Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

BỆNH HỌC TỲ - VỊ (Kỳ 2) pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (113.44 KB, 5 trang )

BỆNH HỌC TỲ - VỊ
(Kỳ 2)

Nói tóm lại, qua các đoạn kinh văn nói trên cũng như dựa vào cơ sở Hậu
thiên bát quái ta có 1 khái niệm về Tỳ Vị như sau:
- Tỳ Vị có chức năng nuôi dưỡng làm trưởng thành các tạng phủ và cơ thể,
do đó mà Tỳ được xem như là Hậu thiên khi so sánh với Thận là Tiên thiên (có
chức năng sinh ra các tạng phủ và cơ thể). Trong đó, Vị với hình dáng uốn khúc co
duỗi, dài 2 xích 6 thốn, to 1 xích 5 thốn, có công năng là thu nạp đồ ăn thức uống
và tiêu hóa chúng dưới sự điều hành của tạng Tỳ để rồi phân bố tinh khí về cho
các tạng mà ở đây sự vận hóa tinh khí của thủy cốc phải theo hướng Vị chủ giáng,
Tỳ chủ thăng. Còn riêng chức năng Tỳ, ngoài việc vận hóa thủy cốc, Tỳ còn tàng
chức doanh (tinh khí của ngũ cốc) và bao bọc phần huyết dịch nên người sau còn
xem Tỳ có chức năng sinh huyết và thống nhiếp huyết (giữ huyết chạy trong
mạch).
- Mối quan hệ giữa Tỳ Vị: Tỳ giúp Vị tiêu hóa thủy cốc và vận hóa tinh khí
của thủy cốc đến các tạng. Do đó khi có những triệu chứng ăn vào đầy bụng khó
tiêu hoặc thậm chí táo bón thì người xưa sẽ chữa ở Tỳ hoặc khi thương thực dẫn
đến tiêu chảy phân sống thì lại Kiện Vị.
- Mối quan hệ giữa Tỳ Thổ với Can Mộc đó là mối quan hệ tương khắc
(Can Mộc khắc Tỳ Thổ). Vì 1 lý do nào đó mà Can Mộc vượng lên hoặc Tỳ Thổ
suy yếu thì sẽ sinh ra can Tỳ (Vị) bất hòa.
- Mối quan hệ giữa Tỳ Thổ và Tâm Hỏa là mối quan hệ tương sinh (Tâm
Hỏa sinh Tỳ Thổ), đồng thời Tỳ còn sinh huyết dịch. Do đó khi Tỳ Thổ hư người
ta sẽ bổ vào tâm và vì Tâm chủ huyết, tàng thần nên khi bị huyết hư, hay quên,
mất ngủ người ta lại bổ Tỳ.
- Mối quan hệ giữa Tỳ Thổ và Phế Kim là mối quan hệ tương sinh (Tỳ Thổ
sinh Phế Kim) do đó nêu Phế khí hư sinh đoản khí, thiểu khí người ta sẽ Kiện Tỳ,
ích khí.
- Mối quan hệ giữa Tỳ Thổ và Thận Thủy là mối quan hệ tương khắc (Tỳ
Thổ khắc Thận Thủy). Do đó khi Tỳ Thổ hư, thủy thấp sẽ đình đọng gây tiêu chảy,


phù nề, bụng trướng. Cúng như Thiên Thủy nhiệt huyệt luận, Tố vấn có nói:
“Thận là cửa ngõ của Vị, cửa ngõ không thông thì thức ăn nước uống vào sẽ đình
đọng mà sinh thủy trướng. Do đó phải tả thận thủy. Ngoài ra, trong Thận còn có
Thận hỏa cũng tương trợ cho Tỳ Thổ. Do đó khi có thủy thấp đình đọng ở Tỳ Thổ
sinh chướng bụng, tiêu chảy, cổ trướng người ta sẽ ôn thận hỏa.
Thận nói chung còn có 1 chức năng là tàng tinh, do đó khí tinh ở Thận bị
vơi kém vì phòng dục quá độ hoặc lao lực, người ta sẽ kiện Tỳ để sinh tinh. Một
trong những nhân tố gây bệnh cho người chính là đờm ẩm, người ta sẽ kiện Tỳ để
hóa đờm”.
- Sau cùng thì sự sung mãn tươi tốt của Tỳ Vị đều được biểu hiện ở sự tươi
nhuận ở đôi môi, sự đầy đặn nở nang của bắp thịt, sự ngon miệng và khi tỳ vị có
rối loạn thì biểu hiện là hay ca hát, nôn ọe và vì Tỳ tàng ý và vốn tính thấp.
Do đó hễ lo nghĩ nhiều hoặc ẩm thấp sẽ làm tổn thương Tỳ. Ngoài ra thấp
cũng hóa nhiệt và hàn cũng sinh thấp. Do đó Tỳ không chịu được những thứ khí
hậu hàn, thấp, nhiệt cũng như những thức ăn uống nóng, lạnh và quá ngọt.

II. NHỮNG HỘI CHỨNG BỆNH TỲ - VỊ

A. TỲ KHÍ HƯ - TỲ BẤT KIỆN VẬN
1. Nguyên nhân:
- Do lo lắng.
- Lao lực.
- Ăn uống không điều độ.
2. Bệnh sinh:
Tỳ khí hư bất kiện vận là chỉ công năng vận hóa thủy cốc của Tỳ Vị suy
giảm:
- Không vận hành tân dịch cho Vị, gây đầy tức bụng, nôn mửa.
- Không vận hóa thủy cốc thành tinh khí dẫn đến bắp thịt teo nhão, đoản
khí, thiếu khí.
- Không vận hóa thủy thấp gây tiêu lỏng, huyết trắng, tứ chi nặng nề.

3. Triệu chứng lâm sàng:
- Mệt mỏi, mất ngon miệng, sợ lạnh, sắc mặt vàng tái.
- Đau vùng thượng vị, đi tiêu nhiều lần trong ngày. Buồn nôn, nôn mửa. Ăn
kém với đầy tức bụng, sôi ruột.
- Huyết trắng, tay chân nặng nề, gầy rốc, phù thũng.
- Hô hấp ngắn, nói yếu.
- Rêu trắng, lưỡi nhợt, bệu. Mạch trầm trì, vô lực, nhược.

×