KINH CÂN VÀ CÁCH VẬN DỤNG
(Kỳ 1)
I. ĐẠI CƯƠNG
Đây là các nhánh lớn xuất phát từ các đường kinh chính và chạy đến cơ và
gân (vì thế mà có tên là kinh cân). Chúng gồm 3 kinh âm và 3 kinh dương của
chân và tay.
A. CÁC ĐIỂM ĐẶC THÙ CỦA KINH CÂN
1. Về chức năng sinh lý: các đường kinh cân chỉ liên hệ duy nhất với phần
nông của cơ thể, chúng không có tác dụng đến phần ở sâu, nghĩa là ở tạng/phủ.
Trương Cảnh Nhạc có chú giải về vấn đề này như sau: “Kinh cân có nhiệm
vụ nối liền đến trăm hài cốt; do đó nó thắt chặt, liên lạc toàn thân và đều có chỗ
định vị của nó. Tuy rằng kinh cân có những đường vận hành tương đồng với kinh
mạch, thế nhưng những chỗ kết, chỗ thịnh của kinh cân đều nằm ở các khoảng của
khê cốc. Đó là vì cân khí hội nhau ở những nơi cốt tiết. Cân thuộc Mộc, hoa của
nó ở trảo, vì thế 12 kinh cân đều khởi lên từ những móng tay chân, sau đó chúng
thịnh lên ở phụ cốt, kết ở khuỷu tay và cổ tay, ràng buộc vào đầu gối, liên hệ với
cơ nhục, lên trên đến cổ và gáy, chấm dứt ở đầu và mặt. Trên đây là con đường đi
đại lược của kinh cân trong thân thể”.
2. Các kinh cân khởi phát luôn luôn ở đầu ngón tay hoặc ngón chân, chúng
nối các khớp lớn lại với nhau, sau đó chúng phân nhánh ở mặt trước/sau của cơ thể
hoặc ở đầu.
3. Cuối cùng các đường kinh cân chi phối những vùng mà không có kinh
chính hay kinh biệt đi qua.
B. VAI TRÒ TRONG BỆNH LÝ VÀ ĐIỀU TRỊ
Các rối loạn của các kinh cân được biểu hiện ngay tại vùng mà các đường
kinh ấy đi qua. Các rối loạn này thường cục bộ và thường chỉ ở phạm vi cơ, gân
của vùng đầu thân và chi, ít khi có kèm biểu hiện lâm sàng ở tạng/phủ. Triệu
chứng chủ yếu là đau kèm tê (algoparesthésia) hay ngứa.
Cần phải nhắc rằng, nhờ vào hệ thống kinh cân mà có một số huyệt có
những tác dụng ngoài đường kinh chính và kinh biệt.
Ví dụ: Hợp cốc và Dương khê trị được đau đầu là do kinh cân Đại trường đi
từ vùng trán bên này băng qua đỉnh phía bên kia, sau đó đi xuống hàm trên bên đối
diện.
Về thực hành, kinh cân đóng vai trò quan trọng trong điều trị các bệnh gọi
là “biểu” mà nguyên nhân không lệ thuộc vào các kinh chính và kinh biệt.
Phương pháp trị liệu chủ yếu gồm 2 yếu tố:
- Chọn huyệt: chủ yếu là sử dụng những huyệt đau tại chỗ dọc theo lộ trình
kinh cân bệnh.
Thiên 13, sách Linh khu khi mô tả lộ trình của 12 kinh cân, triệu chứng
bệnh lý của từng kinh cân đều nêu rõ chỉ có một cách chọn huyệt như sau: “Khi
châm nên tìm chỗ nào đau (thống điểm) xem đó là du huyệt để châm”.
- Chọn phương pháp và thời gian châm: cũng như trên, thủ pháp và thời
gian châm trị bệnh của tất cả kinh cân đều như nhau. Đó là châm có kèm cứu
nóng, phép châm phải công tà nhanh, không cần phải theo “Phép nghinh tùy xuất
nhập” gì cả.
Thiên 13, sách Linh khu có nêu về thủ pháp này như sau: “ Phép trị nên
châm bằng phép phần châm để đuôi hàn tà cho nhanh. Không kể số lần châm,
châm cho đến khi hết thì thôi”.
Về phép phần châm, Trương Cảnh Nhạc chú giải như sau: “Phần châm là
phép thiêu châm. Chữ kiếp ý nói dụng hỏa khí đuổi gấp hàn tà khí”. Trương Cảnh
Thông lại chú: “Phần châm tức là thiêu châm. Kiếp thích ý nói phép châm này như
đang ở thế đoạt khí nhanh, châm vào là tà khí phải ra đi, không theo phép nghinh
tùy xuất nhập gì cả”.
C. SỰ CẤU THÀNH HỆ THỐNG ĐẶC BIỆT “4 HỢP”
* Các đường kinh cân liên hệ với nhau theo quy cách: 3 đường kinh âm, 3
đường kinh dương.
Chương 13, sách Linh khu xác định:
- Ba kinh cân dương ở chân hợp ở xương hàm trên (apphyse zygomatique).
- Ba kinh cân âm ở chân hợp nhau ở bộ phận sinh dục.
- Ba kinh cân dương ở tay hợp ở 2 bên sọ (đầu duy).
- Ba kinh cân âm ở tay hợp nhau ở bên lồng ngực.
* “Bốn hợp” của kinh cân:
+ Kinh cân Bàng quang - Đởm - Vị.
+ Kinh cân Tỳ - Can - Thận.
+ Kinh cân Tam tiêu - Tiểu trường - Đại trường.
+ Kinh cân Phế - Tâm bào - Tâm.