Bài 2: Sự phát triển của các tư tưởng quản trị
15
BÀI 2: SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC TƯ TƯỞNG QUẢN TRỊ
Mục tiêu
• Giải thích ý nghĩa của việc nghiên
cứu lịch sử môn quản trị học;
• Xác định được một số đóng góp lớn
trước thế kỷ 20 đối với quản trị;
• Tóm lược đóng góp của những học
giả theo quan điểm quản trị một
cách khoa học.
• Mô tả những đóng góp của các lý
thuyết gia về hành chính;
• Tóm tắt trường phái quản trị theo định
lượng, theo hệ thống và theo tình
huống;
• Mô tả những đóng góp của những
người sớm ủng hộ hành vi tổ chức;
• Giải thích mức độ quan trọng của
các nghiên cứu của Hawthorne;
• Mô tả các yếu tố tác động đến quản
trị hiện đại.
Nội dung Hướng dẫn học
Bài học này sẽ đề cập tới các nội dung sau:
• Lịch sử ra đời của quản trị;
• Trường phái quản trị cổ điển;
• Trường phái quản trị hành vi;
• Trường phái quản trị định lượng;
• Trường phái quản trị hệ thống;
• Xu hướng và các vấn đề cần quan tâm của
quản trị hiện đại;
• Trường phái quản trị theo tình huống.
Thời lượng học
• 8 tiết.
• Ôn lại Bài 1 – Tổng quan về quản
lý/quản trị để có thể hiểu hơn về các
khái niệm tổ chức, hiệu quả, các
chức năng quản lý, . .
• Tìm đọc: Quản trị học, Nguyễn Hải
Sản, Nhà xuất bản thống kê, 1998:
Chương 2- Sự phát triển của tư
tưởng quản trị (từ trang 36-67) và
một số tài liệu liên quan để có thể
hoàn thành bài tập thực hành và trả
lời các câu hỏi ôn tập của bài.
• Thảo luận với giáo viên và học viên
về các vấn đề chưa nắm rõ.
Bài 2: Sự phát triển của các tư tưởng quản trị
16
TÌNH HUỐNG DẪN NHẬP
Tình huống: Phải chăng vấn đề từ quản lý?
Giả sử bạn là giám đốc của một công ty sản xuất kem lâu năm ở Hà Nội. Trong bốn năm qua,
doanh số bán hàng luôn tăng hàng quý, tuy nhiên quý vừa rồi, doanh số đã không đạt được
17% kế hoạch, sản xuất thấp dưới 15% so với dự đoán, tỉ lệ nhân viên vắng mặt và đi làm
muộn cao hơn 20% so với quý trước.
Câu hỏi
Bạn tin chắc rằng các vấn đề này có liên quan đến vấn đề quản lý,
nhưng bạn không chắc chắn về các nguyên nhân của chúng hoặc các
bước cần thiết để khắc phục chúng.
Bài học này sẽ giúp bạn có những cách nhìn nhận về công việc quản
lý tại công ty của bạn theo các quan điểm và trường phái khác nhau:
quản trị hành chính, quản trị hành vi, quản trị định lượng hay quản trị
theo quan điểm hệ thống. Từ các cách nhìn nhận công việc quản lý
theo các khía cạnh, trường phái khác nhau này bạn sẽ tìm ra cách
thức quản lý có hiệu quả và phù hợp nhất đối với công ty của bạn.
Bài 2: Sự phát triển của các tư tưởng quản trị
17
Nhiều khái niệm và thực tiễn quản trị hiện nay bắt nguồn từ những lý thuyết quản trị từ hàng
ngàn năm trước đây. Khi quá trình lao động và sản xuất ngày càng mang tính xã hội hóa cao, sự
ra đời của các lý thuyết quản trị ngày càng cần thiết nhằm giải quyết những công việc quản trị do
nhu cầu phát triển sản xuất đặt ra.
Hầu hết các nhà quản lý ngày nay đều nhận ra tầm quan trọng của lịch sử và lý thuyết về công
việc của họ. Lý thuyết đơn giản là một khung khái niệm để sắp xếp các kiến thức và cung cấp kế
hoạch chi tiết cho một hành động. Mặc dù có một vài lý thuyết khá trừu tượng, nhưng nhìn
chung các lý thuyết đều đơn giản và có tính ứng dụng thực tiễn. Phần lớn các lý thuyết về quản
lý được dùng để xây dựng các tổ chức và hướng dẫn các tổ chức xây dựng các mục tiêu của họ
có cơ sở vững chắc trong thực tế. Và hầu hết các nhà quản lý phát triển và làm tinh tế hơn các lý
thuyết của họ để làm thế nào có thể quản trị tổ chức thông qua việc sử dụng hợp lý và có hiệu
quả các nguồn lực hạn chế của tổ chức, ra quyết định, phối hợp các nguồn lực và quản trị các
nhân viên của họ tốt nhất.
Bên cạnh đó, hiểu biết về lịch sử của quản trị sẽ giúp các nhà quản trị cảm nhận được giá trị tinh
hoa do lịch sử quản trị để lại và từ đó giúp họ có thể tìm ra cách thức tốt nhất để quản lý tốt một
tổ chức. Do đó, việc nghiên cứu quá trình phát triển của tư tưởng quản trị có vai trò quan trọng
đối với các nhà quản trị.
Ngày nay nhiều tổ chức đang thích ứng với những thay đổi của môi trường bên ngoài, đặc biệt là
những đột phá về công nghệ và phát triển các hoạt động dựa trên các trang web. Những mô hình
kinh doanh mới cho thấy thông tin có thể được chia sẻ và trao đổi tức thời trên toàn cầu. Mục
đích của bài này là chứng minh rằng kiến thức về lịch sử quản trị có thể giúp hiểu rõ được những
lý thuyết và thực tiễn quản trị.
2.1. Sự phát triển của các tư tưởng quản trị
Trước năm 1900, chỉ có ba trường đại học ở Mỹ (Pennsylvania, Chicago và
California) có ngành quản trị kinh doanh. Tuy nhiên, trên thực tế, nhiều ví dụ trong
lịch sử loài người cho thấy quản trị đã được thực hiện từ vài ngàn năm trước.
Kim tự tháp Ai Cập hay Vạn lý trường thành là
những ví dụ tiêu biểu cho các công trình có quy mô
vĩ đại và quan trọng, sử dụng hàng chục nghìn
người và có thể coi là những minh chứng thực tế về
khả năng quản trị của con người từ xa xưa. Làm thế
nào mà các công trình này có thể hoàn thành được?
Câu trả lời chính là quản trị. Cho dù các kỹ năng về
quản trị của người Ai Cập hay Trung Quốc còn khá
đơn giản nhưng về nguyên tắc hoạt động của họ
không khác biệt so với các nhà quản trị ngày nay.
Vào thời điểm đó thì họ vẫn phải lên kế hoạch cho những công việc cần làm, tiếp nhận
và huy động các nguồn lực như con người, vật tư để thực hiện những công việc đó,
phối hợp các hoạt động riêng rẽ và hướng dẫn công nhân, thực hiện kiểm tra để đảm
bảo rằng mọi việc đều được thực hiện như đã dự định.
Bài 2: Sự phát triển của các tư tưởng quản trị
18
Một ví dụ khác về quản trị được ghi lại vào khoảng thế kỷ 15 tại Venice, Italy, một
trung tâm thương mại và kinh tế lớn thời bấy giờ. Mô hình công ty, doanh nghiệp đầu
tiên đã xuất hiện trong các pháo đài đóng và lắp ráp chiến thuyền. Qua các kênh nước,
tại mỗi bến đỗ, các cầu trục và vật liệu được đóng và lắp ráp tuần tự để tạo nên một
chiến thuyền hoàn thiện. Như vậy, dây chuyền lắp ráp, hệ thống kế toán và chức năng
nhân sự đã xuất hiện ngay từ thời gian này và vẫn tồn tại trong các tổ chức ngày nay.
Mặc dù thực tiễn đã chứng minh, công việc quản trị đã được thực hiện từ hàng ngàn
năm trước đây, nhưng sự phát triển quản trị như một lĩnh vực khoa học ứng dụ
ng mới
chỉ xuất hiện gần đây. Sự thúc đẩy lớn nhất để phát triển các lý thuyết và nguyên tắc
quản trị xuất hiện từ các luận điểm của Adam Smith và cuộc Cách mạng công nghiệp
vào những năm 1800.
Adam Smith, tác giả của học thuyết kinh tế cổ điển đã nêu bật lợi thế kinh tế của việc
phân công lao động đem lại cho tổ chứ
c và xã hội. Trong cuốn An Inquiry into the
nature and causes of Wealth of Nations (Tìm hiểu về bản chất và nguồn gốc của cải
của các quốc gia) (1776), A. Smith giải thích rằng: phân công lao động là chia nhỏ
các công việc thành những nhiệm vụ (thao tác) nhỏ hơn, lặp đi lặp lại, và nhờ vậy tăng
được năng suất. Ví dụ, 10 công nhân làm đinh, nếu được chuyên môn hóa, có thể làm
ra 48.000 chiếc trong 1 ngày, trong khi đó, nếu 1 công nhân làm toàn bộ các phần việc
thì chỉ được 10 chiếc đinh trong một ngày.
Cuộc Cách mạng công nghiệp vào thế kỷ 18 tại Anh có thể được xem là sự kiện
có ảnh hưởng quan trọng nhất đến khoa học quản trị. Trong giai đoạn này, máy móc
thay thế cho lao động thủ công, cùng với sự phân công lao động đã tạo ra các
công xưởng lớn, hiệu quả. Các tổ chức lớn hơn này đòi hỏi hoạt động quản lý chính
tắc, từ việc dự báo nhu cầu, đảm bảo cung cấp nguyên vật liệu, phân công lao động,
đảm bảo máy móc được bảo quản và hoạt động trong điều kiện làm việc tốt nhất, các
tiêu chuẩn công việc được duy trì, tìm kiếm thị trường cho sản phẩm v.v. Nói cách
khác, lập kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo và kiểm tra đã trở nên cần thiết. Hình 2.1 cho
thấy sự phát triển của các tư tưởng quản trị chủ yếu.
Các ví dụ trên cho thấy, những hoạt động này chủ yếu dựa vào kinh nghiệm và hoạt động
dựa trên nguyên tắc thử và sai. Chính vì thế việc sử dụng các nguồn lực chưa hiệu quả,
năng suất lao động thấp và có nhiều sự cố xảy ra trong quá trình lao động là không thể
tránh khỏi.
Như vậy, sự phát triển các lý thuyết về quản trị có sự khác biệt do các tư tưởng quản trị
xuất hiện vào những thời điểm khác nhau, dựa trên những quan điểm khác nhau về hành vi
của con người trong tổ chức, công việc của người quản trị, những mục tiêu chủ yếu của tổ
chức, những vấn đề mà tổ chức phải đương đầ
u, …
Bài 2: Sự phát triển của các tư tưởng quản trị
19
Hình 2.1: Sự phát triển của các tư tưởng quản trị chủ yếu
(Nguồn: Bartil, Tein, Matthews, and Martin, 2003, Management: A Pacific Rim Focus, Enhanced edition,
Mc. Graw Hill – có điều chỉnh).
2.2. Trường phái quản trị cổ điển
Trường phái quản trị cổ điển tập trung vào quản trị công việc và tổ chức sao cho có
hiệu quả hơn. Đây là một trường phái quản trị lâu đời nhất và được thừa nhận rộng rãi
ở phương Tây và gồm có hai lý thuyết chính là quản trị khoa học và quản trị hành
chính. Các lý thuyết này đều ra đời vào giai đoạn cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 – thời
điểm th
ịnh hành của nền công nghiệp đại cơ khí và các kỹ sư là những người điều
hành các doanh nghiệp.
2.2.1. Trường phái quản trị khoa học
Quản trị khoa học là một cách tiếp cận của lý thuyết quản trị cổ điển nhằm tập trung
vào nghiên cứu các phương pháp làm việc để cải thiện hiệu quả làm việc của người
lao động.
• Frederick Winslow Taylor được xem là cha đẻ của
thuyết quản trị mang tính khoa học. Sinh ra trong
một gia đình tương đối giàu có tại Philadelphia, ông
bắt đầu sự nghiệp là một công nhân bình thường tại
một xưởng cơ khí nhỏ ở Philadelphia. Sau đó ông
chuyển sang làm việc tại nhà máy thép Midvale với
vị trí đốc công. Tại đây ông đã theo dõi và nghiên
cứu sự hợp tác giữa những người quản lý và công
nhân, tìm thấy sự không hiệu quả và lãng phí trong
sản xuất và năng suất lao động thay đổi giữa các nhóm công nhân.
Lý thuyết Quản trị
Lịch sử phát triển
quản trị
Trường phái
Quản trị cổ điển
Trường phái
Quản trị hành vi
Trường phái
quản trị định lượng
Trường phái quản trị
khoa học
Những người ủng
hộ đầu tiên
Những ví dụ ban
đầu về quản trị
Nghiên cứu của
Hawthorne
Lý thuyết quản trị
hành chính
Cách mạng
Công nghiệp
Adam Smith
Bài 2: Sự phát triển của các tư tưởng quản trị
20
Công việc của Taylor tại các công ty thép vùng Midvale và Bethlehem đã thúc đẩy
sự quan tâm của ông trong việc nâng cao hiệu suất. Taylor tìm cách thay đổi cách
suy nghĩ của cả những người quản lý lẫn công nhân thông qua 4 nguyên tắc quản
lý nhằm đem nâng cao hiệu năng sản xuất. Những nguyên tắc quản trị theo khoa
học của Taylor có thể được tóm tắt như sau:
o Xây dựng những quy luật làm việc một cách khoa học cho mỗi phần việc của
từng cá nhân;
o Lựa chọn nhân viên một cách khoa học, sau đó huấn luyện, đào tạo và phát
triển họ;
o Hợp tác nhiệt tình với công nhân để đảm bảo rằng mọi công việc đều được
hoàn thành theo đúng các nguyên tắc khoa học đã được xây dựng;
o Phân chia công việc và trách nhiệm tương đối công bằng giữa người quản lý và
nhân viên. Người quản lý chịu trách nhiệm cho những công việc phù hợp với
khả năng của họ hơn là nhân viên.
Thử nghiệm cho công việc bốc xếp gang, Taylor bố trí đúng người đúng việc, cung
cấp đúng công cụ lao động cần thiết, hướng dẫn và yêu cầu công nhân tuân thủ
theo đúng hướng dẫn của mình, và trả lương cao theo kết quả công việc. Nhờ vậy
đã tăng năng suất lao động bốc xếp gang lên 47– 48 tấn/ngày từ 12,5 tấn/ngày.
Ông khẳng định rằng, vai trò của người quản lý là hoạch định và kiểm tra, còn của
công nhân là thực hiện đúng những gì được hướng dẫn. Trong cuốn “Những
nguyên tắc của Quản lý mang tính khoa học – Principles of Scientific
Management” xuất bản năm 1911, Taylor mô tả Quản lý mang tính khoa học là sử
dụng phương pháp khoa học để tìm ra một cách tốt nhất để thực hiện một công việc.
• Những người có đóng góp quan trọng trong việc phát triển lý thuyết Quản lý mang
tính khoa học là vợ chồng Frank và Lillian Gilbreth (một nhà thầu xây dựng và
một nhà tâm lý học). Frank và Lillian bị cuốn hút bởi những kết quả của Taylor và
tiếp tục nghiên cứu, phát triển phương pháp quản lý khoa học của riêng mình bằng
cách biến những nghiên cứu thao tác của Taylor thành một khoa học chính xác.
Ông bà Gilbreth là những người đi tiên phong trong việc sử dụng các đoạn phim
để nghiên cứu các cử động của tay và cơ thể, nhằm loại bỏ những cử động không
cần thiết.
Những nghiên cứu của ông bà Gilbreth thường được thử nghiệm trong việc xây
tường, giảm số lượng cử động cần thiết từ 18 xuống 5. Do đó, nâng năng suất xây
từ 120 viên gạch/giờ lên mức 350 viên/giờ. Nhờ vậy, người thợ xây trở nên năng
suất hơn và ít mệt mỏi hơn vào cuối ngày lao động.
Đóng góp quan trọng của Ông bà Gilbreth là phát minh ra hệ thống phân loại
17 cử động của tay, được gọi là therbligs, nhằm đơn giản hóa công việc.
• Ngày nay, những nguyên tắc của Taylor và các nhà nghiên cứu khác đưa ra để
nâng cao hiệu quả sản xuất vẫn được công nhận và áp dụng trong nhiều tổ chức.
Các nhà quản lý ngày nay đã ứng dụng các nguyên tắc khoa học trong việc phân
tích những thao tác công việc cơ bản cần phải thực hiện, cải tiến quy trình tuyển
dụng và huấn luyện nhân viên nhằm đáp ứng đúng yêu cầu công việc, và thiết kế
hệ thống khen thưởng dựa trên kết quả công việc.
Bài 2: Sự phát triển của các tư tưởng quản trị
21
Tuy vậy, các trường phái quản trị khoa học đều không quan tâm đến khía cạnh con
người trong sản xuất. Taylor và Frank đều cho rằng công nhân được thúc đẩy chủ
yếu bằng sự phục vụ để thu được tiền bạc nhằm thỏa mãn nhu cầu kinh tế và vật
chất của họ. Tuy nhiên, trên thực tế họ còn có các nhu cầu xã hội, các điều kiện
làm việc, và sự thỏa mãn công việc còn quan trọng hơn so với tiền bạc. Hơn nữa,
hoạt động quản lý ngày nay không chỉ giới hạn trong phương pháp quản lý khoa
học. Trên thực tế, còn có các lý thuyết từ một phương pháp quản lý khác – quản trị
tổng quát.
2.2.2. Trường phái quản trị hành chính
Quản trị hành chính là một cách tiếp cận quản lý
theo trường phái cổ điển tập trung vào các nguyên tắc mà
các nhà quản trị sử dụng để điều phối các công việc nội
bộ của một tổ chức. Những thuyết gia thuộc trường phái
này nhấn mạnh đến sự chuyên môn hóa lao động, hệ
thống quyền lực và ra mệnh lệnh. Những thuyết gia điển
hình cho quan điểm này là Henri Fayol và Max Weber.
• Henry Fayol, cha đẻ của lý thuyết quản trị hành
chính, cũng đưa ra những nghiên cứu của mình
cùng thời với Frederick W. Taylor. Fayol là giám
đốc của một công ty khai thác than lớn của Pháp.
Ông đã xuất bản cuốn sách “Quản trị công nghiệp
tổng quát” đề cập đến các nguyên tắc quản trị. Trọng tâm nghiên cứu của ông là
hành động của tất cả các nhà quản lý. Ông cho rằng một nhà quản trị thành công
chủ yếu dựa vào những phương pháp quản lý mà người đó vận dụng hơn là những
đặc điểm riêng của ông ta. Các nhà quản trị muốn thành công thì cần phải hiểu rõ
các chức năng quản trị cơ bản như hoạch định, tổ chức, lãnh đạo, kiểm soát và áp
dụng những nguyên tắc quản trị nào đó.
Henry Fayol đưa ra 14 nguyên tắc của quản trị mà các nhà quản trị cần được huấn
luyện thích hợp để áp dụng trong công việc quản lý của họ.
14 nguyên tắc của quản trị của Henry Fayol
• Phân công lao động. Sự chuyên môn hóa làm tăng sản lượng bằng cách giúp cho
công nhân đạt hiệu quả cao hơn trong công việc.
• Quyền hạn. Người quản trị phải có khả năng ra các mệnh lệnh để hoàn thành công
việc. Quyền hạn, phải luôn gắn liền với trách nhiệm.
• Kỷ luật. Nhân viên phải tuân thủ và tôn trọng những luật lệ của tổ chức.
• Thống nhất mệnh lệnh. Mỗi một nhân viên chỉ nên nhận mệnh lệnh từ một người ở
cấp cao hơn.
• Thống nhất lãnh đạo. Những hoạt động và nỗ lực của mọi thành viên đều hướng tới
mục tiêu chung của tổ chức và chỉ do một nhà quản trị phối hợp và điều hành.
• Lợi ích cá nhân phụ thuộc vào quyền lợi chung của tổ chức. Lợi ích của bất kỳ
một cá nhân hay một nhóm nhân viên nào trong tổ chức không được vượt quá quyền
lợi của tổ chức.
• Trả công hợp lý. Công nhân phải được trả công thỏa đáng với công sức của họ.
• Tập trung hóa. Mức độ tập trung hóa hoặc phân quyền hợp lý phụ thuộc vào từng
Bài 2: Sự phát triển của các tư tưởng quản trị
22
tình huống. Mục tiêu là tối đa hoa việc sử dụng năng lực của cá nhân.
• Chuỗi định hướng. Liên hệ quyền hạn từ cấp quản lý cao nhất đến những cấp thấp
nhất trong tổ chức.
• Trật tự. Tất cả mọi người và thiết bị, nguyên liệu cần được bố trí đúng nơi, đúng lúc.
• Công bằng. Người quản lý cần đối xử ân cần và công bằng với những người cấp
dưới của họ
• Sự ổn định về nhân sự. Tốc độ luân chuyển nhân sự cao sẽ không đem lại hiệu quả.
• Sáng kiến. Cấp dưới được tự do xây dựng và thực hiện những kế hoạch do họ tạo ra
• Tinh thần đồng đội. Khích lệ tinh thần đồng đội sẽ giúp tạo ra sự hài hòa và thống
nhất trong tổ chức. Đó là chìa khóa của sự thành công.
• Max Weber là nhà xã hội học người Đức, chuyên nghiên cứu về quản trị văn
phòng của các cơ quan chính phủ. Những đóng góp của ông được xuất bản vào
đầu thế kỷ 20. Ông phát triển lý thuyết về cơ cấu quyền hạn và mô tả hoạt động
của tổ chức dựa trên các mối quan hệ về quyền hạn.
Ông mô tả tổ chức lý tưởng nhất – hành chính (bureaucracy), là tổ
chức có sự phân
công lao động, thứ bậc được xác định rõ ràng, có các luật lệ và quy định chính tắc,
định hướng phát triển nghề nghiệp và những mối quan hệ khách quan.
Đặc điểm Miêu tả
Phân công
lao động
Công việc được chia nhỏ thành những thao tác đơn giản, đều đặn và
rõ ràng
Các luật lệ và nội
quy chính tắc
Hệ thống văn bản các luật lệ và quy trình hoạt động tiêu chuẩn
Tính khách quan Áp dụng thống nhất các nội quy và kiểm tra, không phải theo từng
cá nhân
Thứ bậc quyền hạn
rõ ràng
Các vị trí được tổ chức theo thứ bậc với chuỗi mệnh lệnh rõ ràng
Định hướng phát
triển nghề nghiệp
Người quản lý là chuyên gia về nghề nghiệp, không phải là chủ của đơn
vị họ quản lý
Hình 2.2: Những đặc điểm chính của mô hình tổ chức hành chính lý tưởng của Max Weber
Trong các tổ chức lớn ngày nay, những đặc điểm chính của tổ chức hành chính của
Weber vẫn còn tồn tại kể cả trong những tổ chức linh hoạt bao gồm các chuyên gia
xuất chúng, một số cơ chế hành chính vẫn cần thiết để đảm bảo các nguồn lực
được sử dụng một cách hiệu năng và hiệu quả.
2.3. Trường phái quản trị hành vi
Khác với trường phái quản trị cổ điển là tập trung vào
tổ chức và các công việc từ khía cạnh của các kỹ sư,
trường phái tiếp cận hành vi tập trung nhiều hơn vào
thái độ và hành vi của cá nhân và quá trình làm việc
theo nhóm và nhận thức được tầm quan trọng của các
quá trình hành vi ở nơi làm việc. Bên cạnh đó, trong
một tổ chức, người quản lý thường đạt được mục tiêu
thông qua người khác. Những gì chúng ta biết ngày nay về quản lý nguồn nhân lực,
động viên, khuyến khích, lãnh đạo, làm việc nhóm và giải quyết mâu thuẫn đều là kết
quả của việc nghiên cứu hành vi tổ chức.
Bài 2: Sự phát triển của các tư tưởng quản trị
23
2.3.1. Những người ủng hộ đầu tiên.
Bốn học giả đầu tiên ủng hộ phương pháp quản trị hành vi là Robert Owen, Hugo
Munsterberg, Mary Parker Follett, và Chester Barnard. Hình 2.3 tóm tắt những ý
tưởng quan trọng của các học giả này.
Stt Ý tưởng của các học giả
1 Robert Owen (cuối thế kỷ XVIII), là một doanh nhân thành đạt người Scotland đã đề xuất
môi trường làm việc lý tưởng. Ông cho rằng tiền đầu tư vào con người là những khoản tiền
đầu tư thông minh.
2 Hugo Munsterberg (đầu thế kỷ XX) phát triển môn tâm lý học công nghiệp – nghiên cứu con
người khi làm việc. Đề xuất sử dụng các bài kiểm tra tâm lý để lựa chọn nhân viên, các khái
niệm về lý thuyết học tập để đào tạo nhân viên, và nghiên cứu hành vi con người để thúc đẩy
nhân viên.
3 Mary Parker Follett (đầu thế kỷ XX), nhà triết học xã hội, là một trong số những người đầu
tiên cho rằng tổ chức có thể xem xét trên quan điểm cá nhân và nhóm. Bà cho rằng công
việc của người quản lý là điều hòa và điều phối các nỗ lực của nhóm.
4
Chester Barnard (vào những năm 1930), chủ tịch Công ty Điện thoại Bell, New Jersey, quan
sát tổ chức như những hệ thống xã hội cần có sự hợp tác giữa con người với con người. Ông
tin rằng việc chính của người quản lý là giao tiếp và khích lệ những nỗ lực của những người
cấp dưới. Ông cũng đưa ra ý tưởng rằng, người quản lý phải kiểm tra môi trường, sai số điề
u
chỉnh tổ chức để duy trì trạng thái cân bằng.
Hình 2.3: Những học giả ủng hộ quan điểm quản trị hành vi đầu tiên
2.3.2. Những nghiên cứu tại nhà máy Hawthorne:
Quan điểm về quản trị hành vi được nghiên cứu và thực hiện trong khoảng thời gian
từ năm 1924 đến đầu những năm1930 tại nhà máy Hawthorne thuộc công ty điện lực
miền Tây, Chicago, Mỹ.
Các nghiên cứu được thực hiện như những thử nghiệm quản lý khoa học để đánh giá
tác động của những thay đổi về điều kiện làm việc đối với năng suất của công nhân.
Các thử nghiệm khác tập trung vào các hoạt động như thiết kế lại công việc, thay đổi
thời gian làm việc trong ngày và tuần, đưa ra thời gian nghỉ ngơi, và các chương trình
lương theo nhóm và cá nhân. Các nhà nghiên cứu kết luận rằng: những quy tắc xã hội
và tiêu chuẩn của nhóm là những yếu tố quyết định quan trọng đối với hành vi công
việc của mỗi cá nhân. Mặc dù không tránh khỏi những phê phán (về các quy trình
thực hiện, phân tích kết quả, và kết luận), nghiên cứu Hawthorne đã tạo ra sự quan
tâm đáng kể đối với hành vi của con người trong tổ chức.
Hiện nay, cách tiếp cận quản trị hành vi đã hỗ trợ các nhà quản trị trong việc khích lệ
nhân viên, làm việc với nhóm các nhân viên, và mở ra các kênh giao tiếp trong tổ
chức. Phương pháp tiếp cận này cũng đưa ra những cơ sở cho các lý thuyết khuyến
khích nhân viên, lãnh đạo, hành vi và phát triển nhóm, và các chủ
đề về hành vi khác.
2.4. Trường phái quản trị định lượng
Theo cách tiếp cận quản trị định lượng, nhà quản trị thường sử dụng các kỹ thuật định
lượng để nâng cao chất lượng ra quyết định. Phương pháp này bao gồm việc ứng dụng
thống kê, mô hình tối ưu, mô hình thông tin và các mô phỏng máy tính.
Bài 2: Sự phát triển của các tư tưởng quản trị
24
Phương pháp định lượng ứng dụng trong quản trị xuất phát từ các giải pháp toán học
và thống kê để phục vụ cho quá trình lựa chọn một quyết định quản trị tối ưu. Ngày
nay các nhà quản trị vẫn áp dụng những công cụ phân tích định lượng như ứng dụng
quy hoạch tuyến tính để giải các bài toán về phân bổ nguồn lực; ứng dụng phân tích
đường tới hạn để lên lịch trình sản xuất; mô hình quản trị hàng tồn kho tối ưu, lý
thuyết ra quyết định dựa vào phương pháp thống kê, phương trình tuyến tính, v.v…
Để áp dụng phương pháp này thành công, nhà quản trị phải biết sử dụng các công cụ
và phần mềm ra quyết định và đòi hỏi phải có trình độ chuyên môn. Chính vì vậy,
quản trị theo phương pháp định lượng không có nhiều ảnh hưởng đến hoạt động quản
trị như phương pháp quản trị hành vi.
2.5. Trường phái quản trị hệ thống
2.5.1. Khái niệm về hệ thống
Theo lý thuyết hệ thống, hệ thống là một tập hợp gồm
2 phần tử trở lên, giữa các phần tử có mối quan hệ
chặt chẽ với nhau, tác động qua lại nhau một cách có
quy luật để tạo thành một chỉnh thể hay một tổng thể
hợp nhất.
Có hai loại hệ thống cơ bản là hệ thống đóng và hệ
thống mở. Hệ thống đóng hay gọi là hệ thống khép kín
có các phần tử không bị ảnh hưởng và tương tác với
môi trường bên ngoài. Hệ thống mở là hệ thống có sự
tương tác mạnh mẽ với môi trường bên ngoài.
2.5.2. Trường phái quản trị tổ chức theo quan điểm hệ thống
Hình 2.4: Tổ chức như một hệ thống mở
Quá trình hoạt động
- Hoạt động của nhân viên
- Hoạt động của quản lý
- Quy trình công nghệ
- Vận hành
Phản hồi
Hệ thống
Đầu vào
- Nguyên vật liệu
- Nguồn nhân lực
- Vốn
- Công nghệ thông tin
Đầu ra
- Sản phẩm/dịch vụ
- Các kết quả tài chính
thông tin
- Các kết quả về con người
Môi trường
hoạt động
Bài 2: Sự phát triển của các tư tưởng quản trị
25
Theo quan điểm hệ thống thì tổ chức là một hệ thống mở, vì các thành phần trong
tổ chức trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của mình luôn luôn bị
ảnh hưởng của môi trường bên ngoài và tác động qua lại với môi trường bên ngoài
(Hình 2.4). Theo quan điểm này, tổ chức do các yếu tố phụ thuộc lẫn nhau tạo thành,
bao gồm: các cá nhân, các nhóm, thái độ, động cơ, cơ cấu chính tắc, sự tương tác lẫn
nhau, mục đích, vị trí và quyền hạn. Do vậy muốn quản trị tốt một tổ chức,
thì các nhà quản trị cần phải chú ý đến các nguyên tắc quản trị sau:
• Tổ chức cũng là một hệ thống gồm có các bộ phận và cá nhân nhằm hướng tới việc
thực hiện một mục tiêu chung nào đó (vì nó bao gồm rất nhiều các bộ phận khác
nhau như phòng ban, phân xưởng sản xuất,… và trong quá trình hoạt động thì các
bộ phận này có liên hệ chặt chẽ với nhau) muốn quản lý tốt thì phải tổng hoà được
lợi ích của các bộ phận. Đây chính là một nguyên tắc quan trọng trong quản lý một
tổ chức (khác với quản lý máy móc, thiết bị).
• Điểm khác biệt quan trọng của hệ thống và tổ chức là tổ chức thì có sự tham gia và
tác động của con người. Mọi tác động mà nhà quản lý đưa ra đều phải thực hiện
thông qua các con người cụ thể trong tổ chức ở những vị trí khác nhau, có quan
điểm, hiểu biết khác nhau. Do đó quyết định có thể thực hiện được tốt nếu như
người quản lý làm hài hoà được lợi ích giữa các cá nhân trong tổ chức (ví dụ công
nhân thì động cơ làm việc để kiếm được nhiều tiền, nhà quản lý thì thăng chức, sự
thừa nhận từ những người khác,…).
• Có thể nói tổ chức là một hệ thống phức tạp nhưng quá trình hoạt động của nó đều
tuân theo những quy luật biến đổi vật chất nhất định. Muốn điều khiển được tổ
chức thì nhà quản lý cần phải tìm ra những quy luật biến đổi đó và tìm được các
tác nhân điều chỉnh. Đây cũng chính là nguyên tắc đảm bảo tính hệ thống trong
quản lý tổ chức. Ví dụ: quá trình biến đổi lao động sống thành sản phẩm cho tổ
chức hay doanh nghiệp, tác nhân điều chỉnh đến sự nỗ lực của con người như tiền
lương, phần thưởng, cơ hội thăng tiến, cơ hội đào tạo,…
2.6. Trường phái quản trị theo tình huống hay ngẫu nhiên
Vào giữa những năm 1960, nhiều thuyết gia và nhà quản trị đã không thành công khi
áp dụng những quản điểm quản trị cổ điển và hệ thống. Một số người cho rằng phải có
phương pháp quản trị phù hợp cho mỗi một tình huống quản trị cụ thể. Quan điểm
quản trị ngẫu nhiên hay tình huống cho rằng cách thức
quản lý khác nhau cần thiết cho các tổ ch
ức khác nhau
và tình huống khác nhau. Tính hiệu quả của từng
phong cách, kỹ năng quản trị hay nguyên tắc quản trị
sẽ thay đổi tùy theo từng trường hợp, không có những
luật lệ đơn giản và chung cho tất cả các tình huống và
các nhà quản trị phải căn cứ vào tình huống cụ thể để
lựa chọn và sử dụng các nguyên tắc quản trị phù hợp.
Các biến số tình huống hay ngẫu nhiên gồm có: quy mô của tổ chức, tính đều đặn của
công nghệ, tính bất định của môi trường, sự khác biệt của các cá nhân:
• Quy mô của tổ chức. Số lượng các thành viên trong tổ chức là yếu tố ảnh hưởng
quan trọng đối với những gì người quản lý phải thực hiện. Khi quy mô tổ chức
càng lớn, việc điều phối các vấn đề càng phức tạp. Thông thườ
ng quy mô của một
Bài 2: Sự phát triển của các tư tưởng quản trị
26
tổ chức được đánh giá bằng hai chỉ tiêu: tổng số lao động hoặc tổng số vốn pháp
định. Ví dụ: loại cơ cấu phù hợp đối với tổ chức có 1.000 nhân viên có thể sẽ
không hiệu năng với tổ chức chỉ có 20 – 50 nhân viên.
• Tính đều đặn của công nghệ. Để đạt được mục đích của mình, mỗi tổ chức đều
sử dụng công nghệ; tức là quá trình chuyển đổi hoặc biến đổi các yếu tố đầu vào
thành các yếu tố đầu ra. Công nghệ có tính đều đặn, lặp lại yêu cầu một cơ cấu tổ
chức, phong cách lãnh đạo, và hệ thống kiểm tra khác hơn so với những công nghệ
đòi hỏi sự tùy biến hoặc không lặp đi lặp lại. Ví dụ các công ty xây dựng và các
công ty dệt may.
• Tính bất định của môi trường. Mức độ bất định do những thay đổi về chính trị,
công nghệ, văn hóa xã hội, và kinh tế ảnh hưởng rất lớn đến quá trình quản trị.
• Sự khác biệt của các cá nhân. Các cá nhân khác biệt trình độ nhận thức, sở thích,
nhu cầu, mong muốn,…Dựa vào sự khác biệt cá nhân này mà người quản trị lựa chọn
và áp dụng phương pháp quản trị hệ thống, hành vi, hành chính,…cho phù hợp.
2.7. Một số xu hướng và vấn đề cần quan tâm của quản trị hiện đại
Lịch sử quá trình phát triển của các lý thuyết và thực tiễn quản trị được minh chứng
qua những ví dụ thực tiễn và các nghiên cứu của các kỹ sư và nhà khoa học. Ngày
nay, trong điều kiện môi trường thay đổi nhanh chóng, phương pháp quản trị tổ chức
bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố:
• Toàn cầu hóa. Các hoạt động của tổ chức hiện nay không còn bị giới hạn về biên
giới địa lý, một sản phẩm có thể được sản xuất và tiêu thụ ở bất cứ nơi nào không
quan tâm đến ranh giới của các quốc gia. Người quản lý trong mọi loại hình tổ
chức, mọi quy mô tổ chức đều đang phải đối diện với những nguy cơ, cũng như
những thách thức của toàn cầu hóa.
• Tính đa dạng của lực lượng lao động: lực lượng lao động trong các tổ chức hiện
nay rất không đồng nhất về giới, về chủng tộc, sắc tộc, và các đặc trưng khác.
Thách thức đối với người quản trị là làm cho tổ chức của mình trở thành một môi
trường thoải mái cho các nhóm nhân viên khác nhau, bằng cách hòa nhập các lối
sống, nhu cầu gia đình, và phong cách làm việc khác nhau.
• Khởi nghiệp: là quá trình một cá nhân hoặc một nhóm các cá nhân sử dụng các nỗ
lực và phương tiện một cách có tổ chức để theo đuổi những cơ hội tạo ra giá trị và
tăng trưởng bằng cách đáp ứng các mong muốn và nhu cầu thông qua sự sáng tạo
và độc đáo.
• Quản trị trong thời đại Kinh doanh điện tử (E-Business)
E-business (electronic business) – mô tả cách thức
tổ chức thực hiện công việc của mình bằng việc sử
dụng các liên kết điện tử (dựa trên internet) với các
thành viên quan trọng để đạt được các mục tiêu của
mình một cách hiệu năng và hiệu quả.
Thương mại điện tử (electronic commerce) là một
hình thức trao đổi hoặc giao dịch kinh doanh mà
trong đó các đối tác liên hệ với nhau qua mạng
internet.
Bài 2: Sự phát triển của các tư tưởng quản trị
27
E-business nâng cao tổ chức – sử dụng Internet để hỗ trợ (không thay thế) các thức
kinh doanh truyền thống của các tổ chức.
E-business tạo khả năng cho tổ chức – Internet giúp cho các thành viên của tổ chức
có khả năng làm việc hiệu năng và hiệu quả hơn.
• Nhu cầu sáng tạo và linh hoạt: Những ý tưởng mới liên tục rất quan trọng đối
với tổ chức để tránh sự lỗi thời và thất bại. Sự linh hoạt sẽ có giá trị trong những
tình thế khi khách hàng có nhu cầu thay đổi chỉ trong một đêm, khi những đối thủ
cạnh tranh đến rồi đi, khi nhân viên và các kỹ năng của họ phải chuyển đổi do yêu
cầu từ dự án này sang dự án khác.
• Quản lý chất lượng: Cách mạng về chất lượng
diễn ra mạnh mẽ cả trong các doanh nghiệp lẫn khu
vực công trong những năm 1980 và 1990.
o Quản lý chất lượng toàn diện (Total quality
management – TQM) là một triết lý về quản lý
do nhu cầu và mong đợi của khách hàng định
hướng và tập trung vào việc cải tiến không
ngừng các quá trình làm việc.
o TQM được giới thiệu bởi một nhóm các chuyên
gia về chất lượng, trong đó W.Edwards Deming là một trong những đại diện
tiêu biểu.
o TQM trình bày sự đối lập với các thuyết gia quản trị trước đó, những người tin
rằng giảm chi phí là con đường duy nhất để đạt được năng suất tăng trưởng.
o Mục tiêu của TQM là tạo ra một tổ chức tận tâm với sự cải tiến liên tục.
Bài 2: Sự phát triển của các tư tưởng quản trị
28
TÓM LƯỢC CUỐI BÀI
Chúng ta đã nghiên cứu một số các trường phái quản trị khác nhau. Mỗi một trường phái quản trị
đều hướng tới việc giải quyết các vấn đề do thực tế quản trị đề ra. Các lý thuyết ra đời sau đều là
sự kế thừa, bổ sung và hoàn thiện những lý thuyết ra đời trước (Hình 2.5)
Hình 2.5. Sự kết hợp các lý thuyết quản trị
Nguồn: Quản trị học, Nguyễn Hải Sản, 1998
• Lý thuyết quản trị cổ điển tập trung sự chú ý vào năng suất và hiệu quả của tổ chức với sự
đóng góp quan trọng của Taylor với 14 nguyên tắc quản trị cơ bản. Henry Fayol thì đề cập
đến các chức năng quản trị và phương pháp áp dụng chúng. Weber thì đề cao các nguyên tắc,
chính sách và tính hợp lý của tổ chức nhờ đó có thể thiết lập một cơ cấ
u tổ chức hợp lý và
hiệu quả. Lý thuyết quản trị cổ điển tập trung vào nhà quản trị và các công việc của họ: lập kế
hoạch, tổ chức, lãnh đạo và kiểm tra.
• Trường phái quản trị hành vi ra đời là sự tiếp nối của trường phái quản trị cổ điển và đồng
thời đáp ứng yêu cầu của sự phát triển kinh tế. Tr
ường phái này chú trọng đến vấn đề con
người trong tổ chức trên phương diện tâm lý xã hội, đòi hỏi nhà quản trị phải có chính sách
đúng đắn trong vấn đề sử dụng con người.
• Kế tiếp và phát huy giá trị tinh hoa của lịch sử các học thuyết quản trị, các lý thuyết quản trị
hệ thống, quản trị theo tình huống lần lượt ra đời. Các lý thuyết quản trị hệ thống xem xét tổ
chức là một nhân tố trong xã hội và có mối quan hệ hữu cơ giữa các thành phần trong tổ
chức, cấp trên và cấp dưới. Do đó quản trị phải đẩy mạnh truyền thông có hiệu quả. Còn lý
thuyết quản trị tình huống đề cao tính hợp lý và linh hoạt trong việc vận dụng các lý thuyết
quản trị cổ điển.
• Ngày nay trong điều kiện môi trường thay đổi nhanh chóng, các nhà quản trị hiện đại cần
phải chú trọng đến các yếu tố này ví dụ như toàn cầu hóa, tính đa dạng của lực lượng lao
động, tính sáng tạo, các yêu cầu về quản lý chất lượng, vv
Bài 2: Sự phát triển của các tư tưởng quản trị
29
BÀI TẬP THỰC HÀNH
1. Hãy lựa chọn một tổ chức mà bạn quen thuộc nhất và xác định mức độ mà 14 nguyên tắc
quản trị của Fayol được áp dụng.
2. Tổ chức này phù hợp với quan điểm về tổ chức hành chính lý tưởng của Weber ở mức độ nào?
3. Nếu tổ chức này có một lịch sử phát triển tương đối lâu (từ 5 năm trở lên), hãy nghiên cứu
xem phương pháp quản trị nào được áp dụng.
4. Hãy xác định những vấn đề mà các nhà quản trị của tổ chức này cần chú trọng nhất trong quá
trình quản trị.
5. Những lời khuyên của bạn về phương pháp quản trị để giúp tổ chức này thích nghi được với
các xu hướng và các yếu tố của quản trị hiện đại.
Bài 2: Sự phát triển của các tư tưởng quản trị
30
CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Giải thích tại sao việc phân công lao động và cách mạng Công nghiệp lại quan trọng đối với
việc nghiên cứu quản trị.
2. Có những cách tiếp cận để nghiên cứu quản trị nào?
3. Hãy trình bày về mối liên hệ giữa cách tiếp cận quản trị mang tính khoa học và những thực tế
quản trị hiện nay.
4. Mô tả những đóng góp của Taylor với quản trị mang tính khoa học.
5. Giải thích những đóng góp của Frank và Lillian Gilberth với quản trị mang tính khoa học.
6. Mô tả các nguyên tắc quản trị của Fayol và so sánh với những nguyên tắc của Taylor.
7. Weber đã đóng góp những gì vào lý thuyết quản trị hành chính?
8. Hãy giải thích những đóng góp của phương pháp định lượng với quản trị theo phương pháp
khoa học.
9. Hay nêu một vài đóng góp của những người đầu tiên ủng hộ cách tiếp cận quản trị hành vi.
10. Mô tả nghiên cứu Hawthorne và những đóng góp của chúng với thực tiễn quản trị.
11. Toàn cầu hóa ảnh hưởng cách thức các nhà quản trị thực hiện công việc như thế nào?
12. Tính đa dạng của lực lượng lao động được đặc trưng bởi những yếu tố nào? Tính đa dạng của
lực lượng lao động có những gợi ý gì cho nhà quản trị?
13. Tại sao người quản lý nên quan tâm đến sáng tạo và linh hoạt?