái Đất
trong những thơì kì địa chất trước đây.
CỔ KHÍ HẬU HỌC : khoa học nghiên cứu về khí hậu của các thời kì đã qua trong lịch sử phát triển của
Trái Đất
CỔ SINH VẬT HỌC : khoa học nghiên cứu về các hoá thạch sinh vật trong các thời kì địa chất trước
đây.
CỐC : nhiên liệu thu được nhờ quá trình nung than đá trong những lò đặc biệt có nhiệt độ cao với điều
kiện thiếu không khí. Cốc là loại than xốp dạng khối và có tỉ lệ cacbon cao (98%). Cốc chủ yếu dùng
trong công nghiệp luyện kim để nấu gang. Trong quá trình cốc hoá, người ta cũng thu được các sản
phẩm phụ như : khí cốc và các chất nhựa. Khí cốc là một nhiên liệu, đồng thời cũng là một nguyên
liệu được sử dụng rộng rãi trong ngành công nghiệp hoá chất.
CÔN CÁT : khối cát lớn thường có hình móng ngựa, được hình thành ở vùng bờ biển hoặc trong các sa
mạc do gió. X. Backhan.
CÔNG : loài chim thuộc họ gà, sinh sống ở Nam A và Đông Nam A, có lông màu sặc sỡ, đặc biệt là ở
con đực, bộ lông đuôi dài tới 2m, có vân hoa, có thể xoè ra thành một hình bán nguyệt.
CÔNG NGHỆ : tập hợp những hiểu biết và những phương pháp kĩ thuật được sử dụng trong sản xuất
để tác động vào đối tượng lao động nhằm tạo ra hàng loạt sản phẩm có những tính chất nhất định. Sự
tác động đó thường phải thông qua các phương tiện vật chất ( máy móc, trang bị, công cụ vv )
CÔNG NGHỆ HỌC : môn học về các dụng cụ, các biện pháp và phương pháp sử dụng chúng trong các
ngành sản xuất công nghiệp.
CÔNG NGHỆ SINH HỌC : biện pháp kĩ thuật áp dụng vào giới sinh vật nhằm thay đổi một số tính chất
của chúng, để sử dụng vào các mục đích thực tiễn và công nghiệp. Công nghệ sinh học hiện nay mới
phát triển ở giai đoạn đầu và hứa hẹn một tương lai đầy triển vọng . Những hướng nghiên cứu chính
của ngành này là: công nghệ vi sinh, kĩ thuật enzim
(*)
, kĩ thuật gien và nuôi cấy tế bào.
CÔNG NGHIỆP : ngành sản xuất có vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân hiện nay. Nó có nhiệm
vụ khai thác, chế biến những tài nguyên thiên nhiên và cả các nông sản, hải sản thành các sản phẩm

tiêu dùng, các công cụ, tư liệu sản xuất vv để phục vụ cho đời sống xã hội và
thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế, nâng cao đời sống của con người. Công nghiệp tuy hiểu theo
nghĩa rộng là một ngành, nhưng thực ra là một hệ thống bao gồm rất nhiều ngành sản xuất phức tạp,
có quan hệ chặt chẽ với nhau. Vì vậy, việc phân loại các ngành công nghiệp là một vấn đề rất khó
khăn và phức tạp. Hiện nay có nhiều cách phân loại khác nhau và có tính chất rất tương đối. Nếu
căn cứ vào công dụng kinh tế của sản phẩm, người ta chia các ngành công nghiệp ra hai nhóm :
nhóm A ( công nghiệp nặng) gồm các ngành sản xuất các sản phẩm sử dụng trong các ngành sản
xuất khác như : công cụ lao động ( máy móc, thiết bị vv ) hoặc các tư liệu lao động ( nguyên liệu,
nhiên liệu ). Những ngành thuộc nhóm A có : công nghiệp nhiên liệu, công nghiệp khai mỏ và
luyên kim, công nghiệp chế tạo máy và chế biến kim loại, công nghiệp khai thác và chế biến gỗ,
công nghiệp hoá chất vv Nhóm B (công nghiệp nhẹ) gồm các ngành sản xuất ra các sản phẩm
không sử dụng vào mục đích sản xuất, mà phục vụ cho mục đích tiêu dùng trực tiếp của con người
như : công nghiệp thực phẩm, công nghiệp dệt, sành sứ, giày dép, sản xuất vật liệu gia đình, công
nghiệp in .
Nếu căn cứ vào tính chất và đặc điểm của ngành sản xuất, người ta có thể chia ra : nhóm các
ngành công nghiệp cơ bản như: luyện gang,thép, hoá chất vv bao gồm cả quá trình khai thác
nguyên liệu (khai thác than, quặng ). Gọi là cơ bản bởi vì các ngành này đã chế biến bước đầu các
nguyên liệu thành sản phẩm thô hoặc bán thành phẩm để cung cấp cho các ngành công nghiệp khác.
Nhóm thứ hai là các ngành công nghiệp chế biến, sử dụng các sản phẩm thô của các ngành cơ bản
để chế biến chúng tiếp thành các sản phẩm hoàn chỉnh như: công nghiệp cơ khí, dệt, thực phẩm vv
Cả hai cách phân loại này đều có những chỗ bất hợp lí, vì hiện nay số lượng các ngành công
nghiệp rất lớn và đa dạng. Chúng xâm nhập vào nhau và trở nên khó phân biệt đâu là công nghiệp
nặng, đâu là công nghiệp nhẹ, ngành nào là cơ bản, ngành nào là chế biến vv
CÔNG NGHIỆP HOÁ : 1- quá trình phát triển công nghiệp của một quốc gia trong một thời kì nhất
định, nhằm đưa nền sản xuất xã hội tiến lên quy mô lớn, thay thế lao động sản xuất thủ công bằng
máy móc, và máy móc sẽ chiếm địa vị chủ yếu trong các quá trình sản xuất.
2- quá trình phát triển kinh tế của một nước, trong đó một bộ phận nguồn lực
ngày càng lớn được huy động vào việc xây dựng một cơ cấu công nghiệp đa ngành với công nghệ
hiện đại để chế tạo ra tư liệu sản xuất, hàng hoá tiêu dùng, có khả năng đảm bảo một nhịp độ tăng
trưởng cao cho toàn nền kinh tế và bảo đảm sự tiến bộ kinh tế - xã hội.

CÔNGTENƠ : thùng kim loại lớn có kích thước nhất định, thuận tiện cho việc bốc dỡ, dùng để chứa
các hàng hoá vận chuyển trên các tuyến đường vận tải đường bộ, đường biển và đường không.
CÔNG TI XUYÊN QUỐC GIA : tổ chức kinh tế có những cơ sở kinh doanh về thương nghiệp, về công
nghiệp, về dịch vụ đặt ở nhiều nước, vượt ra ngoài phạm vi một quốc gia. Trên thế giới hiện nay ước
tính có khoảng 12.000 công ti xuyên quốc gia, trong đó hơn 25% là các công ti của Hoa Kì.
CỘNG ĐỒNG KINH TẾ CHÂU ÂU (EEC) : European Economic Community) : tổ chức tiền thân của
Liên Minh châu Âu, được thành lập năm 1957 với 6 thành viên lúc đầu là : Pháp, CHLB Đức, Italia,
Bỉ, Hà Lan và Lucxembua. Đến 1986, có thêm 6 nước nữa tham gia là : Anh, Ailen, Đan Mạch
(1973), Hi Lạp (1981) và Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha (1986). Việc thành lập khối này đã có mầm
mống ngay từ năm 1951, khi Bộ trưởng Ngoại giao Pháp Rôbe Suman (Robert Shuman) đề ra kế
hoạch thành lập "Cộng đồng than, thép châu Âu" (ECSC).
Ngày 18 tháng 4 năm 1951, 6 nước: Pháp, Italia, Bỉ, Hà Lan, Lucxembua và CHLB Đức kí hiệp
ước ở Pari. Đến tháng 3 năm 1957, các nước này lại họp ở Rôma để thành lập "Cộng đồng châu Âu
về năng lượng nguyên tử (Euratom) và " Cộng đồng kinh tế châu Âu", còn gọi là "Khối thị trường
chung" (Common Market). Việc hình thành tổ chức này là một quá trình. Lúc đầu, mục đích của
khối này chỉ hạn chế trong việc hợp tác và phối hợp ở một số lĩnh vực kinh tế, nhưng dần dần khối
này tiến tới chủ trương : xoá bỏ các hàng rào quan thuế giữa các nước, thiết lập sự tự do lưu thông
hàng hoá và đi lại của mọi người dân trong nội bộ các nước tham gia. Mục đích sâu xa của tổ chức
này là tạo ra "một châu Âu" mạnh về tiềm năng kinh tế để cạnh tranh với những cường quốc khác
như Hoa Kì và Nhật Bản.
CỘNG HOÀ : hình thức chính quyền của một quốc gia, trong đó cơ quan quyền lực cao nhất của Nhà
Nước được nhân dân bầu ra theo nhiệm kì. Việc bỏ phiếu có thể do toàn dân hoặc do các đại diện
của nhân dân.
CỘT ĐO GIÓ : dụng cụ dùng trong các trạm hoặc vườn khí tượng để đo hướng và tốc độ gió. Bộ phận
quan trọng nhất của cột đo gió là con quay gió đặt trên đỉnh cột, gồm có một mũi tên chuyển động để
chỉ hướng gió và một tấm kim loại có kích thước và trọng lượng được tính sẵn sao cho khi gió thổi,
dù ở cấp thấp nhất, nó cũng được nâng lên một góc tương ứng với vạch mốc ghi trên vành đo.
CƠ CẤU CÔNG NGHIỆP : tình trạng sắp xếp và phối hợp các ngành sản xuất công nghiệp trong một
vùng, một quốc gia ( hoặc trên toàn thế giới) ,tạo thành một hệ thống công nghiệp, trong đó các
ngành đều có những mối quan hệ gắn bó và phụ thuộc lẫn nhau.

CƠ CẤU KINH TẾ : tình trạng phối hợp các ngành kinh tế trong một vùng, một quốc gia ( hoặc trên
toàn thế giới) tạo thành một tổng thể kinh tế, trong đó hoạt động của toàn bộ nền kinh tế đòi hỏi giữa
các ngành phải có những mối quan hệ gắn bó, phụ thuộc lẫn nhau.
CƠ CẤU LAO ĐỘNG : tình trạng phân bố và sắp xếp nguồn lao động của một vùng, một quốc gia
( hoặc trên toàn thế giới) vào các ngành kinh tế khác nhau, bảo đảm cho sự hoạt động của toàn bộ
nền kinh tế.
CƠ SỞ HẠ TẦNG : toàn bộ các công trình xây dựng ban đầu, cần thiết để phục vụ cho một quá trình sản
xuất vật chất hoặc cho đời sống của một bộ phận dân cư Ví dụ : đường xá, điện nước, trường học
v.v
CUEXTA : núi có một sườn thoải và một sườn dốc có vách dựng đứng.
CUỐC : dân tộc không phải người Arap cũng không phải người Thổ Nhĩ Kì, sống phân tán ở một số
nước thuộc Tây Á như: Thổ Nhĩ Kì, Iran, Irăc và Xiri.
CỬA BIẾN : nơi con suối hoặc một dòng sông chui vào một khối núi đá vôi, để bắt đầu dòng chảy
ngầm của nó.
CỬA HIỆN : ngược lại với cửa biến là cửa hiện, nơi dòng chảy của con suối hoặc sông lộ ra ngoài mặt
đất, sau khi đã chảy ngầm qua khối núi đá vôi.
CỬA SÔNG : nơi kết thúc dòng chảy của một con sông, ở chỗ nước đổ ra biển, vào hồ hoặc vào một con
sông khác.
CỰC ĐỊA LÍ : điểm tiếp xúc của trục ( tưởng tượng) Trái Đất với bề mặt Trái Đất. Trên bề mặt Trái Đất
có hai cực : cực hướng thẳng về phía ngôi sao Bắc Cực là cực Bắc. Cực ở phía ngược lại là cực
Nam. Người đến được cực Bắc đầu tiên năm 1909 là nhà thám hiểm người Mĩ Piri. Người đến được
cực Nam đầu tiên là nhà thám hiểm người Na Uy Amunxen.
CỰC QUANG : hiện tượng quang học xảy ra trong các tầng khí quyển trên cao (tâng ion), biểu hiện ở
sự phát sáng của không khí cực loãng ở độ cao từ 60 đến 1.000km. Cực quang chỉ có thể quan sát
được ở các vùng vĩ tuyến cao của hai bán cầu ( phần lớn ở khoảng cách 2.000 - 2.500 km, xung

×