Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (112.11 KB, 5 trang )
ĐẠI CƯƠNG VỀ HUYỆT
(Kỳ 1)
I. ĐỊNH NGHĨA HUYỆT
Theo sách Linh khu thiên Cửu châm thập nhị nguyên: “Huyệt là nơi thần
khí hoạt động vào - ra; nó được phân bố khắp phần ngoài cơ thể”.
Có thể định nghĩa huyệt là nơi khí của tạng phủ, của kinh lạc, của cân cơ
xương khớp tụ lại, tỏa ra ở phần ngoài cơ thể. Nói cách khác, huyệt là nơi tập
trung cơ năng hoạt động của mỗi một tạng phủ, kinh lạc…., nằm ở một vị trí cố
định nào đó trên cơ thể con người.
Việc kích thích tại những huyệt vị này (bằng châm hay cứu) có thể làm
những vị trí khác hay bộ phận của một nội tạng nào đó có sự phản ứng nhằm đạt
được kết quả điều trị mong muốn.
Huyệt không những có quan hệ chặt chẽ với các hoạt động sinh lý và các
biểu hiện bệnh lý của cơ thể, mà còn giúp cho việc chẩn đoán và phòng chữa bệnh
một cách tích cực.
Theo các sách xưa, huyệt được gọi dưới nhiều tên khác nhau: du huyệt,
khổng huyệt, kinh huyệt, khí huyệt, cốt huyệt Ngày nay huyệt là danh từ được
sử dụng rộng rãi nhất.
Các nhà khoa học ngày nay chỉ công nhận sự hiện hữu của huyệt vị châm
cứu về mặt hiệu quả trị liệu và về mặt điện sinh vật (tham khảo thêm ở phần III -
bài mở đầu).
II. TÁC DỤNG CỦA HUYỆT VỊ CHÂM CỨU THEO ĐÔNG Y
A. TÁC DỤNG SINH LÝ
Huyệt có quan hệ chặt chẽ với kinh mạch và tạng phủ mà nó phụ thuộc. Ví
dụ huyệt thái uyên thuộc kinh Phế có quan hệ mật thiết:
- Với kinh Phế.
- Với các tổ chức có đường kinh Phế đi qua.