Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Xơ gan do tǎng áp lực tĩnh mạch cửa (kèm tì cang) pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (190.84 KB, 5 trang )

Xơ gan do tǎng áp lực tĩnh mạch
cửa (kèm tì cang)
Biện chứng đông y: ứ huyết nội trở.
Cách trị: Hoạt huyết hóa ứ nhuyễn kiên tán kết.
Đơn thuốc: Nhuyễn kiên súc tì thang.
Công thức: Đương qui 15g, Xuyên khung 9g, Tam lǎng (sao) 9g, Nga truật
9g, Đào nhân (sao) 9g, Thổ nguyên 9g, Đan sâm 30g, Sài hồ 12g, Trần bì 12g.
Sắc uống, mỗi ngày một thang.
Hiệu quả lâm sàng: Thôi XX, nam 41 tuổi, công nhân. Bệnh nhân từ nǎm
1973 phát hiện thấy gan lách bị sưng to, chức nǎng gan khác thường. Nǎm 1975
chẩn đoán là viêm gan mạn tính. Từ nǎm 1977 đến nay, lách ngày càng một to, đi
khám ở nhiều bệnh viện đều chẩn đoán là xơ gan do tǎng áp lực tĩnh mạch cửa,
cường lách, bệnh nhân được khuyên là mổ cắt lách, nhưng bệnh nhân không đồng
ý. Ngày 23-2-1979 đến viện điều trị. Khi vào viện, hai bên sườn bệnh nhân đau
nhói hoặc đau âm ỉ rất khó chịu, lợi bị chảy máu ít nhiều, còn ǎn uống được. Kiểm
tra thấy: sức khoẻ nói chung còn tốt, gan to dưới bờ sườn 1,5 cm, lách to dưới bờ
sườn 3cm, hơi cứng, ấn đau. Lưỡi đỏ tím, có điểm huyết ứ, rêu mỏng, rài lưỡi ám
đen, mạch tế, sáp. Xét nghiệm thấy: chức nǎng gan bình thường, bạch cầu
3800/mm3, tiểu cầu 76000/mm3. Kiểm tra siêu âm thấy lách dày 5 cm ở dưới bờ
sườn 3cm, bờ trên của gan nằm ở gian sườn thứ 6 (7cm), dưới bờ sườn 2 cm.
Uống thuốc barit để chụp phim cho thấy tĩnh mạch thực quản ở đoạn dưới giãn
nhẹ.
Chứng này là do huyết ứ nội trở gây ra. Điều trị phải loại huyết hóa ứ,
nhuyễn kiên tán kết. Cho dùng bài Nhuyễn kiên súc tì thang, mỗi thang sắc tới còn
300ml, uống một lần vào buổi tối lúc đói. Hai tuanà sau kiểm tra chức nǎng gan,
transaminase glutamic tǎng cao đến 36 đơn vị (theo phương pháp cải tiến), bèn
ngừng bài thuốc trên, cho dùng bài Kiện can sinh hóa thang: Đảng sâm 15g, Bạch
truật (sao) 9-12g, Sơn dược (sống) 30g, Đương qui, Thanh bì, Chỉ xác (sao) mỗi
thứ 12g, Đan sâm 15-30g, Bạch dược (sống) 18g, Long đởm thảo, Xuyên liên mỗi
thứ 6-9g, Sài hồ 9g, mỗi ngày sắc uống một thang cùng thuốc tây y bảo vệ gan.
Sau nửa tháng, transaminase glutamic trở lại bình thường. Tiếp tục uống Nhuyễn


kiên súc tì thang, uống thêm Súc tì tán (ngũ linh chi 30g, Nga truật, Tam lǎng mỗi
thứ 60g, Xuyên sơn giáp 90g, Sài hồ 45g, cùng tán bột mịn, mỗi lần uống 6g, ngày
uống hai lần sáng tối. Một tháng sau, gan lách đều thu nhỏ. Nằm viện 96 ngày, khi
ra viện bệnh nhân tự thấy khỏi hết bệnh, lưỡi hơi tím nhạt, sáu mạch huyễn hữu
lực, chức nǎng gan bình thường, bạch cầu 5300/m3, tiểu cầu 95.000/mm3. Kiểm
tra bằng siêu âm: lách dày 3,5cm. Chụp phim sau khi uống barit thấy hết giãn tĩnh
mạch, thực quản. Ra viện tiếp tục điều trị. Sau một tháng khám lại, tiểu cầu lại
tǎng đến 113.000/mm3. Theo dõi trong 4 tháng, tình trạng tốt, khỏi bệnh.
Bàn luận: Xơ gan do tǎng áp lực tĩnh mạch cửa, lách sưng to, cường lách
thuộc phạm trù tích tụ trong đông y. Tích tụ chia ra chứng tích và chứng tụ. Chứng
tích phần lớn thuộc phần huyết hóa ứ, nhuyễn kiên tán kết. Đơn thuốc Súc tì thang
và Súc tì tán được cấu tạo theo phép này, ứng dụng vào lâm sàng thu được hiệu
quả mĩ mãn. Trong thời gian điều trị, liều lượng thuốc phải từ ít đến nhiều, tǎng
dần liều lượng sao cho không tổn thương chính khí (ý nói tình trạng chung và các
chỉ tiêu chức nǎng gan, đôi khi phối hợp uống với Súc tì tán để nâng cao hiệu quả
điều trị, rút ngắn thời gian chữa bệnh. Nhưng phải chú ý định kỳ kiểm tra chức
nǎng gan và xét nghiệm máu, nước tiểu để nắm vững những thay đổi. Nếu bệnh
nhên tự cảm thấy chứng bệnh rõ rệt, chức nǎng gan bị tổn thương nghiêm trọng thì
phải giảm liều hoặc ngừng hẳn thuốc, chuyên sang dùng thuốc phù chính của đông
y hoặc thuốc bảo vệ gan của tây y để điểu chỉnh cũng có thể dùng bài thuốc Kiện
can sinh hóa thang để chữa, đợi chức nǎng gan chuyển biến tốt mới tiếp tục công
trị cho đến khi khỏi hẳn.
Xơ gan giai đoạn sớm
Biện chứng đông y: Can kinh uất nhiệt, thương âm hóa hỏa.
Cách trị: Dưỡng âm nhu can, sơ can hòa lạc.
Đơn thuốc: Nhất quán tiễn gia vị.
Công thức: Sinh địa hoàng 15g, (Nam) Sa sâm 12g, (Thốn) mạch đông 9g,
Qui thân 9g, Cam kỉ tử 9g, Xuyên luyện tử 6g, Tử đan sâm 6g, Quảng uất kim 9g,
Sinh mạch nha 12g, Sinh miết giáp 12g, Phấn trư linh 12g, Xuyên liên 3g. Sắc
uống mỗi ngày 1 thang.

Hiệu quả lâm sàng: Bệnh nhân XX, nam, 42 tuổi, cán bộ. Bệnh nhân kể đã
6 nǎm có gan to, vùng gan đau với bệnh viêm gan không rõ rệt. Có bộ mặt đau gan
mạn tính, trên mặt có các u mạch hình sao, củng mạc không nhiễm vàng, vùng lá
gan và bụng mềm, bờ gan ở dưới bờ sườn 2 khoát ngón tay, thể chất trung bình,
mặt gan nhẵn không gồ ghề, chưa sờ thấy lách, chưa có cổ trướng. Xét nghiệm
chức nǎng gan chưa thấy biến đổi rõ rệt, tỉ số albumin, globulin là 1,3/1. Chẩn
đoán lâm sàng là xơ gan giai đoạn sớm.
Hội chẩn đông y: thấy vùng gan đau, ǎn không ngon, bụng đầy, miệng khô,
buồn nôn, trong lòng bứt rứt không yên, chân phù nhẹ, tiểu tiện vàng đỏ, rêu lưỡi
vàng, chất lưỡi đỏ ít tân dịch, mạch tế huyền hơi sác. Trị bằng phép dưỡng âm nhu
can, sơ can hoạt lạc. Cho dùng bài Nhất quán tiễn gia vị. Tùy bệnh chứng mà gia
giảm, trước sau dùng tất cả 35 thang, đồng thời dùng phối hợp các thuốc tây bảo
vệ gan, sau khi dùng thuốc thì cảm thấy các chứng cơ bản đều hết, sắc diện từ chỗ
gụ xám trở thành có thần sắc, gan mềm đi, điện đi protein bình thường. Sau khi ra
viện 2 nǎm, hỏi lại tình trạng cơ thể vẫn giữ được ổn định, bệnh chưa phát triển
lại.

×