Tải bản đầy đủ (.pdf) (399 trang)

Ảnh hưởng của quốc tế cộng sản đối với cách mạng Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.85 MB, 399 trang )




học viện chính trị - hành chính quốc gia






Báo cáo tổng kết đề tài cấp bộ

ảNH HƯởNG CủA quốc tế CộNG SảN
ĐốI VớI CáCH MạNG VIệT NAM


Chủ nhiệm đề tài: Hồ THị Tố LƯƠNG
















6807
17/4/2008

hà nội - 2007


1



Chủ nhiệm đề tài: TS. Hồ Thị Tố Lơng
Th ký đề tài: ThS. Nguyễn Danh Lợi

Danh sách cộng tác viên:
TS. Nguyễn Hữu Cát Học viện CT HC quốc gia Hồ Chí Minh
PGS, TS. Trình Mu Học viện CT HC quốc gia Hồ Chí Minh
ThS. Nguyễn Danh Lợi Viện Lịch sử Đảng
ThS. Nguyễn Bình Viện Lịch sử Đảng
Nguyễn Văn Hùng Cục lu trữ Văn phòng Trung ơng Đảng

2
Mục lục
Trang
Danh sách cộng tác viên
1
Mở đầu
3
Chơng I: Đờng lối dân tộc và thuộc địa của Quốc tế Cộng
sản

9
I. Thành lập Quốc tế Cộng sản 9
II. Đờng lối dân tộc và thuộc địa của Quốc tế Cộng sản 17
III. Quốc tế Cộng sản tự giải thể 45
Chơng II: ảnh hởng của Quốc tế Cộng sản đối với Nguyễn
ái Quốc và quá trình vận động thành lập Đảng ( 1919-1930)
52
I. Nguyễn ái Quốc lựa chọn con đờng cứu nớc dới ánh sáng
đờng lối của Quốc tế Cộng sản
52
II. Quốc tế Cộng sản với quá trình chuẩn bị và thành lập Đảng 57
Chơng III: Quốc tế Cộng sản với cách mạng Việt Nam (1930-
1943)
85
I. Quốc tế Cộng sản với cao trào cách mạng 1930-1931 và thời kỳ
1932-1935
85
II. ảnh hởng của Đại hội VII Quốc tế Cộng sản đối với cách
mạng Việt Nam
113
III. Những hạn chế của Quốc tế Cộng sản ảnh hởng đến cách
mạng Việt Nam
121
IV. Một số kinh nghiệm 138
Kết luận
143
Danh mục tài liệu tham khảo
146



3
mở đầu
I. Tính cấp thiết của đề tài
Với khẩu hiệu chiến lợc: "Vô sản tất cả các nớc và các dân tộc bị áp bức,
đoàn kết lại!", Quốc tế Cộng sản do V.I.Lênin sáng lập và lãnh đạo, trong suốt
thời gian tồn tại (3-1919 - 5-1943) thực sự là một tổ chức cách mạng quốc tế
rộng lớn nhất, là một Đảng Cộng sản thế giới. Gắn liền với Quốc tế Cộng sản là
cả một quá trình lịch sử hình thành, phát triển và củng cố phong trào cộng sản,
công nhân quốc tế và phong trào giải phóng dân tộc. Là trung tâm nghiên cứu
một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, Quốc tế Cộng sản đã đánh bại các
khuynh hớng hữu và tả khuynh trong phong trào cộng sản và công nhân
quốc tế, bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin và gắn chủ nghĩa Mác -
Lênin với phong trào công nhân trên phạm vi thế giới. Dựa vào kinh nghiệm xây
dựng các đảng cộng sản, nhất là Đảng Cộng sản (b) Nga, Quốc tế Cộng sản đã
chỉ đạo và giúp đỡ việc thành lập các đảng cộng sản ở các nớc theo kiểu mới;
đã xác định đờng lối chiến lợc và sách lợc cho phong trào cộng sản, công
nhân và phong trào giải phóng dân tộc. Những đờng lối của Quốc tế Cộng sản
nh: thành lập mặt trận thống nhất giữa các lực lợng chống chủ nghĩa đế quốc,
chống chiến tranh; không ngừng mở rộng và củng cố tình đoàn kết giữa giai cấp
công nhân các nớc trên cơ sở chủ nghĩa quốc tế vô sản; kết hợp lợi ích dân tộc
với lợi ích giai cấp, gắn lợi ích quốc gia với lợi ích quốc tế một cách chặt chẽ và
đúng đắn, chống mọi khuynh hớng vị kỷ dân tộc và sôvanh; về vai trò lãnh đạo
của những ngời cộng sản trong phong trào cách mạng và về tính độc lập không
đợc hoà lẫn của những ngời cộng sản khi tham gia các phong trào... là những
vấn đề vẫn còn nguyên giá trị trong thời đại ngày nay. Những bài học kinh
nghiệm, những truyền thống cách mạng của Quốc tế Cộng sản có ý nghĩa vô
cùng quan trọng đối với các đảng cộng sản trong cuộc đấu tranh vì hoà bình,
độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Vì vậy, lịch sử của Quốc tế Cộng sản
là một di sản khoa học và t tởng - chính trị lớn. Nó đã và sẽ là một trong
những đề tài thu hút sự quan tâm của nhiều ngời, nhiều giới khoa học nh: các


4
nhà sử học, lý luận, tuyên truyền... ở nhiều nớc khác nhau nghiên cứu.
Giơng cao ngọn cờ cách mạng vô sản, Quốc tế Cộng sản còn đặc biệt chú ý
đến cách mạng giải phóng dân tộc. Phát triển những luận điểm của C.Mác,
Ph.Ăngghen và V.I.Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa, Quốc tế Cộng sản đã xác
định nội dung, tính chất, động lực, phơng hớng và tiền đồ của phong trào giải
phóng dân tộc trong thời đại mới phù hợp với quy luật phát triển khách quan của
lịch sử. Phân tích đặc điểm xã hội các nớc phơng Đông, Quốc tế Cộng sản chỉ rõ
các nớc đó tất yếu phải trải qua cuộc cách mạng dân chủ t sản kiểu mới (ngày
nay gọi là cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân) và từng bớc tiến lên chủ nghĩa xã
hội không phải trải qua giai đoạn t bản chủ nghĩa. Quốc tế Cộng sản không chỉ
giúp đỡ phong trào giải phóng dân tộc bằng đờng lối cách mạng đúng đắn, mà còn
bằng hành động cách mạng thực sự: đào tạo cán bộ cho các đảng cộng sản ở các
nớc thuộc địa và nửa thuộc địa, hỗ trợ về tài chính, tăng cờng mối quan hệ quốc
tế để thúc đẩy cuộc đấu tranh cách mạng ở các nớc phơng Đông phát triển.
Đối với cách mạng Việt Nam, Quốc tế Cộng sản có ảnh hởng và đóng góp vô
cùng quan trọng. Từ năm 1927, trong tác phẩm Đờng cách mệnh, Nguyễn ái
Quốc đã khẳng định: An Nam muốn cách mệnh thành công, thì tất phải nhờ Đệ
tam Quốc tế. Cách mạng Việt Nam ngay từ đầu đã vận động trong mối quan hệ
mật thiết với Quốc tế Cộng sản. Nguyễn ái Quốc đã lựa chọn con đờng cứu nớc
dới ánh sáng đờng lối của Quốc tế Cộng sản. Quốc tế Cộng sản đã trực tiếp giúp
đỡ và chỉ đạo việc thành lập Đảng, đào tạo cán bộ, chỉ đạo về đờng lối chiến lợc,
sách lợc, ủng hộ các phong trào cách mạng Việt Nam. Thắng lợi của cách mạng
Việt Nam gắn chặt với đờng lối cách mạng triệt để của Quốc tế Cộng sản về vấn
đề dân tộc và thuộc địa.
Nghiên cứu đề tài: ảnh hởng của Quốc tế Cộng sản đối với cách mạng Việt Nam
để khẳng định sự đóng góp quan trọng của Quốc tế Cộng sản đối với cách mạng Việt
Nam và góp phần vào công tác nghiên cứu Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam và t
tởng Hồ Chí Minh. Đồng thời, qua nghiên cứu để thấy rõ bản lĩnh cách mạng, sự lãnh

đạo đúng đắn, tính chủ động, sáng tạo của Lãnh tụ Hồ Chí Minh và của Đảng trong
cách mạng giải phóng dân tộc. Từ đó, rút ra những kinh nghiệm trong quan hệ hợp

5
tác quốc tế. Điều đó có ý nghĩa quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất
nớc hiện nay, nhất là trong quá trình chúng ta đang tiến hành hội nhập quốc tế.

II. Tình hình nghiên cứu
Một số công trình nh: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Sơ thảo, tập I (1920-
1954), Nxb ST, Hà Nội, 1981; Sự hợp tác quốc tế giữa Đảng Cộng sản Liên Xô và Đảng
Cộng sản Việt Nam. Lịch sử và hiện tại, Nxb ST, Hà Nội, 1987; Quốc tế Cộng sản với
vấn đề dân tộc và thuộc địa của Nguyễn Thành, Nxb Sách giáo khoa Mác-Lênin, Hà
Nội, 1987 đã đề cập đến quan hệ của Quốc tế Cộng sản với cách mạng Việt Nam và
Đảng Cộng sản Đông Dơng. Tuy nhiên, do nội dung quá rộng và tập trung vào chủ đề
chính của cuốn sách, thời gian quá dài, vì vậy, các công trình nêu trên chỉ dừng lại ở
mức độ rất khái quát, có tính định hớng.
Tạp chí Lịch sử Đảng số 1-1989 là số chuyên đề kỷ niệm 70 năm thành lập Quốc tế
Cộng sản. Các nhà nghiên cứu Nguyễn Thành, Trình Mu, Đỗ Quang Hng, Nguyễn
Quốc Hùng, Trần Văn Hùng, Trần Ngọc Linh có các bài viết về Quốc tế Cộng sản
đăng ở các tạp chí Lịch sử Đảng, tạp chí Cộng sản
Liên quan đến đề tài này còn có luận án Phó tiến sỹ (trớc đây), Tiến sỹ nh: Quốc
tế Cộng sản và phong trào cách mạng Việt Nam (1919-1930) của Nguyễn Đức Thùy
(bảo vệ ở Xôphia năm 1987), Quốc tế Cộng sản và sự thành lập Mặt trận dân chủ Đông
Dơng (1936-1939) của Trình Mu (bảo vệ ở Xôphia năm 1984), Chiến lợc và sách
lợc của Quốc tế Cộng sản trong phong trào giải phóng dân tộc ở Việt Nam của Đỗ
Quang Hng (bảo vệ ở Liên Xô năm 1986), Mối quan hệ của Quốc tế Cộng sản với
Đảng Cộng sản Đông Dơng của Hồ Thị Tố Lơng (bảo vệ năm 2001). Các luận án do
hạn chế về phạm vi, giới hạn nghiên cứu nên chỉ nghiên cứu những khoảng thời gian
nhất định và trọng tâm chủ yếu về đ
ờng lối chiến lợc, sách lợc của Quốc tế Cộng sản

về cách mạng thuộc địa.
Năm 1998-2000, Viện Hồ Chí Minh thực hiện đề tài khoa học cấp bộ Nguyễn ái
Quốc với Quốc tế Cộng sản (1920-1943) do TS Lê Văn Tích làm Chủ nhiệm.
ở Liên Xô (trớc đây) và Nga ngày nay, một số tác giả đã viết về lịch sử Việt Nam.
Đó là X.A.Mkhitarian với các tác phẩm: Cao trào cách mạng ở Đông Dơng vào đầu

6
những năm 30 của thế kỷ XX, Matxcơva, 1975; Cách mạng Việt Nam: những vấn đề lý
luận và thực tiễn, Matxcơva, 1986; M.P.Ixaiep và A.X.Cherờnsép: Quan hệ Xô - Việt,
Matxcơva, 1975. Các công trình trên đề cập ở mức độ rất sơ lợc đến sự giúp đỡ của
Quốc tế Cộng sản đối với Việt Nam. U.A.Ôgờnhetốp: Quốc tế Cộng sản và phơng
Đông, Matxcơva, 1969; A.B.Redờnhicốp: Chiến lợc và sách lợc của Quốc tế Cộng
sản về vấn đề dân tộc và thuộc địa. Những vấn đề lý luận và lịch sử, Matxcơva, 1978;
đây là những cuốn sách viết về lịch sử của Quốc tế Cộng sản với cách mạng thuộc địa.
Trong mối quan hệ của Quốc tế Cộng sản với các nớc thuộc địa rộng lớn nh Trung
Quốc, ấn Độ, Inđônêxia và các nớc ả Rập, các tác giả mới chỉ dừng lại một đôi nét
chấm phá về quan hệ của Quốc tế Cộng sản với Đông Dơng.
A.A.Xôcôlốp: Quốc tế Cộng sản và Việt Nam, Matxcơva, 1998, viết về quá trình
đào tạo cán bộ chính trị cho Việt Nam ở các trờng cộng sản ở Liên Xô trong những
năm 20-30 của thế kỷ XX.
Các tác phẩm của Việt Nam và Nga đề cập đến vấn đề này ở mức độ khác nhau, tạo
điều kiện thuận lợi cho các tác giả của đề tài kế thừa thành quả cả về t liệu, phơng
pháp và cùng với những t liệu mới đợc khai thác ở kho lu trữ của Nga để thực hiện
một đề tài thu hút sự quan tâm của nhiều ngời, nhng cho đến nay cha có một công
trình nào phản ánh đầy đủ và có hệ thống về ảnh hởng của Quốc tế Cộng sản với cách
mạng Việt Nam trong suốt cả thời kỳ từ khi thành lập và đến lúc Quốc tế Cộng sản tự
giải thể ( 1919-1943).
III. Mục tiêu nghiên cứu
- Bằng những tài liệu lịch sử, đề tài sẽ dựng lại bức tranh chân thực quá trình Quốc tế
Cộng sản chỉ đạo, giúp đỡ cách mạng Việt Nam và Đảng Cộng sản Đông D

ơng, khẳng
định những đóng góp của Quốc tế Cộng sản đối với cách mạng Việt Nam là vô cùng
quan trọng và phân tích những hạn chế của Quốc tế Cộng sản do những yếu tố chủ
quan và khách quan đã ảnh hởng đến cách mạng Việt Nam và lãnh tụ Nguyễn ái
Quốc.
- Từ mối quan hệ giữa Quốc tế Cộng sản và Đảng Cộng sản Đông Dơng, rút ra
những kinh nghiệm. Những kinh nghiệm sẽ là bài học tốt cho quan hệ quốc tế trong giai
đoạn hiện nay khi chúng ta đang tiến hành hội nhập quốc tế.

7

IV. Nội dung nghiên cứu
Nội dung nghiên cứu của đề tài tập trung vào ba phần chính:
Một là: Nghiên cứu về đờng lối dân tộc và thuộc địa Quốc tế Cộng sản, trong đó
có đề cập đến quá trình chuẩn bị thành lập Quốc tế Cộng sản và Quốc tế Cộng sản tự
giải thể.
Hai là: ảnh hởng của Quốc tế Cộng sản đối với Nguyễn ái Quốc và quá trình
vận động thành lập Đảng (1919-1930).
Ba là: Quốc tế Cộng sản với cách mạng Việt Nam qua các thời kỳ: 1930-1931,
1932-1935, 1935-1943, những hạn chế của Quốc tế Cộng sản ảnh hởng đến Đảng và
cách mạng Việt Nam.

V. Phơng pháp nghiên cứu
- Đề tài sử dụng chủ yếu phơng pháp lịch sử và lôgíc, thống kê, so sánh, đối
chiếu
- Tổ chức hội thảo, tọa đàm lấy ý kiến cán bộ nghiên cứu.

VI. Lực lợng nghiên cứu
Để thực hiện mục tiêu đề ra, lực lợng tham gia nghiên cứu là một số cán bộ nghiên
cứu của Viện Lịch sử Đảng và Học viện Chínhtrị- Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.

Ngoài ra, chủ nhiệm mời một số nhà khoa học nghiên cứu chuyên sâu giai đoạn lịch sử
trớc cách mạng tháng Tám trong và ngoài Học viện tham gia t vấn đề tài và góp ý bản
thảo tổng quan.

VII. Triển vọng nghiên cứu
Sản phẩm nghiên cứu của đề tài có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ công
tác nghiên cứu, biên soạn và giảng dạy Lịch sử Đảng.
Kết quả nghiên cứu góp phần gợi mở một số kinh nghiệm vào công tác lãnh đạo
thực hiện công cuộc đổi mới của Đảng.


8
VIII. Kết cấu của tổng quan
Ngoài phần mở đầu và danh mục tài liệu tham khảo, tổng quan đợc kết cấu thành 3
chơng :
Chơng I: Đờng lối dân tộc và thuộc địa Quốc tế Cộng sản
Chơng II: ảnh hởng của Quốc tế Cộng sản đối với Nguyễn ái Quốc và quá
trình vận động thành lập Đảng (1919-1930)
Chơng III: Quốc tế Cộng sản với cách mạng Việt Nam ( 1930- 1943)
và kết luận.






9
Chơng I
đờng Lối dân tộc và thuộc địa
Của Quốc tế Cộng sản


I. Thành lập Quốc tế Cộng sản
Sau khi Ph.Ăngghen mất (năm 1895), cơ quan lãnh đạo của Quốc tế II dần
dần rơi vào tay các lãnh tụ cơ hội. Họ công khai xét lại chủ nghĩa Mác và thoả
hiệp một cách vô nguyên tắc với giai cấp t sản. Vì vậy, ngay sau khi Chiến
tranh thế giới lần thứ nhất vừa mới nổ ra, trong tác phẩm Chiến tranh và phong
trào dân chủ - xã hội Nga, viết tháng 11-1914, V.I.Lênin đã nêu rõ sự cần thiết
thành lập một Quốc tế mới, cách mạng: "Bất chấp mọi trở ngại, quần chúng công
nhân sẽ tạo ra một Quốc tế mới. Thắng lợi hiện nay của chủ nghĩa cơ hội chỉ là
tạm thời" và tuyên bố khẩu hiệu: Muôn năm tình hữu nghị quốc tế của công
nhân chống chủ nghĩa sôvanh và chủ nghĩa ái quốc của giai cấp t sản các nớc.
Muôn năm quốc tế vô sản đợc thoát khỏi chủnghĩa cơ hội
1
.
Từ đó, V.I.Lênin đã khẩn trơng chuẩn bị cơ sở lý luận và công tác tổ chức để
hoàn thành nhiệm vụ trọng đại này.
Sự sụp đổ của Quốc tế II diễn ra cùng với những loạt súng đầu tiên của cuộc
Chiến tranh thế giới lần thứ nhất bắt đầu từ tháng 8-1914. Cuộc chiến tranh mang
tính chất đế quốc từ cả hai phía đã đợc dùng làm sự kiểm nghiệm nghiệt ngã tất cả
các khuynh hớng tồn tại lúc bấy giờ trong phong trào công nhân quốc tế, lột trần
sự phá sản về t tởng- chính trị của Quốc tế II, đã phơi bày toàn bộ sự biến chất
của phần lớn các đảng xã hội- dân chủ.
Ngày 4-8-1914, tất cả các đại biểu của Đảng Xã hội - dân chủ Đức - đảng mạnh
nhất và có ảnh hởng nhất của Quốc tế II, cùng với các đại biểu của giai cấp t sản
và địa chủ biểu quyết ở nghị viện Đức, ủng hộ ngân sách chiến tranh. Các đảng xã
hội chủ nghĩa ở áo, Hung, Pháp, Anh, Bỉ và hàng loạt nớc khác cũng ủng hộ chính
phủ "mình" trong cuộc chiến tranh đế quốc phi nghĩa. Điều đó chứng tỏ rằng các

1
V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t. 26, tr. 26.


10
thủ lĩnh cơ hội đã công khai chuyển sang phía giai cấp t sản dân tộc "mình", phản
bội lại quyền lợi của giai cấp công nhân.
Trong thời gian chiến tranh, phong trào công nhân quốc tế và phong trào xã hội
chủ nghĩa đã hình thành ba phái khác nhau: phái chủ nghĩa xã hội - sôvanh, phái
giữa và phái cách mạng - quốc tế chủ nghĩa.
Phái chủ nghĩa xã hội - sôvanh hay là những kẻ cơ hội công khai do E.Bécstanh
cầm đầu. Phái này liên minh công khai với giai cấp t sản nớc mình" tiến hành
chiến tranh đế quốc. Chúng ký kết với giai cấp t sản các hoà ớc và núp dới khẩu
hiệu "Bảo vệ Tổ quốc" trong chiến tranh đế quốc, thực tâm giúp đỡ giai cấp thống
trị lùa đuổi nhân dân lao động ra trận chiến vì lợi nhuận của giai cấp t sản. Phần
lớn các lãnh tụ nổi tiếng của các đảng xã hội - dân chủ đều theo quan điểm của chủ
nghĩa xã hội - sôvanh nh: Ph.Ebéctơ, Ph.Saiđêman (Đức); V. átlơ (áo); P.
Renôđen, S. Gét, M. Xamba (Pháp), G. Gaiđờman (Anh); G. Plêkhanốp (Nga); L.
Bítxôlati (Italia); Ê.Vanđécvenđơ (Bỉ); Ia. Brantinh (Thụy Điển)... ở Pháp, Bỉ, Anh,
những ngời xã hội - sôvanh tham gia vào nội các chính phủ t sản. ở tất cả các
nớc, họ chuyển sang phía giai cấp t sản dân tộc "mình" và trở thành kẻ thù của giai
cấp vô sản.
Phái giữa (hay là những phần tử cơ hội giấu giếm), thực chất là tay sai của chủ
nghĩa xã hội - sôvanh. Nếu nh phái xã hội - sôvanh biện hộ cho việc công nhân
Pháp bắn công nhân Đức, công nhân Đức bắn công nhân Pháp vì sự nghiệp "Bảo vệ
Tổ quốc", công khai kêu gào quần chúng lao động lao vào cuộc chém giết lẫn nhau,
đổ máu vì quyền lợi của giai cấp t sản thì những phần tử giấu mặt nh C.Cauxky
biện hộ sự bảo vệ chiến tranh của mình một cách tinh vi và khéo léo bằng cách núp
dới chiêu bài chủ nghĩa quốc tế, đa ra khẩu hiệu lừa bịp đầy nguy hại là "Hoà
bình trong nớc". Họ cho rằng chỉ có thể tiến hành cuộc đấu tranh giai cấp trong
thời bình, còn trong thời chiến thì chỉ tiến hành đấu tranh vì hoà bình. Họ từ chối
kêu gọi nhân dân đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc và chống chiến tranh.
V.I.Lênin đã viết về C.Cauxky rằng: "Chủ nghĩa Cauxky không phải ngẫu nhiên mà

có, nó là sản phẩm xã hội của những mâu thuẫn của Quốc tế II, của thái độ miệng
thì nói trung thành với chủ nghĩa Mác, nhng trên thực tế thì lại phục tùng chủ

11
nghĩa cơ hội"
1
.
Những đại biểu của phái giữa là: C.Cauxky, G.Gheđơ, G.Leđeburờ (Đức),
Ph.átlơ (áo), S.Lôngghê, A.Brétxman (Pháp), R.Mác Đôman, Ph.Xnaođen (Anh),
L.Máctốp, L.Tờrốtxky (Nga), Ph.Turati, V.Môđinlianhi (Italia), M.Khincờvít (Mỹ),
R.Grin (Thụy Sĩ)...
V.I.Lênin đã lên án khuynh hớng này hoàn toàn nh chủ nghĩa cơ hội và đặt ra
nhiệm vụ "phải hoạt động kiên trì nhằm làm cho phong trào cách mạng của giai cấp
vô sản đoạn tuyệt hoàn toàn với chủ nghĩa cơ hội"
2
.
Đối lập với phái chủ nghĩa xã hội - sôvanh và phái giữa là những ngời cách
mạng - quốc tế chủ nghĩa. Họ trung thành với chủ nghĩa xã hội, lãnh đạo cuộc đấu
tranh cách mạng chống giai cấp t sản nớc mình, chống chủ nghĩa đế quốc và
phản ánh những quyền lợi căn bản của quần chúng vô sản. Phái này do V.I.Lênin
lãnh đạo. ở Nga, V.I.Lênin và Đảng Bônsơvích tuyên bố khẩu hiệu: "Biến chiến
tranh đế quốc thành nội chiến".
Phái cách mạng - quốc tế chủ nghĩa gồm những ngời bônsơvích Nga; những
ngời chexniác là những ngời chống lại chủ nghĩa cơ hội ở Bungari đứng đầu là
Đ.Bờlagôiépvu, G.Kyrơcôvu, V.Côlarôvu; những ngời thuộc cánh tả Đức:
C.Liếpnếch, R.Lúcxămbua, Ph.Mêrinh; những ngời xã hội chủ nghĩa Xécbi:
Ph.Philipốp, D.Bôbôvích, T.Caxlerôvích; những ngời cánh tả xã hội dân chủ Ba
Lan: Ia.Ganhexky, A.Varơxky; những ngời xã hội - dân chủ Látvia: Ia.Berơdin;
những ngời xã hội chủ nghĩa cánh tả Thụy Điển, Na uy, Italia, áo - Hung, Pháp,
Anh, Mỹ, áchentina, Đan Mạch, Thụy Sĩ và các nớc khác.

Sự phản bội nhục nhã của các lãnh tụ các đảng xã hội - dân chủ đối với chủ nghĩa
Mác, đối với sự nghiệp giải phóng giai cấp vô sản và đoàn kết quốc tế vô sản, sự chia
rẽ Quốc tế II thành những đảng thù địch lẫn nhau - những đảng đó đã tiến hợp với
chính phủ đế quốc nớc mình - những điều đó đã chứng minh sự phá sản hoàn toàn
về t tởng và tổ chức của Quốc tế II, về sự chấm dứt sự tồn tại của Quốc tế II nh
một tổ chức vô sản quốc tế. Nh vậy, không phải những ngời bônsêvích và V.I.

1
V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t.26, tr. 408.
2
Sđd, tr. 192-193.

12
Lênin làm tan rã Quốc tế II nh những kẻ chống cộng khẳng định mà chính là những
kẻ xã hội - sôvanh, những kẻ cơ hội đã phá hoại sự thống nhất trong phong trào công
nhân quốc tế. Sự phá sản của Quốc tế II là biểu hiện nổi bật nhất trong việc số đông
các đảng dân chủ - xã hội chính thức ở châu Âu phản bội một cách hèn hạ niềm tin
của họ và những nghị quyết mà họ đã trịnh trọng thông qua ở Stútga và Balơ.
Phong trào vô sản thế giới đặt trớc sự lựa chọn: hoặc từ bỏ khỏi những mục tiêu
cách mạng và chuyển sang con đờng thoả hiệp với giai cấp t sản, hoặc kiên quyết
đoạn tuyệt với chủ nghĩa xã hội - sôvanh, đoàn kết tất cả các lực lợng cách mạng và
quốc tế và thành lập Quốc tế mới, có khả năng tiếp tục những truyền thống cách
mạng vẻ vang đã đợc những ngời thầy vĩ đại của giai cấp công nhân là C.Mác và
Ph.Ăngghen đặt nền móng. Bởi vì, thời đại mới, những nhiệm vụ cách mạng lớn lao
đứng trớc giai cấp vô sản đòi hỏi không cải tổ lại Quốc tế cũ đã bị phá sản, mà đòi
hỏi sự thành lập một tổ chức Quốc tế mới. Tổ chức đó có khả năng khôi phục tính
chất quốc tế của phong trào vô sản và đa công nhân vào cuộc tiến công chế độ t
sản. Nhấn mạnh ý tởng này, V.I.Lênin viết: "Quốc tế III có nhiệm vụ tổ chức những
lực lợng của giai cấp vô sản nhằm tiến công cách mạng vào các chính phủ t bản
chủ nghĩa, nhằm tiến hành nội chiến chống giai cấp t sản tất cả các nớc để giành

chính quyền, để cho chủ nghĩa xã hội thắng lợi".
V.I.Lênin trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội đã phát triển chủ nghĩa
Mác bằng những kết luận mới từ thực tiễn cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp
công nhân không chỉ của nớc Nga, mà của cả thế giới. Trong các tác phẩm Chủ
nghĩa đế quốc, giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa t bản, Bàn về khẩu hiệu Liên
bang châu Âu và trong nhiều tác phẩm khác, V.I.Lênin đã phát triển học thuyết đấu
tranh giai cấp của C.Mác và cách mạng xã hội chủ nghĩa trong thời đại đế quốc chủ
nghĩa. Trên cơ sở phân tích khoa học những mâu thuẫn của chủ nghĩa đế quốc,
V.I.Lênin đã đi đến kết luận: Sự phát triển không đồng đều về kinh tế và chính trị
là quy luật tuyệt đối của chủ nghĩa t bản. Do đó, chúng ta thấy rằng chủ nghĩa xã
hội có thể thắng trớc hết là trong một số ít nớc t bản chủ nghĩa hoặc thậm chí
chỉ trong một nớc t bản chủ nghĩa, tách riêng ra mà nói
1
.
Kết luận đó đợc trình bày lần đầu tiên vào năm 1915, là một phát kiến thiên tài

1
V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t. 26, tr.447.

13
trong khoa học mácxít. Ngời đã chỉ ra tơng lai mới cho giai cấp vô sản quốc tế.
V.I.Lênin đa ra những kết luận có tính nguyên tắc về sự cần thiết liên minh chặt
chẽ của giai cấp công nhân với nông dân, về chuyển cách mạng dân chủ sang cách
mạng xã hội chủ nghĩa, về mối quan hệ giữa cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp
công nhân trong các nớc t bản với phong trào dân chủ và cách mạng giải phóng
dân tộc trong cách mạng lật đổ chủ nghĩa đế quốc. V.I.Lênin phát triển cả học
thuyết của C.Mác về chiến tranh, về nhà nớc, về đảng vô sản.
Những kết luận lý luận của V.I.Lênin, của Đảng Bônsơvích đợc kiểm nghiệm và
làm phong phú hơn trong tiến trình đấu tranh giai cấp, trong những điều kiện phức tạp
khác nhau là một đóng góp quan trọng vào sự hình thành đờng lối t tởng - chính trị

và tổ chức của Quốc tế Cộng sản.
Trong thời gian Chiến tranh thế giới thứ nhất, hai hội nghị xã hội chủ nghĩa
quốc tế đợc triệu tập ở Thụy Sĩ. 12 nớc châu Âu tham dự Hội nghị thứ nhất họp ở
Ximmécvan từ ngày 5 đến ngày 8-9-1915. Tại hội nghị này, V.I.Lênin tổ chức ra
một nhóm gọi là "Phái tả Ximmécvan". Phái tả Ximmécvan chủ trơng đoạn tuyệt
với Quốc tế II, đoàn kết tất các phần tử cách mạng và thành lập Quốc tế mới. Phái
tả bầu ra cơ quan lãnh đạo - Ban Thờng vụ do V.I.Lênin đứng đầu. V.I.Lênin đánh
giá cao tầm quan trọng của Hội nghị Ximmécvan đối với cánh tả của dân chủ - xã
hội quốc tế. Ngời viết rằng: "ý nghĩa của hội nghị (bớc đầu tiến tới Quốc tế III;
một bớc rụt rè và không triệt để tiến tới sự phân liệt với chủ nghĩa cơ hội. Khả
năng "tái phạm")"
1
, vì nó đã vũ trang về t tởng và góp phần đoàn kết tất cả các
chiến sĩ quốc tế chủ nghĩa trong phong trào công nhân.
Trong Hội nghị thứ hai họp ở Kientan từ ngày 24 đến ngày 30-4-1916, phái tả
Ximmécvan chiếm 10/41 đại biểu. Hội nghị thông qua Nghị quyết về hình thức lên
án chính sách xã hội - sôvanh của Ban Thờng vụ Xã hội chủ nghĩa quốc tế, nhng
không có một kết luận nào từ sự kiện phản bội sự nghiệp giai cấp vô sản của các
lãnh tụ Quốc tế II.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mời làm thay đổi tình hình quốc tế và tạo điều
kiện để thành lập Quốc tế III.

1
V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, t. 49, tr. 189.

14
Dới ảnh hởng của Cách mạng Tháng Mời, phong trào cách mạng đã lan ra
khắp thế giới t bản: Phần Lan, Đức, áo, Hung... nhờ đó quá trình hình thành các
đảng cộng sản đã đợc đẩy mạnh. Tháng 1-1918 thành lập Đảng Quốc tế - xã hội
chủ nghĩa áchentina, đến cuối năm 1920 đổi tên thành Đảng Cộng sản áchentina.

Vào nửa sau năm 1918, các đảng cộng sản đợc thành lập ở Phần Lan, áo, Hà Lan,
Hung, Đức. ở Ba Lan, Đảng Cộng sản ra đời sau khi thống nhất hai đảng: Đảng
công nhân cách mạng và Đảng những ngời cánh tả. Các nhóm, các tổ chức cộng
sản đợc hình thành trong những năm 1918 - 1919 ở Tiệp Khắc, Rumani, Italia,
Trung Quốc, Triều Tiên, Liên bang Nam Phi...
Trong những điều kiện trên, việc thành lập Quốc tế Cộng sản trở nên vô cùng
cấp thiết. Quốc tế mới cần phải thúc đẩy nhanh sự hình thành các đảng cách mạng
kiểu mới để lãnh đạo cuộc đấu tranh giai cấp đang phát triển, để trang bị cho những
ngời cách mạng phơng Tây những kinh nghiệm thắng lợi của Cách mạng Tháng
Mời, để tổ chức sự đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau giữa những ngời vô sản tất cả các
nớc với nớc Nga Xôviết, với phong trào giải phóng dân tộc.
Tuy tồn tại các đảng và những nhóm cách mạng mácxít ở các nớc khác nhau,
nhng trừ Đảng Bônsơvích Nga, không có đảng mácxít nào có khả năng đoàn kết
và tổ chức đợc Quốc tế mới, nh V.I.Lênin đã viết tháng 5-1917 rằng: Tình hình
của đảng ta - trớc tất cả các đảng công nhân trên toàn thế giới - ngày nay chính là
nh sau: chúng ta có nghĩa vụ phải thành lập ngay lập tức Quốc tế III. Ngoài chúng
ta ra, ngày nay không ai có thể làm đợc điều đó, và mọi sự trì hoãn đều có hại
1
.
Thực hiện nhiệm vụ trọng đại đó, tháng 1-1918, Hội nghị quốc tế lần thứ nhất
họp ở Pêtơrôgrát để chuẩn bị thành lập Quốc tế III. Một năm sau, tháng 1-1919,
Hội nghị quốc tế lần thứ hai họp ở Mátxcơva. Hội nghị nhất trí thông qua đề nghị
của V.I.Lênin về việc triệu tập Đại hội thành lập Quốc tế III trong thời gian gần
nhất. Hội nghị ra lời kêu gọi 39 đảng, nhóm, tổ chức anh em bàn bạc vấn đề thành
lập và tham gia vào việc chuẩn bị Đại hội thành lập Quốc tế III.
Chiều ngày 2-3-1919, Hội nghị Cộng sản quốc tế họp ở Cremli (Mátxcơva). V.I.Lênin,
G.Eberlâyin (Đức), Ph.Blátchen (Thụy Sĩ) đợc bầu là thành viên thờng trực của Chủ tịch

1
V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, t. 31, tr. 226.


15
đoàn. Tham dự Hội nghị có 52 đại biểu của 35 tổ chức của 21 nớc châu Âu, châu Mỹ và
châu á. Trong số đó, đại biểu của 19 tổ chức có quyền bỏ phiếu quyết định, đại biểu của 16
tổ chức chỉ là đại biểu dự thính. Các đại biểu đại diện cho các đảng cộng sản, các đảng xã
hội chủ nghĩa và các nhóm cánh tả của áo, Bungari, Anh, Hunggari, Đức, các vơng quốc
của ngời Xécbi, Kharvátia, ngời Xlôven, Hà Lan, Na uy, Ba Lan, Rumani, Nga Xôviết,
Phần Lan, Pháp, Tiệp Khắc, Thụy Sĩ, Thụy Điển, Mỹ. Các đoàn đại biểu độc lập của các tổ
chức cộng sản Ucơraina, Látvia, Lítva, Bêlarútxia, étxtônia, ácmênia, ngời Đức ở vùng
Vônga, Tuốcmênia, Grudia, Adécbaigian. Lần đầu tiên, các đại biểu của nhân dân bị áp
bức nh: Iran, Trung Quốc, Triều Tiên, Thổ Nhĩ Kỳ tham gia hội nghị quốc tế nh thế này.
Sau khi thông báo sự phát triển của phong trào cách mạng ở hàng loạt nớc,
chiều ngày 3-3-1919, Hội nghị thảo luận và ngày 4-3-1919 thông qua Cơng
lĩnh của Quốc tế III - Quốc tế Cộng sản. Cơng lĩnh thể hiện những điểm căn
bản của học thuyết Lênin về chủ nghĩa đế quốc và cách mạng xã hội chủ nghĩa.
"Xuất hiện thời đại mới - thời đại tan rã chủ nghĩa t bản, sự sụp đổ trong nội
bộ chủ nghĩa t bản, thời đại cách mạng cộng sản của giai cấp vô sản"
1
. Cơng
lĩnh chỉ ra rằng việc lập chuyên chính vô sản là một nhiệm vụ trực tiếp ở nhiều
nớc t bản. Chuyên chính vô sản - không phải là mục đích tự thân, mà chỉ là
phơng tiện để tiến hành cách thay đổi xã hội - kinh tế vì quyền lợi của công
nhân và nhân dân lao động. Cơng lĩnh nhấn mạnh sự cần thiết tuyệt đối để
giai cấp vô sản phối hợp hoạt động của mình trong phạm vi quốc tế, gắn liền
quyền lợi cuộc đấu tranh giai cấp trong khuôn khổ dân tộc với nhiệm vụ cách
mạng thế giới.
Ngày hôm sau, Hội nghị nghe Luận cơng và Báo cáo của V.I.Lênin về dân chủ
t sản và chuyên chính vô sản. Phân tích sâu sắc những hạn chế của dân chủ t sản,
V.I.Lênin đã chứng minh sự cần thiết lịch sử phải thay thế nó bằng chuyên chính vô
sản.

Chiều ngày 4-3-1919, tất cả các đại biểu có quyền biểu quyết và các đại biểu
dự thính đều biểu quyết ký tên nhất trí thông qua quyết định lịch sử: thành lập
Quốc tế III gọi là Quốc tế Cộng sản (trừ một đại biểu của Đảng Cộng sản Đức

1
Viện Mác - Lênin: V.I.Lênin và Quốc tế Cộng sản, Nxb. Sách chính trị, Mátxcơva, 1970, tiếng
Nga, tr.130.

16
không bỏ phiếu). Nghị quyết nêu rõ rằng: "Tất cả các đảng, các tổ chức và các
nhóm trong vòng 8 tháng có quyền tuyên bố dứt khoát về việc tham gia vào Quốc
tế III"
1
.
Từ ngày 4-3-1919, Hội nghị Cộng sản quốc tế tiếp tục công việc của mình nh
là Đại hội đầu tiên (Đại hội thành lập) Quốc tế Cộng sản. Ngày 6-3-1919, Đại hội
thông qua "Tuyên ngôn của Quốc tế Cộng sản gửi những ngời vô sản toàn thế
giới" và "Lời kêu gọi tất cả công nhân các nớc", kêu gọi giai cấp vô sản toàn thế
giới kiên quyết vùng lên đấu tranh chống chủ nghĩa t bản, thiết lập nền chuyên
chính vô sản.
Để lãnh đạo Quốc tế Cộng sản, Đại hội quyết định thành lập Ban Chấp hành
Quốc tế Cộng sản. Công việc tổ chức tạm thời giao cho Ban Thờng vụ gồm 5
ngời. Sau đó, G.Dinôviép đợc chuẩn y làm Chủ tịch Ban Chấp hành Quốc tế
Cộng sản, A.Balabanôva và Ia.Bécdin là Th ký.
Những văn kiện đợc Đại hội I thông qua đã đề ra cho giai cấp vô sản quốc tế
một chơng trình chiến đấu vì chính quyền cách mạng, xác định những phơng
hớng chủ yếu của chiến lợc, sách lợc của các đảng cộng sản. T tởng đoàn kết
chiến đấu chống đế quốc giữa giai cấp công nhân các nớc t bản với nhân dân bị
áp bức ở phơng Đông và chuyên chính vô sản ở nớc Nga Xôviết đợc thể hiện
trong chính tính chất của Quốc tế Cộng sản, nh một tổ chức đoàn kết thực sự tất cả

những ngời cộng sản trên thế giới, không chỉ ở châu Âu và châu Mỹ, mà của tất cả
các dân tộc và các chủng tộc, không chỉ từ các nớc đi áp bức, mà đặc biệt quan
trọng, cả ở những nớc bị áp bức. "Đó là điều khác cơ bản giữa Quốc tế III so với
Quốc tế I và Quốc tế II"
2
.
Quốc tế Cộng sản đợc thành lập đã đáp ứng đợc những yêu cầu cấp bách của
những ngời mácxít chân chính, tạo điều kiện thuận lợi cho phong trào cộng sản,
công nhân quốc tế và phong trào giải phóng dân tộc tiến lên một giai đoạn phát
triển mới. Đó là thắng lợi vĩ đại của phong trào cộng sản, công nhân, nhân dân lao
động và các dân tộc bị áp bức trên khắp năm châu. Đánh giá ý nghĩa lịch sử toàn

1
Viện Mác - Lênin: V.I.Lênin và Quốc tế Cộng sản, Nxb. Sách chính trị, Mátxcơva, 1970, tiếng
Nga, tr.135.
2
Viện Mác - Lênin: Quốc tế Cộng sản và những truyền thống cách mạng của nó, Nxb. Sách chính
trị, Mátxcơva, 1969, tiếng Nga, tr.117.

17
thế giới của việc thành lập Quốc tế Cộng sản, V.I.Lênin viết: Việc thành lập Quốc
tế III, tức Quốc tế Cộng sản, ở Mátxcơva, ngày 2 tháng Ba 1919, là sự ghi lại những
cái không những do quần chúng vô sản Nga, quần chúng vô sản toàn nớc Nga, mà
còn do quần chúng vô sản các nớc Đức, áo, Hung, Phần Lan, Thụy Sĩ, tóm lại, do
quần chúng vô sản quốc tế, đã giành đợc.
Chính vì vậy việc thành lập Quốc tế III tức Quốc tế Cộng sản, là một sự nghiệp
bền vững
1
; Quốc tế II đã đánh dấu thời kỳ chuẩn bị cơ sở để cho phong trào lan
rộng trong quần chúng ở nhiều nớc.

Quốc tế III đã thừa hởng những thành quả hoạt động của Quốc tế II, nó đã trừ
bỏ khỏi Quốc tế II bọn sâu mọt t sản và tiểu t sản, cơ hội và xã hội - sôvanh và
đã bắt đầu thực hiện chuyên chính vô sản
2
.

II. Đờng lối dân tộc và thuộc địa của Quốc tế Cộng sản
Vấn đề dân tộc và thuộc địa là một trong những vấn đề quan trọng trong chơng
trình nghị sự, đợc Quốc tế Cộng sản rất chú ý. Về mặt lý luận, hầu nh đại hội nào
của Quốc tế Cộng sản cũng đều bàn đến vấn đề này.
Ngay tại Đại hội thành lập, vấn đề dân tộc và thuộc địa đã đợc xếp vào hàng
những vấn đề quan trọng nhất. Quốc tế Cộng sản giao cho mình nhiệm vụ phải
thờng xuyên thực hiện đợc mối quan hệ chặt chẽ giữa cuộc đấu tranh của giai cấp
vô sản các nớc đế quốc với phong trào giải phóng dân tộc của nhân dân bị áp bức
ở các thuộc địa và nửa thuộc địa. Cơng lĩnh của Quốc tế Cộng sản khẳng định:
"Quốc tế của giai cấp vô sản cộng sản sẽ ủng hộ nhân dân bị áp bức các thuộc địa
trong cuộc đấu tranh của họ chống chủ nghĩa đế quốc, để làm sụp đổ hoàn toàn hệ
thống đế quốc chủ nghĩa thế giới"
3
.
Tuyên ngôn của Quốc tế Cộng sản gửi những ngời vô sản toàn thế giới đã tố cáo
tội ác của chủ nghĩa đế quốc đối với các nớc bị áp bức và chỉ ra rằng: Chỉ có cách
mạng vô sản mới có thể bảo đảm cho các dân tộc nhỏ yếu đợc sống tự do, vì nó giải

1
V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, t. 37, tr, 624.
2
V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, t. 38, tr. 363.
3
Viện Mác- Lênin: V.I.Lênin và Quốc tế Cộng sản, Nxb. Sách chính trị, Mátxcơva, 1970, tr. 134.


18
phóng lực lợng sản xuất của tất cả các nớc khỏi sự kìm kẹp của các quốc gia dân
tộc... và đem lại cho các dân tộc nhỏ yếu nhất và ít ngời nhất khả năng điều khiển
các công việc của nền văn hoá dân tộc mình một cách tự do và độc lập
1
. Tuyên ngôn
lên án một cách kiên quyết và nghiêm khắc sự áp bức của các đế quốc ở các thuộc
địa: "Cha bao giờ bức tranh ô nhục của nô lệ t bản ở các nớc thuộc địa lại trơ trẽn
nh vậy, cha bao giờ vấn đề nô lệ thuộc địa lại đợc đặt ra một cách gay gắt nh
hiện nay"
2
. Tuyên ngôn còn chỉ ra phong trào cách mạng ở các thuộc địa: Đã có hàng
loạt cuộc khởi nghĩa công khai và tinh thần cách mạng lan rộng trong tất cả các
thuộc địa... ở Mađagaxca, ở An Nam và những nơi khác, quân đội của nớc cộng hoà
t sản đã nhiều lần đàn áp các cuộc khởi nghĩa của những nô lệ thuộc địa trong thời
gian chiến tranh. Tuyên ngôn khẳng định vấn đề thuộc địa đợc đặt ra một cách toàn
diện không chỉ ở trên các bản đồ của hội nghị ngoại giao ở Pari, mà cả ở trong chính
các thuộc địa. Tuyên ngôn chỉ rõ sự kết hợp chặt chẽ giữa cuộc đấu tranh của giai
cấp công nhân "chính quốc" với cuộc đấu tranh giành độc lập của nhân dân thuộc địa
và cho rằng chiến thắng của cách mạng vô sản châu Âu là điều kiện cần thiết cho sự
giải phóng và tồn tại độc lập của nhân dân các thuộc địa: Sự giải phóng các thuộc
địa có thể đợc chỉ cùng với sự giải phóng giai cấp công nhân ở các chính quốc.
Công nhân và nông dân không chỉ ở An Nam, Angiêri, Bengalia, mà cả ở Iran và
ácmênia sẽ chỉ nhận đợc khả năng sống độc lập khi công nhân Anh và Pháp lật đổ
Lôít Gioócgiơ và Clêmăngxô giành chính quyền nhà nớc về tay mình
3
.
Tuyên ngôn kêu gọi: "Hỡi những ngời nô lệ thuộc địa ở châu Phi và châu á! Giờ
của chuyên chính vô sản ở châu Âu sẽ điểm đối với các anh nh là giờ giải phóng của

các anh"
4
.
Tuyên ngôn là t tởng và đờng lối chỉ đạo cho các đảng cộng sản. Nó có ý
nghĩa cơ bản và lâu dài trong cuộc đấu tranh chung của giai cấp vô sản các nớc và
các dân tộc bị áp bức liên minh với nhau lật đổ chủ nghĩa đế quốc, thiết lập chuyên
chính vô sản.

1
Viện Mác- Lênin: V.I.Lênin và Quốc tế Cộng sản, Nxb. Sách chính trị, Mátxcơva, 1970, tiếng
Nga, tr.143.
2
Sđd, tr. 143.
3
Sđd tr. 143.
4
Sđd tr. 144.

19
Đại hội II của Quốc tế Cộng sản khai mạc ngày 19-7-1920 ở Pêtơrôgrát, từ
ngày 23-7 thì chuyển đến Mátxcơva và kết thúc ngày 7-8-1920. Vấn đề dân tộc và
thuộc địa chiếm vị trí cực kỳ quan trọng trong Đại hội và đợc xem xét ở Đại hội
nh một vấn đề quốc tế, nhất là vấn đề về vị trí và vai trò của cuộc đấu tranh giải
phóng dân tộc của nhân dân bị áp bức trong phong trào cách mạng thế giới.
Trớc khi khai mạc Đại hội II, V.I.Lênin đã viết Sơ thảo lần thứ nhất những
luận cơng về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa và ngày 5-6-1920 gửi đi để thảo
luận. Văn kiện lý luận quan trọng này đợc đăng ở tạp chí Quốc tế Cộng sản ngày
14-7-1920.
Trong Báo cáo về tình hình quốc tế và những nhiệm vụ cơ bản của Quốc tế
Cộng sản đọc tại Đại hội, V.I.Lênin đã viết về ý nghĩa quốc tế của cuộc đấu

tranh của nhân dân bị áp bức: Khi cuộc tiến công cách mạng của công nhân bị
bóc lột và bị áp bức trong nội bộ mỗi một nớc, do chiến thắng đợc sự kháng
cự của những phần tử tiểu t sản và do chiến thắng ảnh hởng của một dúm rất
ít công nhân quý tộc mà thống nhất đợc với cuộc tiến công cách mạng của
hàng trăm triệu ngời, từ xa đến nay, vẫn đứng ngoài lịch sử, vẫn chỉ đợc coi
là đối tợng của lịch sử, thì nhất định chủ nghĩa đế quốc toàn thế giới sẽ bị sụp
đổ
1
.
Cũng trong bản Báo cáo trên, V.I.Lênin chia ra làm ba nhóm các nớc bị áp
bức: thuộc địa, nửa thuộc địa và những nớc phụ thuộc về tài chính.
Đại hội đã nghe Báo cáo của Uỷ ban về vấn đề dân tộc và thuộc địa do
V.I.Lênin trình bày và ngày 28-7-1920, thông qua Luận cơng về vấn đề dân tộc và
vấn đề thuộc địa gồm 12 điểm. Ngày 29-7-1920, Đại hội thông qua Luận cơng bổ
sung về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa gồm 9 điểm.
Luận cơng về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa là văn kiện tổng kết quan
điểm lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về hai vấn đề đó trong thời đại đế quốc chủ
nghĩa và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Luận cơng đề ra chơng trình hành động
cho các đảng cộng sản và phong trào giải phóng dân tộc đi đến thắng lợi.
Đầu tiên, Luận cơng khẳng định: đối với dân chủ t sản thì vấn đề bình đẳng

1
V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, t. 41, tr. 280.

20
nói chung, trong đó có quyền bình đẳng dân tộc, chỉ là trừu tợng và hình thức. Vì
vậy, ý nghĩa thực sự của yêu cầu bình đẳng chính là yêu cầu xoá bỏ các giai cấp.
Cuộc chiến tranh thế giới năm 1914-1918 đã phơi bày trớc tất cả các dân tộc và
các giai cấp bị bóc lột trên toàn thế giới sự dối trá của những lời lẽ dân chủ t sản.
Điểm 4 của Luận cơng khẳng định: Trọng tâm trong toàn bộ chính sách của

Quốc tế Cộng sản về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa là cần phải đa giai cấp vô
sản và quần chúng lao động tất cả các dân tộc và các nớc lại gần nhau trong cuộc
đấu tranh cách mạng chung để lật đổ địa chủ và t sản. Bởi vì chỉ có sự gắn bó nh
thế mới bảo đảm cho thắng lợi đối với chủ nghĩa t bản, không có thắng lợi đó thì
không thể tiêu diệt đợc ách áp bức dân tộc và sự bất bình đẳng
1
.
Luận cơng đã đề ra nhiệm vụ cụ thể của các đảng cộng sản phải giúp đỡ
phong trào giải phóng dân tộc ở các các nớc và các dân tộc còn lạc hậu, giúp đỡ
họ đấu tranh chống những ảnh hởng phản động và tôn giáo, chống các tàn d của
chế độ phong kiến.
Quốc tế Cộng sản có nhiệm vụ ủng hộ phong trào giải phóng dân tộc với mục
đích để các phần tử của các đảng vô sản, các đảng cộng sản tơng lai, đợc tập hợp
lại và giáo dục ý thức về nhiệm vụ đấu tranh với các phong trào t sản dân chủ
trong nội bộ dân tộc họ. Các đảng cộng sản cần thiết phải thờng xuyên giải thích
và tố cáo trớc đông đảo quần chúng lao động các dân tộc, đặc biệt ở những nớc
lạc hậu, sự lừa bịp một cách có hệ thống của các nớc đế quốc hùng mạnh với sự
giúp đỡ của các giai cấp có đặc quyền của các nớc bị áp bức, dới hình thức thành
lập các quốc gia độc lập về chính trị, nhng trong thực tế thì phụ thuộc vào các
cờng quốc về kinh tế, tài chính, các quan hệ quân sự.
Quốc tế Cộng sản chủ trơng giai cấp vô sản các nớc thuộc địa phải nắm lấy
ngọn cờ lãnh đạo cách mạng giải phóng dân tộc, phải có sách lợc đoàn kết và hợp tác
với các lực lợng dân tộc - cách mạng trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc
rồi tiến lên làm cách mạng xã hội chủ nghĩa. Bản Luận cơng bổ sung đã nêu ở những
giai đoạn đầu tiên của mình, cách mạng thuộc địa không phải là cách mạng cộng sản
chủ nghĩa,... cách mạng ở thuộc địa cần phải tiến hành theo cơng lĩnh bao gồm nhiều

1
Viện Mác - Lênin: V.I.Lênin và Quốc tế Cộng sản, Nxb. Sách chính trị, Mátxcơva, 1970, tiếng
Nga, tr. 199.


21
cuộc cải cách có tính chất tiểu t sản, nh chia ruộng đất, v.v..
Đại hội II đã thảo luận vấn đề về khả năng phát triển bỏ qua giai đoạn t bản
chủ nghĩa của các nớc lạc hậu: Với sự giúp đỡ của giai cấp vô sản các nớc
tiên tiến, các nớc lạc hậu có thể tiến tới chế độ xôviết, và qua những giai đoạn
phát triển nhất định, tiến tới chủ nghĩa cộng sản, không phải trải qua giai đoạn
phát triển t bản chủ nghĩa
1
.
Tuy nhiên, cần phải có những điều kiện bên trong để bỏ qua giai đoạn phát triển
t bản chủ nghĩa là: nhân dân áp bức phải giành đợc độc lập dân tộc, thành lập
đảng cộng sản, đi theo con đờng tiến bộ xã hội về chính trị, kinh tế và văn hoá,
đào tạo đội ngũ cán bộ xây dựng các tổ chức quần chúng, thành lập các xôviết nông
dân, xôviết của những ngời lao động.
Một số đảng cách đây không lâu còn thuộc Quốc tế II, nay muốn gia nhập Quốc
tế III, nhng họ vẫn thực hiện chính sách của phái cơ hội và phái giữa. Vì vậy, ngày
6-8-1920, Đại hội II thông qua quyết định Những điều kiện kết nạp vào Quốc tế
Cộng sản gồm 21 điểm quy định chặt chẽ những nguyên tắc tổ chức để bảo đảm
cho sự thống nhất tập trung về t tởng và chính trị.
Đó là một thắng lợi lớn của Quốc tế III, Quốc tế hành động cách mạng thực sự,
chống lại những quan điểm cơ hội, nói suông, tàn d của Quốc tế II.
Đại hội II của Quốc tế Cộng sản đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong việc phát
triển lý luận về vấn đề dân tộc và thuộc địa trong điều kiện chủ nghĩa đế quốc và thời
kỳ đầu của quá trình từ chủ nghĩa t bản sang chủ nghĩa xã hội.
Sự kiện có tầm quan trọng đặc biệt đối với phong trào cách mạng phơng Đông
là Đại hội I các dân tộc phơng Đông họp ở Bacu từ ngày 1 đến ngày 8-9-1920.
Đại biểu của 37 dân tộc tham dự Đại hội. Đại hội đã thông qua hàng loạt nghị
quyết với tinh thần của các nghị quyết của Đại hội II Quốc tế Cộng sản và t tởng
thống nhất phơng Tây vô sản và phơng Đông bị áp bức với nhau. T tởng đó

đợc thể hiện trong khẩu hiệu lần đầu tiên đa ra tại Đại hội: "Vô sản tất cả các
nớc và các dân tộc bị áp bức toàn thế giới, đoàn kết lại"
2
. Sau đó, Đoàn Chủ tịch

1
V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, t. 41, tr. 295.
2
Ph.I. Phirxốp: Lênin, Quốc tế Cộng sản và sự hình thành các đảng cộng sản, Nxb. Sách chính
trị, Mátxcơva, 1985, tiếng Nga, tr.126.

22
Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản chỉnh lý thành khẩu hiệu hoàn chỉnh: "Vô sản tất
cả các nớc và các dân tộc bị áp bức, đoàn kết lại!" với một nội hàm rộng lớn hơn,
khi phạm vi, tính chất cuộc đấu tranh đã có sự thay đổi trong bối cảnh mới. Mâu
thuẫn của chủ nghĩa đế quốc và các dân tộc bị áp bức đã trở thành một trong những
mâu thuẫn gay gắt của thời đại. Cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân của các
dân tộc bị áp bức trở thành mũi nhọn trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc
trên phạm vi thế giới.
V.I.Lênin đã đồng ý với khẩu hiệu này và khi có ngời hỏi V.I.Lênin khẩu hiệu
này liệu có mâu thuẫn với khẩu hiệu của Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản của
C.Mác và Ph.Ăngghen không, V.I.Lênin đã trả lời: Đơng nhiên, theo quan điểm
trong "Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản", thì điều đó không đúng, nhng "Tuyên
ngôn của Đảng Cộng sản" đã đợc thảo ra trong những điều kiện hoàn toàn khác,
và đứng trên quan điểm chính trị hiện nay thì khẩu hiệu mới đó là đúng
1
.
V.I.Lênin và Quốc tế Cộng sản đã nhìn nhận vấn đề dân tộc và thuộc địa là
việc liên kết chủ nghĩa Mác, chủ nghĩa xã hội khoa học không chỉ với giai cấp
công nhân mà còn đối với các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc và đã tạo nên dòng

thác cách mạng thống nhất trong phong trào cộng sản ở chính quốc với phong
trào giải phóng dân tộc.
Trong phiên họp cuối cùng ngày 7-9-1920, Đại hội thông qua Nghị quyết tổ
chức Trờng Đại học khoa học xã hội cho các dân tộc phơng Đông cùng với việc
thành lập Hội đồng tuyên truyền các dân tộc phơng Đông và ra tạp chí Các dân
tộc phơng Đông.
Nh vậy, Đại hội II Quốc tế Cộng sản họp ở Mátxcơva năm 1920 đã hoàn
thành việc thống nhất tất cả quần chúng cách mạng của giai cấp vô sản Tây Âu và
dân nghèo đang đấu tranh nhanh chóng lật đổ ách thống trị chủ nghĩa t bản thành
một tổ chức thống nhất sắt đá. Đại hội các dân tộc phơng Đông bổ sung cho sự
thống nhất đó bằng cách thu hút vào sự thống nhất đó hàng triệu quần chúng nông
dân các nớc phơng Đông, hàng triệu ngời lao động tất cả các nớc thuộc địa
và nửa thuộc địa lạc hậu.
Đại hội III của Quốc tế Cộng sản họp ở Mátxcơva từ ngày 22-6 đến ngày 12-

1
V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, t. 42, tr. 86.

23
7-1921. Ngoài những vấn đề trung tâm về tình hình thế giới, chiến lợc và sách
lợc của các đảng cộng sản, Đại hội còn thảo luận "Vấn đề phơng Đông", trên
thực tế, đó cũng là thảo luận vấn đề dân tộc và thuộc địa.
Trong Đề cơng báo cáo về sách lợc của Đảng Cộng sản Nga, V.I.Lênin đã
phân tích sâu sắc tình hình thế giới, tơng lai và những nhiệm vụ đấu tranh cách
mạng, phong trào cách mạng thế giới nh một quá trình thống nhất, trong đó có ba
lực lợng chính hoạt động: đất nớc của giai cấp vô sản đã chiến thắng, phong trào
cách mạng của các nớc t bản và cuộc đấu tranh giải phóng của nhân dân bị áp
bức. Nhận định phong trào cách mạng phát triển mạnh mẽ phi thờng trong hàng
trăm triệu ngời thuộc các dân tộc bị áp bức ở phơng Đông, V.I.Lênin viết về ý
nghĩa của phong trào giải phóng dân tộc: Quần chúng cần lao ở các nớc thuộc địa

và nửa thuộc địa, chiếm đại đa số dân c trên trái đất, đều đã thức tỉnh và tham gia
sinh hoạt chính trị ngay từ đầu thế kỷ XX, nhất là nhờ các cuộc cách mạng ở Nga,
Thổ Nhĩ Kỳ, Ba T và Trung Quốc. Cuộc chiến tranh đế quốc chủ nghĩa 1914-1918
và Chính quyền xôviết ở Nga đã biến hẳn những quần chúng đó thành một nhân tố
tích cực trong cục diện chính trị thế giới và trong việc tiêu diệt chủ nghĩa đế quốc
bằng cách mạng
1
.
Những quyết định của Đại hội III đặt cơ sở sách lợc mặt trận thống nhất mà
Quốc tế Cộng sản thi hành ở các nớc t bản và ở cả các nớc bị áp bức.
Tại phiên họp ngày 4-3-1922 của Hội nghị mở rộng lần thứ nhất, Ban Chấp
hành Quốc tế Cộng sản đã quyết định các đảng cộng sản ở Pháp, Italia, Anh phải
thành lập ủy ban thuộc địa để nghiên cứu tình hình, đề ra chính sách cụ thể chống
chủ nghĩa t bản trong nớc và ủng hộ cuộc đấu tranh của nhân dân các nớc thuộc
địa chống chủ nghĩa đế quốc. Quyết định trên của Quốc tế Cộng sản đã có ảnh
hởng trực tiếp đến cách mạng Việt Nam. Đảng Cộng sản Pháp thông qua Uỷ ban
thuộc địa của Đảng đã tổ chức nhiều biện pháp thiết thực giúp đỡ Đảng và cách
mạng Việt Nam.
Đề cơng về vấn đề phơng Đông đợc thông qua tại Đại hội IV của Quốc tế
Cộng sản họp từ ngày 5-11 đến ngày 5-12-1922, lúc đầu ở Pêtơrôgrát sau chuyển
đến Mátxcơva. Đề cơng nêu rõ nhiệm vụ hàng đầu của những ngời cộng sản ở

1
V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, t. 44, tr. 5.

24
các nớc thuộc địa và nửa thuộc địa là thành lập các cơ sở của đảng cộng sản và
ủng hộ bằng mọi cách phong trào cách mạng dân tộc chống chủ nghĩa đế quốc,
biến các đảng cộng sản thành đội tiên phong của phong trào, thức tỉnh và tăng
cờng phong trào xã hội trong khuôn khổ cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Về

phía Quốc tế Cộng sản: Nhận thức rõ rằng trong những điều kiện lịch sử khác
nhau, thì có những đại biểu khác nhau đại diện cho ý chí đòi độc lập quốc gia của
mỗi dân tộc, Quốc tế Cộng sản ủng hộ tất cả mọi phong trào cách mạng - dân tộc
chống chủ nghĩa đế quốc
1
.
ở phần lớn các nớc phơng Đông vấn đề ruộng đất có một ý nghĩa hết sức
quan trọng: Chỉ có cách mạng ruộng đất đặt cho mình nhiệm vụ trng thu chiếm
hữu nhiều ruộng đất, mới có khả năng phát động đông đảo quần chúng nông dân,
những ngời có ảnh hởng quyết định đối với cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế
quốc
2
.
Đề cơng xác định nhiệm vụ của các đảng cộng sản và các đảng công nhân ở
các nớc thuộc địa và nửa thuộc địa nh sau: một mặt, họ đấu tranh nhằm giải
quyết triệt để những nhiệm vụ cách mạng t sản dân chủ, tức là giành độc lập chính
trị của nớc nhà; mặt khác, họ phải lợi dụng mọi mâu thuẫn trong mặt trận dân chủ
t sản kiểu dân tộc chủ nghĩa, tổ chức quần chúng công nông lại để đấu tranh cho
lợi ích giai cấp riêng biệt của họ.
Đối với giai cấp công nhân, Đại hội nhắc nhở rằng chỉ có mở rộng và làm sâu
sắc thêm cuộc đấu tranh chống ách áp bức đế quốc mới có thể đa giai cấp công
nhân giữ vai trò ngời lãnh đạo cách mạng.
Cùng với khẩu hiệu thành lập mật trận công nhân thống nhất ở phơng Tây, Đại
hội đa ra khẩu hiệu lập mặt trận thống nhất chống đế quốc ở phơng Đông: "ở
phơng Đông thuộc địa trong thời gian hiện tại cần thiết phải đề ra khẩu hiệu mặt
trận thống nhất chống chủ nghĩa đế quốc"
3
. Những ngời cộng sản phải đề ra nhiệm
vụ đoàn kết vào mặt trận thống nhất tất cả những ai có khả năng chống đế quốc và
đề ra chơng trình cách mạng chống đế quốc, chống phong kiến và dân chủ ở các


1
Viện Mác - Lênin: V.I.Lênin và Quốc tế Cộng sản, Nxb. Sách chính trị, Mátxcơva, 1970, tiếng
Nga, tr. 473.
2
Sđd, tr. 473.
3
Sđd, tr. 476.

×