Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Viêm teo niêm mạc dạ dày mạn tính hay thoái hoá niêm mạc dạ dày (Kỳ 1) pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (128.38 KB, 5 trang )

Viêm teo niêm mạc dạ dày mạn tính hay
thoái hoá niêm mạc dạ dày
(Kỳ 1)

1. Đại cương:
1.1. Theo quan điểm Y học hiện đại.
Viêm teo niêm mạc dạ dày mạn tính (Chronic atrophíc gastritis – CAG) là
bệnh thường gặp trong hệ thống đường tiêu hoá. Hậu quả nghiêm trọng của nó là
gây ra biến chứng tiền ung thư và ung thư dạ dày. Gần đây với những tiến bộ trong
phương pháp nội soi, kính hiển vi điện tử, đồng vị phóng xạ, cộng hưởng từ
Người ta đã xác định được những biến đổi vi thể, siêu cấu trúc niêm mạc dạ dày,
xác định nguồn gốc và bản chất những rối loạn chức năng trong quá trình thoái
hoá để có phương pháp chẩn đoán và điều trị tích cực.
Thoái hoá cấu trúc niêm mạc dạ dày gồm những thay đổi về hình thái lớp
biểu mô, lớp đệm, lớp tuyến và hiện tượng phì đại, xơ teo, dị sản niêm mạc dạ
dày. Bằng kính hiển vi điện tử ,người ta có thể phát hiện những biến đổi siêu cấu
trúc nhân, nguyên sinh và màng tế bào trong quá trình thoái hoá. Từ những biến
đổi cấu trúc nhân tế bào, nguyên sinh và màng tế bào dẫn đến rối loạn chức năng
dạ dày trong quá trình thoái hoá.
Rối loạn chức năng vận động chủ yếu là rối loạn, co bóp, giảm trương lực
và nhu động do ảnh hưởng hệ thần kinh giao cảm và thần kinh số X. Dạ dày giãn
sa xuống nhưng môn vị và tâm vị lại co thắt. Rối loạn chức năng bài tiết do tế bào
bị thoái hoá nên lúc đầu độ toan tăng lên do kích thích, giai đoạn sau lại giảm tiết;
cuối cùng làm ngưng trệ bài tiết HCl, chất nhày và các yếu tố nội (yếu tố cần thiết
hấp thu vitamin B12). Quá trình này dẫn đến thiểu toan và vô toan mà hậu quả
nghiêm trọng là thiếu máu ác tính Biermer.
Người ta cho rằng: thoái hoá niêm mạc dạ dày càng nặng thì tỉ lệ ung thư
dạ dày càng cao.
1.2. Chẩn đoán viêm teo niêm mạc dạ dày dựa vào.
- Triệu chứng chung: cảm giác nặng nề vùng bụng, đau âm ỉ hoặc dữ dội
vùng bụng, nhất là sau khi ăn hoặc uống chất kích thích; nóng rát, ợ hơi, ợ chua,


buồn nôn và nôn; ăn không ngon, đại tiện táo lỏng thất thường; gày sút cân, thiếu
máu; hay hồi hộp xúc động; có khi có ngoại tâm thu. Lấy dịch vị lúc đói xác định
độ toan thấy giảm.
- Chẩn đoán xác định dựa vào kết quả soi dạ dày bằng ống soi mềm, kỹ
thuật sinh thiết ;và soi trên kính hiển vi.
1.3. Theo quan niệm của YHCT.
+ Viêm teo niêm mạc dạ dày mạn tính là bệnh danh của YHHĐ. Y học cổ
truyền thường mô tả chứng bệnh này trong các phạm trù “ Vị quản bổ mãn”. Tại
Hội nghị Trung y toàn quốc lần thứ 3 của Trung Quốc (1985) đã thống nhất bệnh
danh Y học cổ truyền là: “vị bĩ”. Y học cổ truyền cho rằng, bản chất bệnh là do
tiên thiên bất túc, tỳ vị hư nhược, ẩm thực thất tiết lại thêm tinh thần thái quá làm
cho tỳ vị giảm chức năng hoá giáng, giảm chức năng vận hoá và chuyển hoá; dẫn
đến khí - huyết uất trệ. Phủ vị trường không được nuôi dưỡng đầy đủ, giảm khả
năng co bóp. Bệnh tiến triển từ từ.
Thời kỳ đầu, vị thu nạp hoá giáng giảm mộc uất khắc thổ.Đó là chứng “tỳ
hư can uất” . Phương pháp điều trị phải bồi thổ ích trung – thư can hoà vị.
Mặt khác, tỳ vị bất hoà, không kiện vận được dẫn đến thấp thịnh hại tỳ, lâu
ngày tỳ dương bị thương tổn, làm cho thấp uẩn hoá nhiệt, nhiệt làm thương âm.Đó
là chứng tỳ vị hư hàn hoặc vị âm hao hư pháp. Lúc này điều trị phải ôn trung tán
hàn, kiện tỳ hoà vị hoặc dưỡng âm ích vị – thanh hoá thấp nhiệt.
Thời kỳ cuối của bệnh là trung khí hư tổn, khí – huyết uất trệ, khí hư
huyết ứ. Phương pháp điều trị phải bổ trung ích khí – hoạt huyết hoá ứ.
+ Nguyên nhân bệnh sinh theo YHCT.
Vị là bể của thuỷ cốc, là nguồn gốc hoá sinh của khí huyết đồng thời là phủ
đa khí đa huyết, ưa thông mà ghét ứ trệ nên bệnh ở vị không chỉ ảnh hưởng đến
khí mà còn ảnh hưởng đến huyết gây nên bệnh huyết ứ. Bệnh tuy thuộc vị nhưng
lại quan hệ chặt chẽ với tỳ và can: can tàng huyết, vị chủ thu nạp làm chín nhừ
thức ăn; can thuộc mộc, vị thuộc thổ; nếu can mất điều đạt thì vị khí uất trệ làm
cho huyết hành không được nên sinh đau. Tỳ thống nhiếp huyết, chủ vận hoá,
tương quan biểu lý với vị, một thăng một giáng cùng với vị hoá sinh khí huyết.

Nếu tỳ khí hư nhược, vận hoá kém, thăng giáng thất thường gây khí – huyết uất trệ
lại tại vị. Thời kỳ đầu, đa phần bệnh thuộc khí; thời kỳ sau thường bệnh chuyển
đến huyết.
2. Biện chứng luận trị:
2.1. Thể can uất tỳ hư.
Vị quản chướng đau, đau lan ra 2 bên sườn, ăn uống kém; ăn vào đau tăng,
mệt mỏi, gày xanh; hay buồn nôn và nôn, ợ hơi, ợ chua; đại tiện lỏng, nát; lưỡi
bệu, chất lưỡi hồng, rêu lưỡi trắng mỏng; mạch huyền tế.
- Phương pháp trị liệu: bổ ích trung thổ – thư can hoà vị.
- Phương thuốc: “hương xa lục quân tử thang” và “tứ nghịch tán” gia giảm.
2.2. Thể tỳ vị hư hàn.
Tỳ vị hư, lại ăn thức ăn sống lạnh, gặp phải hàn tà làm ngưng trệ dương khí
của trung tiêu; vị mất thông giáng ảnh hưởng đến thu nạp thuỷ cốc và vận hoá tinh
hoa thức ăn; thượng vị đau liên miên không có chu kỳ, khi đau đựợc xoa bóp thì
dễ chịu (thiện án), khi thời tiết ấm hoặc chườm nóng thì giảm đau; ăn kém, đại tiện
phân nát, nôn ra ra nước trong; mệt mỏi vô lực, sợ lạnh, chi lạnh; chất lưỡi nhợt,
rìa lưỡi có hằn răng, rêu lưỡi trắng mỏng; mạch trầm tế nhược.
- Phương pháp điều trị: ôn trung tán hàn - kiện tỳ hoà vị.
- Phương thuốc thường dùng: hợp phương “hoàng kỳ kiến trung thang” và
“lý trung thang” gia giảm.
2.3. Thể vị âm hư hao.
Can khí uất kết, hoá nhiệt, hoá hoả, hoặc hàn tà hoá nhiệt; nhiệt làm
tổn thương vị âm dẫn đến vị âm hư hao ỷ71ay nên: thượng vị đau âm ỉ, liên miên;
phiền khát, lười ăn, mồm đắng, miệng khô, họng khô; đại tiện thường táo; chất
lưỡi giáng đỏ, rêu lưỡi vàng nhờn hoặc lưỡi không rêu, lưỡi khô ít tân dịch; mạch
huyền hoạt tế hoặc tế sác.
- Phương pháp điều trị: dưỡng âm ích vị, thanh hoả thấp nhiệt.
- Phương thuốc thường dùng: hợp phương “ ích vị thang” và “liên phác ẩm”
gia giảm.


×