Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Sự lãnh đạo của Đảng trong cuộc đấu tranh xây dựng chính quyền thời kỳ 1945 – 1946

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (109.52 KB, 13 trang )

Đề tài:"Sự lãnh đạo của Đảng trong cuộc đấu tranh xây dựng
chính quyền thời kỳ 1945 - 1946"
“Khi Pháp đã cốý gây chiến tranh, chúng ta không thể nhịn nữa thì
cuộc kháng chiến toàn quốc bắt đầu”.
Cuộc kháng chiến của nhân dân cả nước ta bùng nổ khi những khả
năng đàm phán hoà bình với thực dân Pháp không còn nữa, khi thực dân
Pháp buộc nhân dân ta phải đứng dậy bảo vệ nền độc lập, tự do vừa mới
giành được.
Sau khi đánh chiếm thành phố Hải Phòng và thị xã Lạng Sơn(20-
11-1946), gây ra hai vụ thảm sát tàn khốc đồng bào ta ở hai phố Yên
Ninh, Hàng Bún( ngày 17 và 18-12-1946)...chính phủ Pháp ngày càng
lao sâu vào con đường gạt bỏ mọi khả năng thương lượng để xâm lược
Đông Dương bằng vũ lực. Chủ trương gây chiến ở Hà Nội một lần nữa
nói lên mưu đồ chiến lược của thực dân Pháp quyết tâm cướp lại toàn bộ
nước ta,sau khi đã chiếm đóng một phần phía nam tổ quốc ta. Cuối tháng
12 năm 1946, đầu tháng 1 năm 1947, bộ trưởng thuộc địa Mu-tê thay
mặt chính phủ Pháp, sang Đông Dương điều tra tình hình, Mu-têđã cự
tuyệt lời đề nghị gặp gỡ vàđàm phán của chủ tịch Hồ Chí Minh. Ngay từ
ngày 18-12-1946, đại diện của chính phủ Pháp ở Hà Nội đã cắt đứt mọi
liên hệ với đại diện chính phủ ta.
Mưu đồ xâm lược toàn bộ nước ta, sau đóđược đại biểu Pháp phát
biểu công khai và trắng trợn trong cuộc hội kiến giữa đại diện Pháp với
chủ tịch Hồ Chí Minh và bộ trưởng Hoàng Minh Giám ngày 11-5-1947.
Trong cuộc hội kiến này, Pháp đòi quân ta phải nộp vũ khí vàđặt dưới sự
chỉ huy của quân đội Pháp, đòi để quân đội Pháp đi lại vàđóng quân tự
1
do khắp nơi trên đất Việt Nam. Nói tóm lại, thực dân Pháp đòi nhân dân
ta phải đầu hàng.
Thực dân Pháp đã dồn nhân dân ta đến con đường cùng, nếu không
cầm vũ khíđứng dậy bảo vệ chủ quyền đất nước thì chỉ còn cách cam
chịu làm nô lệ.


“ Dân tộc Việt Nam nay bịđặt trước hai đường: một là khoanh tay
cúi đầu trở lại nô lệ; hai làđấu tranh đến cùng để giành lấy tự do độc
lập”.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đãđược chuẩn bị chu đáo
để giáng trả quân xâm lược những đòn đích đáng. Từ lâu, Đảng ta đã
nhận định rằng cuộc chiến tranh xâm lược cả nước do Pháp gây ra và
cuộc kháng chiến toàn quốc của nhân dân ta chống Pháp xâm lược là
không thể nào tránh khỏi. Xuất phát từ nhận định đó, Đảng đã có những
chủ trương và biện pháp chẩn bị kháng chiến.
Qua 16 tháng giữ vững chính quyền nhân dânvà chuẩn bị kháng
chiến (9-1945 đến 12-1946), cách mạng nước ta đã lớn lên về mọi mặt .
Chính quyền nhân dân đãđược củng cố, bọn phản động tay sai đế quốc
đủ các loại đã bị loại trừ ra khỏi bộ máy nhà nước. Lực lượng vũ trang
nhân dân trưởng thành về cả số lượng và chất lượng. Đảng đã tổ chức
được lực lượng lãnh đạo của mình ở các địa phương, trongcác đoàn thể
quần chúng, trong hệ thống chính quyền, trongcác lực lượng vũ trang.
Vì thế, nhân dân ta không những không bị bất ngờ trước cuộc tiến
công xâm lược của thực dân Pháp, mà còn có thể chủđộng pháâm mưu
của chúng.
2
Cuộc kháng chiến của dân tộc ta chống thực dân Pháp xâm lược
tiến hành trong điều kiện nước ta vốn là một thuộc địa và nửa phong
kiến, đất không rộng người không đông, với một nền kinh tế nông
nghiệp lạc hậu, lại bị chiến tranh thế giới thứ hai tàn phá. Khi ấy nước ta
còn bị chủ nghỉa đế quốc bao vây bốn phía. Pháp là một nước đế quốc có
nền công nghiệp hiện đại, có quân đội chính quy gôm 100.000 quân viễn
chinh đóng tại một số vị trí chiến lược trên đất nước ta. Chúng đủ vũ khí,
phương tiện hiện đại, có cán bộ chỉ huy thành thạo, có kinh nghiệm
chiến tranh xâm lược thuộc địa, có nhiều thủđoạn, âm mưu xảo quyệt
vàđã quen với chiến trường Việt Nam lại được bọn đế quốc Anh, Mỹ

giúp sức. Vì thế, cuộc kháng chiến của nhân dân ta phải lâu dài, gian
khổ.
Nhưng cuộc kháng chiến toàn quốc của ta bắt đầu khi nhân dân ta
giành được quyền làm chủ của mình trên toàn quốc. Dưới chếđộ mới,
nhân dân ta đãđược hưởng những quyền lợi chính trị, kinh tế và xã hội
trước đây chưa bao giờ có. Nhân dân ta quyết tâm bảo vệđến cùng chủ
quyền và chếđộ mới. Dân tộc Việt Nam có truyền thống chống xâm lược
rất vẻ vang vàđã có kinh nghiệm chống thực dân Pháp ở Nam Bộ. Lực
lượng vũ trang của ta mới được xây dựng. Nhưng là những chiến sĩ xuất
thân từ công nhân, nông dân và những người lao độngcó lòng yêu nước
nồng nàn và chí căm thù giặc sâu sắc, được toàn dân ủng hộ. Lực lượng
cách mạng của ta là lượng có tổ chức. Quân và dân ta chiến đấu ngay
trên đất nước ta. Đảng ta tuy hoạt động bí mật nhưng vẫn nắm vững
quyền lãnh đạo cách mạng, lãnh đạo Nhà nước, có kinh nghiệm hơn 15
năm đấu tranh chống đế quốc. Đế quốc Pháp là một đế quốc già nua, bị
bại trận và bị kiệt quệ sau chiến tranh, lại phải tiến hành một cuộc chién
tranh ở xa nước Pháp gần 10.000 km. Mâu thuẫn giữa lực lượng tiến bộ
3
và lực lượng phản động ở Pháp ngày càng sâu sắc; phong trào đấu tranh
vì hoà bình, dân chủ và tiến bộ xã hội của nhân dân Pháp và phong trào
đòi độc lập của nhân dân các thuộc địa Pháp ngày càng phát triển mạnh
mẽ.
Cuộc kháng chiến của nhân dân ta lại diễn ra trong thời đại mà
phong trào độc lập dân tộc, hoà bình, dân chủ và chủ nghĩa xã hội đang ở
trong thế tiến công chủ nghĩa đế quốc, lại gắn bó với cuộc đấu tranh giải
phóng dân tộc của nhân dân hai nước Lào và Cam-pu-chia anh em đã
vùng lên giành quyền độc lập và cùng có chung một kẻ thù là thực dân
Pháp xâm lược.
Những điều kiện lịch sửđó là cở sở cho Đảng ta vạch ra đường lối
của cuộc kháng chiến và khẳng định ngay từđầu cuộc kháng chiến ấy tuy

lâu dài, gian khổ nhưng nhất định thắng lợi.
Ngày 18 và 19-12-1946, Ban thường vụ Trung ương Đảng đã họp
hội nghị mở rộng ở làng Vạn Phúc ( HàĐông) dưới sự chủ toạ của chủ
tịch Hồ Chí Minh. Nhận xét về thực dân Pháp đánh chiếm Hải Phòng,
Lạng Sơn, khiêu khích quân ta ở thủđô, nhất là vụám sát ở phố Hàng
Bún (Hà Nội), Hội nghị nhận định thực dân Pháp đã cắt đứt mọi con
đường đàm phán và cố tình gây ra cuộc chiến tranh xâm lược cả nước ta.
Vì hoà bình mà nhân dân ta phải nhân nhượng.Nhưng ta càng nhân
nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới. Rõ ràng là chúng quyết tâm cướp
nước ta một lần nữa. Trước tình hình đó, nhân dân ta không còn đường
nào khác hơn là cả nước phải đứng dậy tiến hành cuộc kháng chiến
chống xâm lược, bảo vệ tổ quốc.
4
Căn cứ vào sựđánh giá một cách khoa học lực lượng so sánh giữa
ta vàđịch lúc ấy, Hội nghị khẳng định cuộc kháng chiến của ta là cuộc
kháng chiến trường kỳ, gian khổ nhưng nhất định thắng lợi.
Hội nghị vạch ra đường lối cơ bản của cuộc kháng chiến. Đường
lối đóđược ghi trong chỉ thị Toàn dân kháng chiến của Trung ương
Đảng ngày 22 tháng 12 năm 1946. Đường lối kháng chiến của Đảng
trước hết vạch rõ mục đích của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
xâm lược là giành độc lập và thống nhất. Đường lối chung chỉđạo toàn
bộ cuộc kháng chiến là: toàn dân, toàn diện,trường kỳ, tự lực cánh sinh.
Đường lối chung dược quán triệt về các mặt chính trị, quân sư kinh tế,
văn hoá.
Ngày 21-12, Hồ Chủ tịch lại ra lời kêu gọi nhân dân Việt Nam,
nhân dân Pháp và nhân dân các nước Đồng minh, vạch trần bộ mặt bội
ước và dã tâm xâm lược củan thực dân Pháp, nói rõ mục đích chiến đấu
chính nghĩa của nhân dân ta.
Hồ Chủ Tịch khẳng định:
“Cuộc kháng chiến rất lâu dài và gian khổ. Dù phải hy sinh bao

nhiêu và thời gian kháng chiến đến bao giờ, chúng ta cũng nhất định
chiến đấu đến cùng, đến bao giơđất nước Việt Nam được hoàn toàn độc
lập và thống nhất”.
Đường lối kháng chiến của Đảng sau đóđược đồng chí Trường
Chinh giải thích và phát triển đầy đủ trong cuốn sách được lấy tên là “
Kháng chiến nhất định thắng lợi” .
Trong tác phẩm này, đồng chí Trường Chinh vạch rõ kẻ thù chính
của nhân dân ta là thực dân Pháp xâm lược, nhân dân Pháp là bạn của ta.
5

×