Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

GIA VỊ, VỊ THUỐC TỪ CÂY CHANH pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (172.16 KB, 7 trang )

GIA VỊ, VỊ THUỐC TỪ CÂY CHANH
Lương y Võ Hà
Bên cạnh giá trị của một loại gia vị và nước
uống giải khát phổ thông, chanh còn là
nguồn quan trọng cung cấp vitamin C và
những chất chống oxy hoá thuộc nhóm
Flavonoids có chức năng giải độc, bảo vệ
thành mạch, tăng cường hệ miễn nhiểm và
làm chậm sự lão hoá. Căn cứ vào giá trị
dinh dưỡng và tác dụng dược lý, chanh được
tổ chức Plants for a Future xếp vào nhóm 54
cây thuốc có giá trị dược liệu cao nhất trong
một danh mục gồm hơn 7.300 loài thực vật
làm thuốc hoặc làm thức ăn.
Mô Tả
Cây chanh có tên khoa học là Citrus Limonia
Osbeck, thuộc họ cam quýt Rutaceae. Chanh
là một loại cây nhở, cao từ 1m đến 3m. Thân
có gai. Lá hình trứng, dài từ 5,5 đến 11cm,
rộng 3,5cm đến 6cm, mép lá có hình răng cưa.
Hoa trắng, mọc đơn độc hay từng chùm 2 đến
3 hoa. Vỏ quả có màu xanh, màu xanh chuyển
vàng khi quả chín. Quả chia làm nhiều múi.
Dịch quả rất chua. Vỏ quả lá chanh có nhiều
tinh dầu. Cây chanh được trồng khắp nơi ở
nước ta. Nhân dân thường trồng chanh để lấy
quả ăn hoặc làm gia vị. Y học dân gian sử
dụng vỏ quả, lá và rể cây để làm thuốc.
Thành phần hoá học
Trong 100gr thịt quả chanh có 90% nước,
protein 0,8gr, chất béo 0,5gr, carbohydrate


8,2gr, chất xơ 0,6gr, tro 5,4gr, calcium 33mg,
phosphor15mg, sắt 0,5mg, sodium 3mg,
potassium 137mg, vitamin A 12mg, thiamin
(B1) 0,5mg, riboflavin (B2) 0,02mg, niacin
0,1mg và vitamin C 52mg. Ngoài ra lớp vỏ
ngoài của quả chanh và lá chanh có chứa nhiều
tinh dầu có mùi thơm dễ chịu. Tinh dầu chanh
là một hợp chất có chứa limonene, a pinen, b
phelandren, camphen và a tecpinen.
Dược tính và công dụng
Cây chanh thuộc nhóm 54 cây thuốc có giá trị
dược liệu cao nhất trong một danh mục hơn
7.300 loài thực vật được tổ chức Plants For a
Futureở Anh Quốc phân loại và xếp hạng căn
cứ vào giá trị dinh dưỡng cũng như dược liệu.
Bên cạnh một số sinh tố và khoáng chất khác,
chanh là một nguồn quan trọng cung cấp
vitamin C và những chất chống oxy hoá thuộc
nhóm Flavonoids. Do đó chanh có chức năng
giải độc, bảo vệ thành mạch, tăng cường hệ
miễn dịch và hạn chế tác hại của những gốc tự
do để làm chậm sự lão hóa. Kết quả nghiên
cứu của những nhà khoa học Nhật Bản cho
biết chanh có thể làm gia tăng 19% lượng máu
lưu thông trong hệ thống các tỉnh mạch, mao
mạch và làm giảm nguy cơ máu đông.
Tiến sĩ Elzbieta Kurowska thuộc công ty dược
KGK Synergize ở Mỹ cho biết trong lá hoặc
vỏ chanh có chứa lượng polymethoxylated
flavones (PMF) nhiều gấp 20 lần so với các

loại rau quả thông thường. PMF là chất chống
oxy hoá thuộc nhóm Flavonoids. Ông
Kurowska đã nuôi béo những con chuột đồng
bằng chế độ ăn giàu cholesterol rồi cho chúng
hấp thu PMF từ lá hoặc vỏ chanh. Kết quả cho
thấy chỉ 1% PMF trong khẩu phần ăn hàng
ngày cũng làm giảm đến 40% lượng
cholesterol LDL ở chuột. Xem ra kết quả nầy
cũng phù hợp với tập quán và kinh nghiệm ẩm
thực của nhân dân ta. Đó là việc dùng lá
chanh ăn kèm với các loại thịt động vật có
nhiều chất béo. Đặc biệt và quen thuộc nhất là
lá chanh ăn kèm với thịt gà. Tập quán nầy thể
hiện qua câu ca dao “con gà cục tác lá
chanh”. Lá chanh hoặc phần vỏ ngoài của
quả chanh không những có thể kích thích tiêu
hoá, trung hoà bớt vị béo của thức ăn để giúp
ngon miệng mà còn có tác dụng tăng cường
chuyển hoá để làm giảm lượng cholesterol xấu
trong cơ thể.
Các nhà khoa học thuộc trường Đại học
Melbourne (Australia) cho biết dịch chiết từ
quả chanh có thể giúp phụ nữ tránh thai qua
tác dụng làm tê liệt hoạt động của tinh trùng.
Nhiều bộ tộc trên thế giới có tập quán ngừa
thai bằng cách tẩm dịch quả chanh vào một
miếng bọt biển và đặt vào âm đạo. Những
nghiên cứu còn cho thấy dịch chiết từ quả
chanh có tính sát khuẩn rất cao. Ở nồng độ
20%, dịch chanh có thể tiêu diệt 90% virus

HIV.
Hiện nay ngoài công dụng là một loại nước
giải khát được ưa chuộng,uống nước
chanh còn được xem là một liệu pháp bổ
sung giúp giải độc, cải thiện thành mạch và hạ
huyết áp. Về mặt dưỡng sinh phòng bệnh, một
số người chủ trương thực hành tiết thực và
giải độc định kỳ bằng cách nhịn ăn một ngày
mỗi tuần lễ. Trong ngày nhịn ăn chỉ uống
nước chanh đường. Uống nước chanh không
những giúp việc nhịn ăn được dễ dàng mà còn
bổ sung thêm một số sinh tố, khoáng chất cần
thiết, lại có thể tăng cường khả năng giải độc
cho cơ thể.
Theo Đông y, lá, rễ và vỏ quả chanh có vị the,
đắng, mùi thơm, tính bình có tác dụng tán
phong giải nhiệt, hoạt huyết, thông kinh lạc,
tiêu đờm, tiêu thực, giảm ho, sơ tiết Can khí.
Phần lá, rễ và vỏ quả thường dùng chữa tức
ngực, khó thở, đau hông sườn, ăn kém, hay
nôn, sốt rét và các triệu chứng đau mắt, nhức
đầu do Can Đởm hoả vượng. Dịch quả chanh
có vị chua, tính mát có tác dụng chỉ khát,
thanh nhiệt, lợi tiểu, giải độc. Ngoài ra, chanh
cũng dùng để sát trùng hoặc giải độc tại chỗ
do trùng thú cắn. Vỏ quả chanh phơi khô có
thể dùng để làm thuốc xua đuổi côn trùng, sâu
bọ. Lá chanh tươi có chứa nhiều tinh dầu có
tính sát khuẩn, chỉ khái và tiêu đờm nên cũng
thường được sử dụng làm nguyên liệu cho nồi

xông giải cảm, giải độc.
Sau đây là một vài đơn thuốc có sử dụng
chanh:
Nhuận gan, giải độc:
Lá chanh 12 gr
(phơi âm can)
Lá gai 12 gr
Lá cối xay 12 gr
hoặc:
Lá dâu tằm 12 gr
Rau má 12 gr
Nhân trần 12 gr
Vỏ chanh 8 gr
(phơi khô, sao qua)
Sắc uống.
Chữa ho do phong hàn: 9 lá chanh tươi và 7
lát gừng sống; sắc đặc, thêm đường, uống dần.
Chữa ho do phong nhiệt: rễ chanh 12 gr, rễ
tranh 12 gr, trắc bá diệp 12 gr; sắc uống.
Chữa đau lưng do phong, hàn, thấp xâm
nhiễm
Rễ chanh 12 gr
Rễ nhàu 12 gr
Rễ đinh lăng 12 gr
Rễ cỏ xước 12 gr
Lá ngũ trảo 8 gr
Quế chi 4 gr
Uống nước chanh để tiết thực, giải độc, hạ
huyết áp cao hoặc hạ độ cholesterol trong
máu:

Nước chanh pha với nước ấm, thêm đường
vừa đủ để uống. Uống khi khát và chỉ uống
vừa đủ nhu cầu. Cần có sự theo dõi của bác sĩ
nếu nhịn ăn hơn 1 ngày.

×