Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

ĐẠI CƯƠNG VỀ HUYỆT (Kỳ 2) docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (158.09 KB, 5 trang )

ĐẠI CƯƠNG VỀ HUYỆT
(Kỳ 2)

III. PHÂN LOẠI HUYỆT
Căn cứ vào học thuyết Kinh lạc, có thể chia huyệt làm 3 loại chính:
1. Huyệt nằm trên đường kinh (huyệt của kinh - kinh huyệt):
Huyệt của kinh là những huyệt trên 12 kinh chính và 2 mạch Nhâm, Đốc.
Một cách tổng quát, tất cả các huyệt vị châm cứu đều có những tác dụng
chung trong sinh lý và bệnh lý như đã nêu ở trên. Tuy nhiên, có những huyệt có
vai trò quan trọng hơn những huyệt khác trong điều trị và chẩn đoán. Những huyệt
này đã được người xưa tổng kết lại và đặt thêm tên cho chúng như nguyên, lạc,
khích, ngũ du, bối du… Có thể tạm gọi đây là tên chức vụ của các huyệt vị châm
cứu (ngoài tên gọi riêng của từng huyệt). Những huyệt quan trọng này gồm:
* Huyệt nguyên:
Thường được người thầy thuốc châm cứu xem là “huyệt đại diện” của
đường kinh. Mỗi kinh chính có 1 huyệt nguyên.
Vị trí các huyệt nguyên thường nằm ở cổ tay, cổ chân hoặc gần đó.
Do tính đại diện của nguyên huyệt mà chúng thường được dùng để chẩn
đoán và điều trị những bệnh hư, thực của tạng, phủ, kinh lạc tương ứng.
* Huyệt lạc:
Huyệt lạc là nơi khởi đầu của lạc ngang giúp nối liền giữa kinh dương và
kinh âm tương ứng, thể hiện được quy luật âm dương, mối quan hệ trong ngoài,
quan hệ biểu lý.
Mỗi kinh chính và 2 mạch Nhâm, Đốc có 1 huyệt lạc. Ngoài ra do tính chất
quan trọng của hệ thống Tỳ mà có thêm đại lạc của Tỳ. Tổng cộng có 15 huyệt lạc.
Do đặc điểm giúp nối liền 2 kinh có quan hệ biểu lý mà huyệt lạc thường
được dùng để điều trị bệnh của kinh có huyệt đó, đồng thời điều trị cả bệnh của
kinh có quan hệ biểu lý với nó.
* Huyệt bối du (huyệt du ở lưng):
Những huyệt du ở lưng đều nằm dọc hai bên cột sống, cách đường giữa 1,5
thốn. Những huyệt này đều nằm trên kinh Bàng quang (đoạn ở lưng), nhưng đã


được người thầy thuốc xưa đúc kết, ghi nhận có vai trò quan trọng trong chẩn đoán
và điều trị các bệnh ở những tạng phủ khác nhau, ví dụ như Phế du là huyệt thuộc
kinh Bàng quang nhưng lại có tác dụng chủ yếu trên tạng Phế nên được người xưa
xếp vào huyệt du ở lưng của tạng Phế.
Người xưa cho rằng khí của tạng phủ tụ lại ở lưng tại một huyệt du tương
ứng.
* Huyệt mộ:
Huyệt mộ cũng được tổng kết theo cùng nguyên lý như huyệt bối du,
nhưng có hai điểm khác:
- Huyệt mộ có vị trí ở ngực và bụng.
- Huyệt mộ nằm trên nhiều đường kinh mạch khác nhau (ví dụ như huyệt
Thiên xu - huyệt mộ của Đại trường, nằm trên kinh Vị; huyệt Trung quản - mộ
huyệt của Vị, nằm trên mạch Nhâm).
* Huyệt ngũ du:
Huyệt ngũ du là nhóm 5 huyệt, có vị trí từ khuỷu tay và gối trở ra đến ngọn
chi. Chúng được gọi tên theo thứ tự tỉnh, huỳnh, du, kinh, hợp.
Đặc tính của huyệt ngũ du là có thể điều trị những chứng bệnh của bản kinh
rất tốt.
Những huyệt ngũ du thường được sử dụng trong điều trị theo hai cách: theo
tác dụng chủ yếu của từng loại huyệt và theo luật ngũ hành sinh khắc (xin tham
khảo thêm chi tiết trong bài Nguyên tắc chọn huyệt).
* Huyệt khích:
Khích có nghĩa là khe hở, ý muốn diễn đạt đây là những khe nơi mạch khí
tụ tập sâu trong cơ thể. Về mặt vị trí, những khích huyệt thường tập trung phân bố
ở giữa kẽ gân và xương.
Huyệt khích cũng thuộc vào những yếu huyệt của kinh mạch. Mỗi kinh
mạch trong 12 kinh chính đều có một huyệt khích. Ngoài ra mỗi mạch âm kiểu,
dương kiểu, âm duy, dương duy cũng có 1 huyệt khích. Tổng cộng có 16 huyệt
khích và tất cả đều nằm trên kinh chính.
* Huyệt hội (bát hội huyệt):

Huyệt hội là những huyệt có tác dụng chữa bệnh tốt cho những tổ chức
(theo Đông y) của cơ thể. Có 8 loại tổ chức trong cơ thể: tạng, phủ, khí, huyết,
xương, tủy, gân, mạch. Vì thế có tên chung là tám hội huyệt (bát hội huyệt). Tám
huyệt hội đều nằm trên kinh chính và mạch Nhâm.
* Giao hội huyệt:
Là nơi những đường kinh và mạch (2 hoặc nhiều hơn) gặp nhau. Hiện tại,
trong các sách châm cứu có tổng cộng 94 giao hội huyệt được liệt kê. Những giao
hội huyệt đều nằm trên kinh chính và 2 mạch Nhâm, Đốc.
Đặc tính của những huyệt giao hội là để chữa cùng lúc những bệnh của tất
cả những kinh mạch có liên quan (châm một huyệt mà có tác dụng trên nhiều kinh
mạch).

×