LỜIMỞĐẦU
Nhân văn là giá trị phổ quát, là tổ hợp các yếu tố chân - thiện - mỹ,
là hiện thân của thiên hướng vươn lên và hoàn thiện không ngừng của
chính con người. Vì vậy nhân văn bao giờ cũng là lý tưởng và mục tiêu
mà loài người hằng vươn tới, nó tồn tại, phát triển và ngày càng thể
hiện sức sống mãnh liệt của mình trong suốt tiến trình phát triển xã hội.
Khát vọng nhân văn ở con người, dù là phương Đông hay phương Tây,
cũng đều cháy bỏng và lớn lao. Ởđâu cóđiều kiện thuận lợi thìởđó tư
tưởng nhân văn nảy nở và phát triển. Việt Nam với lịch sử dựng nước
và giữ nước hào hùng, gây dựng truyền thống yêu nước vàđạo lý làm
người của mình, là mảnh đất ươm sẵn những hạt giống nhân văn, để
từđó bừng lên những mầm xanh tư tưởng nhân văn .
Hồ Chí Minh, một thiên tài nhưđược đúc kết từ tinh hoa truyền
thống nhân văn của dân tộc Việt Nam; dù khi Người bôn ba khắp năm
châu bốn biển để tìm đường cứu nước cứu dân, được sống trong nhiều
nền văn minh của các dân tộc khác nhau, được tiếp xúc với những tư
tưởng vĩđại của C. Mác, Ph. Ăng-ghen và V.I. Lênin, tới tận phút cuối
cùng của cuộc đời, tư tưởng nhân văn của người càng ngời sáng hơn,
trở thành lý luận, thành hiện thực vững chắc.
1
Đối với thanh niên chúng ta hiện nay, việc học tập và nghiên cứu tư
tưởng Hồ Chí Minh là rất cần thiết. Tiếp thu những giá trị văn hoá mà
Người để lại, từđó dần hoàn thiện mình hơn, phát huy được bản chất tốt
đẹp, ý chí vươn lên vốn có trong mỗi con người. Nhất là trong công
cuộc đổi mới và mở cửa đất nước trong điêu kiện hiện nay, việc phát
huy được những giá trị nhân văn trong mỗi con người càng trở nên cần
thiết hơn bao giờ hết. Có như vậy chúng ta mới có thể là những chủ
nhân tương lai của đất nước như lời Bác dạy với khát khao đưa đất
nước đi lên hoà nhập với cộng đồng quốc tế nhưng vẫn giữ vững được
những giá trị nhân văn truyền thống cao đẹp của dân tộc từ nghìn xưa
để lại.
2
I.ĐÔINÉTVỀTƯTƯỞNGNHÂNVĂNCỦAHỒCHÍMINH
Tư tưởng nhân văn của Hồ Chí Minh lúc đầu thể hiện ở những yêu
cầu nhân bản bao quát nhất. Đó là tư tưởng đòi lại cho con người
những gì mà nó vốn có, trước hết là quyền được sống theo nghĩa “người
ta sinh ra ai cũng có quyền sống, quyền mưu cầu hạnh phúc”. Đất nước
Việt Nam - cái nôi của con rồng cháu tiên, phải để cho người Việt Nam
được gọi là Tổ quốc, chứ không cần đến một “mẫu quốc” bên phương
Tây xa xôi tới “khai hoá”! Đã là con người thì ai cũng có quyền làm
người, quyền tự do, quyền sống bình đẳng. Phải trả lại độc lập cho nhân
dân Việt Nam để họ làm chủđất nước mình, tự mình xây dựng cuộc
sống. Đưa con người trở về với chính con người, đó là tư tưởng nhân
bản cơ bản đầu tiên được hình thành trong con người Hồ Chí Minh.
Trên cơ sởđó, Người kêu gọi xoá bỏ nô lệ, áp bức, bần cùng, đối xử với
con người như là Con Người chân chính.
Tư tưởng nhân văn của Hồ Chí Minh được nâng lên tầm cao hơn khi
ở Người hội tụ những tư tưởng tiến bộ toàn nhân loại, trong đó có các
hệ tư tưởng nhân văn Phục hưng, Khai sáng. Đặc biệt, tư tưởng nhân
văn Hồ Chí Minh chỉ thật sự trở thành lý luận khoa học, trở thành học
thuyết vững chắc khi Người thấm nhuần tư tưởng cộng sản chủ nghĩa
của các lãnh tụ thiên tài là C. Mác, Ph. Ăng-ghen và V. I. Lênin.
3
Thấm nhuần tư tưởng nhân văn cộng sản chủ nghĩa, Hồ Chí Minh tự
nguyện đứng vào hàng ngũ những người cộng sản quốc tế, chiến đấu hi
sinh cho lý tưởng nhân văn cộng sản chủ nghĩa. Và thực tế, Người đãtrở
thành một trong những chiến sĩđi tiên phong trong cuộc đấu tranh lật đổ
chếđộ xã hội cũ, xây dựng chếđộ xã hội mới trên phạm vi toàn thế giới.
Người quan tâm đến số phận từng con người , vận mệnh từng dân tộc,
từng quốc gia khắp năm châu. Cuộc cách mạng mà người theo đuổi là
cuộc đấu tranh giai cấp, lật đổ giai cấp bóc lột, giải phóng giai cấp bị
bóc lột, đưa loài người tiến đến một xã hội tốt đẹp. Tư tưởng Hồ Chí
Minh vì thế có tầm giai cấp quốc tế, tầm nhân loại.
Hồ Chí Minh tiếp thu một cách sâu sắc lý tưởng cộng sản chủ nghĩa,
lấy nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản để thực hiện lý tưởng nhân văn cụ
thể của con người: xoá bỏ xã hội cũ thối nát và phản nhân đạo để xây
dựng một xã hội mới màởđó, người với người làđồng chí, bạn bè, anh
em, sống hoà bình, hợp tác, hữu nghị trong thế giới đại đồng. Chính vì
vậy khi Quốc tế II phân hóa thành nhiều khuynh hướng khác nhau,
Người đã chọn Quốc tế III, vì nóđề ra mục tiêu đúng với tư tưởng của
Người là chống phong kiến, đế quốc, giải phóng dân tộc, mà thực chất
là giải quyết vấn đề dân tộc và thuộc địa - vấn đề bức xúc nhất, bản chất
nhất của cách mạng thế giới lúc bấy giờ.
4
Giải quyết vấn đề dân tộc và thuộc địa, theo Hồ Chí Minh không
phải là nhiệm vụ cuối cùng, mà là khâu đột pháđể tiến tới giải quyết vấn
đề cách mạng thế giới. Giải phóng từng dân tộc làđiều kiện cho việc
giải phóng tất cả các dân tộc thuộc địa; giải phóng giai cấp vô sản
làđểđi đến xã hội cộng sản chủ nghĩa. Mục tiêu đó quán xuyến toàn bộ
sự nghiệp cách mạng của Người. Đó cũng là nền tảng cho tinh thần
đoàn kết giữa các dân tộc toàn nhân loại trên cơ sở chủ nghĩa yêu nước
và chủ nghĩa Quốc tế chân chính. Giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội
và giải phóng con người, theo Người, cũng chỉ mới là tiền đềđể thực
hiện mục tiêu thiêng liêng nhất của con người là phát triển toàn bộ bản
chất người với mọi phẩm chất tốt đẹp, với mọi tiềm năng và năng lực
sáng tạo cũng như khả năng hưởng thụ cao các giá trị văn hoá do chính
mình sáng tạo ra.
Chính với quyết tâm thực hiện lý tưởng nhân văn đó, Hồ Chí Minh
có một thái độ hết sức khoan dung, độ lượng, một tinh thần đoàn kết,
hoà hợp. Phê phán phản đối tư tưởng biệt phái, chia rẽ các tín ngưỡng
tôn giáo trong nước và trên thế giới, Người tiếp thu tất cả tinh hoa trí
tuệ, ước mơ, khát vọng chân chính của nhân loại nhằm đạt tới mục đích
cuối cùng làđem lại hạnh phúc cho nhân dân. Người đã hội tụ những
tinh hoa của tất cả các tư tưởng nhân văn của nhân loại, từ tư tưởng
Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín, Dũng, Trung, Hiếu của đạo Nho, tinh thần từ
5
bi, cứu nhân độ thế, phấn đấu đạt tới sự sáng láng của đạo Phật, đến ước
mơ vươn tới một xã hội cao đẹp, con người hoàn thiện của đạo Thiên
chúa. Người đã chắt lọc ưu điểm trong các học thuyết của Khổng Tử,
Thích ca Mâu ni, Tôn Dật Tiên, Giê-su… Đặc biệt người đã tìm thấy ở
học thuyết Mac-Lênin nhân sinh quan cộng sản chủ nghĩa. Người nhận
thấy rằng, ở tất cả các vị tiền bối đều có chung một ưu điểm là mưu cầu
hạnh phúc cho con người. Công lao đó của Người, tự nóđã thể hiện một
tinh thần, một bản chất nhân văn lớn lao, cao cả, vì cuộc sống tốt đẹp
của con người, vì hạnh phúc và tiến bộ của nhân gian.
Tư tưởng nhân văn của Hồ Chí Minh còn thể hiện một cách đặc sắc
ở khát vọng và tinh thần quyết tâm biến tư tưởng thành hiện thực. Cốt
lõi của thế giới quan duy vật, phương pháp luận khoa học và nhân sinh
quan cộng sản chủ nghĩa được Hồ Chí Minh chuyển hoá thành một tổ
hợp tư tưởng Mác - Lênin - Hồ Chí Minh , rồi nó lại được thăng hoa,
biến thành một chất tư tưởng mới rất riêng, trong đó có sự hoà quyện
giữa chiều sâu lý luận và sinh khí cuộc sống. Tiếp thu bản chất khoa
học và cách mạng, tinh thần cải tạo thế giới của chủ nghĩa Mác- Lênin,
Người thực hiện khát vọng cháy bỏng của mình là biến tình thương
người , tình yêu cuộc sống thành hành động.
6
Lòng nhân ái Hồ Chí Minh bao la rộng, lớn bao nhiêu đối với nhân
loại thì cũng sâu nặng bấy nhiêu đối với con người, dân tộc Việt Nam.
Nhận nhiệm vụ từ Quốc tế cộng sản, trở về Tổ quốc, Người dành tất cả
tình thương yêu cho dân tộc Việt Nam. Khi trở thành lãnh tụ của nước
Việt Nam dân chủ cộng hoà , Người không màng danh lợi cá nhân, suốt
đời chăm lo cho hạnh phúc của nhân dân, cho sự trường tồn của dân tộc
và sự phát triển của đất nước. Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh bao
quát toàn bộ cách mạng Việt Nam là giải phóng dân tộc, đem lại độc
lập tự do cho Tổ quốc, hạnh phúc cho nhân dân. Tư tưởng đóđược kết
tinh thành một tuyên ngôn bất hủ không chỉđối với nhân dân Việt Nam
mà còn đối với toàn thể loài người tiến bộ: Không có gì quý hơn độc
lập, tự do.
Để thực hiện lý tưởng nhân văn đó, Hồ Chí Minh đã vạch ra con đường
đúng đắn cho cách mạng Việt Nam là “ Độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội”. Giải phóng dân tộc là mục tiêu số một khi đất nước
còn nô lệ. Vì vậy ham muốn tột bậc của Người là “làm sao cho nước ta
được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do”. Độc lập, tự do
trở thành bản chất cao quý trong tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh, trở
thành ngọn cờ chiến đấu và mục tiêu suốt đời hi sinh cống hiến của
Người. Bởi vìđó làđiều kiện tiên quyết đem lại hạnh phúc và tiến bộ
cho nhân dân Việt Nam.
7