Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

PHƯƠNG PHÁP LUẬN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC PHẦN 3 pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (282.71 KB, 10 trang )

Chương III
TIẾP CẬN VÀ SÁNG TẠO KHOA HỌC

I. PHƯƠNG PHÁP LUẬN VỚI TƯ CÁCH LÀ THẾ GIỚI KHÁCH
QUAN
Sự phát triển của khoa học hiện đại không những đem lại cho con người
những hiểu biết sâu sắc về thế giới, mà còn đem lại cho con người cả những hiểu
biết về phương pháp nhận thức thế giới, ngày nay cùng với bản thân khoa học
người ta chú ý tới phương pháp nhận thức khoa học.
Nghiên cứu khoa học là hoạt động tìm tòi khám phá bản chất và các quy
luật vận động của thế giới, quá trình này được tổ chức hết sức chặt chẽ, luôn
phải chọn lọc và sử dụng các phương pháp nghiên cứu. Phương pháp gắn liền
với hoạt động có ý thức của con người, là một trong những yếu tố quyết định sự
thành công của hoạt động nhận thức và cải tạo thế giới.
Phương pháp là phạm trù phức tạp, có phạm vi bao quát rộng, với nhiều
cấp độ và rất phong phú về nội dung và chủng loại. Phương pháp nghiên cứu
khoa học có ba đặc trưng quan trọng:
+ Một là: Phương pháp luôn gắn với những tư tưởng cơ bản, có tính
nguyên tắc, định hướng chỉ đạo hoạt động, đó chính là các quan điểm tiếp cận
đối tượng, là thế giới quan của nhà nghiên cứu.
+ Hai là: Phương pháp là một hệ thống các phương thức hoạt động, bao
gồm thủ pháp, các thao tác hoạt động có tính kỹ thuật. Đó là các phương pháp
cụ thể.
+ Ba là: Phương pháp là hệ thống các quy trình hoạt động, là trình tự các
bước đi, bao gồm logíc tiến trình và lôgíc nội dung của hoạt động. Phương pháp
có tính quy trình.
Như vậy, phương pháp nghiên cứu khoa học có liên quan tới ba vấn đề
quan trọng. Phương pháp luận, phương pháp cụ thể và lôgíc tiến hành các công
trình khoa học.
Trong nghiên cứu khoa học phương pháp và phương pháp luận là hai khái
niệm gần nhau nhưng không đồng nhất, Phương pháp luận là hệ thống các quan


điểm, nguyên tắc chỉ đạo chủ thể xác định con đường và phạm vi nghiên cứu.
Phương pháp là cách thức, thủ đoạn hoạt động cụ thể của chủ thể. Cái thứ nhất

45
thuần túy lý luận, cái thứ hai vừa lý luận vừa thực tiễn, cái thứ nhất chỉ đạo cái
thứ hai, cái thứ hai xuất phát từ cái thứ nhất trong sự thống nhất chung.
Các quan điểm phương pháp luận nghiên cứu khoa học có tính lý luận cho
nên thường mang màu sắc Tiết học, tuy nhiên nó kkhông đồng nhất với Triết
học. Phương pháp luận nghiên cứu khoa học là sự vận dụng các quan điểm Triết
học (như thế giới quan) để tiếp cận và nhận thức thế giới.
Các quan điểm phương pháp luận là một hệ thống, tồn tại với ba cấp độ:
+ Có những quan điểm chung nhất chỉ dẫn hoạt động nhận thức đối với tất
cả lĩnh vực khoa học, đó chính là các quan điểm duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử, nó là nền tảng của mọi tư tưởng học thuật. Quan điểm duy vật biện
chứng là cơ sở xuất phát cho các quan điểm Phương pháp luận chung và Phương
pháp luận chuyên ngành.
+ Có những quan điểm phương pháp luận chung áp dụng cho một nhóm
ngành hay một số lĩnh vực khoa học, thí dụ phương pháp luận nghiên cứu khoa
học xã hội, phương pháp luận nghiên cứu khoa học Tự nhiên hay Kỹ thuật…
+ Có những quan điểm riêng dùng cho bộ môn, một chuyên ngành cụ thể.
Thí dụ: Phương pháp luận nghiên cứu Toán học, phương pháp luận nghiên cứu
Kinh tế, phương pháp luận nghiên cứu Tâm lý học…
Sau đây chúng ta sẽ nghiên cứu các quan điểm phương pháp luận chung
nhất cho các lĩnh vực khoa học.
II. CÁC QUAN ĐIỂM PHƯƠNG PHÁP LUẬN CHUNG NHẤT
TRONG NGHIÊN CỨU KHOA HọC.
1- Phép biện chứng duy vật là cơ sở chung của mọi nhận thức khoa học.
Phép biện chứng duy vật là sự thống nhất hữu cơ giữa phép duy vật và
phép biện chứng trong nhìn nhận thế giới. Phép biện chứng duy vật là sự kết tinh
của các thành tựu khoa học và các tư tưởng Triết học nhân loại. Phép duy vật là

sự khẳng định vật chất là cái có trước quyết định ý thức, ý thức là sự phản ánh
hiện thực khách quan vào bộ não của con người. Phép biện chứng trình bày một
cách hệ thống tính biện chứng của thế giới bằng các phạm trù và những quy luật
chung của thế giới tự nhiên và rút ra những quan điểm, những quy tắc chỉ đạo
hoạt động của con người.
Phép biện chứng duy vật bao gồm hai nguyên lý, những cặp phạm trù và
những quy luật cơ bản, chúng vừa là cơ sở lý luận và là phương pháp nhận thức
thế giới.

46
+ Hai nguyên lý cơ bản của phép duy vật biện chứng là:
- Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của thế giới chỉ ra cho các nhà nghiên
cứu tính vô hạn của thế giới và tính hữu hạn của các sự kiện, hiện tượng cụ thể
và các mối quan hệ phức tạp của chúng. Nguyên lý này đòi hỏi sự quán triệt tính
hệ thống và toàn diện trong nghiên cứu các hiện tượng của thế giới.
- Nguyên lý về tính phát triển của thế giới chỉ ra rằng mọi sự vật, hiện
tượng đều vận động và biến đổi không ngừng và đều có xu hướng phát triển.
Nghiên cứu khoa học đòi hỏi phải xem xét các sự kiện trong trạng thái vận động
phát triển và biến đổi không ngừng của chúng.
+ Các cặp phạm trù nội dung và hình thức, cái chung và cái riêng, tất nhiên
và ngẫu nhiên, nguyên nhầ và kết quả…là cơ sở phương pháp luận cho việc
nghiên cứu tính toàn diện, chính xác, sâu sắc về các hiện tượng của thế giới.
+ Ba quy luật: đấu tranh và thống nhất giữa các mặt đối lập, quy luật
chuyển hóa từ những biến đổi về lượng thành những biến đổi về chất, quy luật
phủ định của phủ định chỉ đạo quá trình nghiên cứu theo quan điểm toàn diện,
phát triển của lsịch sử để tìm ra nguồn gốc, động lực, con đường và xu hướng
phát triển của thế giới.
Các nguyên lý, phạm trù, quy luật của phép biện chứng duy vật có ý nghĩa
phương pháp luận cực kỳ quan trọng, chúng cần được vận dụng vào cả trong
nhận thức khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và hoạt động thực tiễn. Các nhà

khoa học chỉ có đứng trên lập trường duy vật biện chứng để nghiên cứu thế giới
mới có thể đạt tới chân lý khách quan.
2 – Quan điểm hệ thống cấut trúc trong nghiên cứ khoa học.
Quan điểm hệ thống cấu trúc là một luận điểm quan trọng của phương pháp
luận nhận thức. Để hiểu rõ và vận dụng đúng đắn quan điểm này ta cần xem xét
các khái niệm sau đây:
+ Hệ thống là tập hợp các thành tố tạo thành một chỉnh thể trọn vẹn, ổn
định và vận động theo quy luật tổng hợp.
Một hệ thống bao giờ cũng có một cấu trúc gồm nhiều thành tố, mỗi thành
tó lại có những cấu trúc nhỏ hơn. Như vậy hệ thống nhỏ bao giờ cũng nằm trong
một hệ thống lớn đó chính là môi trường, giữa hệ thống và môi trường có mối
quan hệ tác động hai chiều.
Mỗi thành tố của hệ thống là một bộ phận có vị trí độc lập, có chứng năng
riêng và luận vận động theo quy luật của toàn hệ thống. Các thành tố của hệ

47
thống có quan hệ biện chứng với nhau bằng quan hệ vật chất và quan hệ chức
năng.
Như vậy thành tố là một bộ phận của một hệ thống, có tính xác định về
chất, có chứng năng riêng. Các thành tố có mối quan hệ, tác động qua lại với
nhau tạo thành một thể thống nhất. Tính chỉnh thể là tính chất cơ bản nhất của
hệ thống bởi vì mỗi thành tố chỉ tồn tại trong mối quan hệ với các thành tố khác
trong hệ thống chung.
Tính hệ thống là thuộc tính, quan trọng của thế giới và chính nó lại là một
trong số quan trọng để đánh giá trình độ phát triển của thế giới. Chính vì vậy,
nghiên cứu khoa học có nhiệm vụ quan trọng là phát hiện tính hệ thống của các
đối tượng.
Tính hệ thống có khía cạnh phương pháp luận và khía cạnh ứng dụng.
Nhận thức đầy đủ về chúng có ý nghía quan trọng đối với cả thực tiễn. Tính hệ
thống trước hết là công cụ phương pháp luận, bởi vì việc nghiên cứu đầy đủ các

thuộc tính và các quy luật có tính hệ thống là cơ sở để xã hội quy trình nhận thức
cho mọi đối tượng phức tạp. Tính hệ thống giá trịn thực tiễn vì nó đem lại giá
trịn thực sự, có thể vận dụng vào thực tiễn sản xuất, nghiên cứu khoa học, kỹ
thuật và quản lý xã hội.
Phương pháp hệ thống là con đường nghiên cứu các đối tượng phức tạp
trên cơ sở phân tích đối tượng thành các bộ phận để nghiên cứu một cách sâu
sắc, để tìm ra tính hệ thống, tính toàn diện của đối tượng. Phương pháp hệ thống
là công cụ phương pháp luận, nó giúp ta nghiên cứu các đối tượng phức tạp và
cho ta một sản phẩm khoa học có cấu trúc lôgíc chặt chẽ.
Quan điểm hệ thống cấu trúc là một luận điểm quan trọng của phương pháp
luận, nó yêu cầu phải xem xét các đối tượng một cách tonà diện nhiều mặt,
nhiều mối quan hệ, trong trạng thái vận động và phát triển, trong những điều
kiện hoàn cảnh cụ thể để tìm ra bản chất và các quy luật vận động của đối tượng.
Quan điểm này chỉ dẫn quá trình nghiên cứu các đối tượng phức tạp bằng
phương pháp hệ thống để tìm ra cấu trúc, phát hiện ra tính hệ thống theo quy
luật của cái toàn thể.
Bản chất của quan điểm hệ thống, cấu trúc có thể tập trung ở mấy điểm:
+ Nghiên cứu các đối tượng phức tạp phải xem hữu cơ của các thành tố
trong hệ thống để tìm ra quy luật phát triển nội tại của hệ thống.
+ Nghiên cứu đối tượng trong mối quan hệ với môi trường, thấy được mối
quan hệ chi pohois giữa đối tượng và môi trường, thấy được tính quy định của

48
môi trường và phát triển những điều kiện cần thiết cho sự phát triển thuận lợi
của đối tượng.
+ Kết quả nghiên cứu phải được trình bày rõ ràng khúc triết, tạo thành một
hệ thống chặt chẽ, có tính logíc cao.
Như vậy nghiên cứu khoa học theo quan điểm hệ thống – cấu trúc cho ta tri
thức đầy đủ toàn diện, khách quan về đối tượng, thấy được mối quan hệ của hệ
thống với các hiện tượng khác, từ đó mà thấy được cái triệt để, khách quan của

tri thức khoa học.
3- Quan điểm lịch sử lôgíc trong nghiên cứu khoa học
Quan điểm lịch sử lôgíc trong nghiên cứu khoa học là một luận điểm quan
trọng của phương pháp luận nghiên cứu khoa học.
Thực hiện quan điểm này một mặt cho phép ta nhìn thấy toàn bộ sự pott
của đối tượng nghiên cứu; sự xuất hiện quá trình diễn biến, phát triển và kết thúc
sự kiện. Giúp ta phát hiện các quy luật phát triển tất yếu của đối tượng, điềm mà
bất cứ hoạt động khoa học nào cũng hướng tới như một mục đích quan trọng
nhất.
Lịch sử là sự vận động có thực của các đối tượng trong thế giới khách
quan. Sự diễn biến lịch sử bao giờ cũng phức tạp, quanh co và đầy mâu thuẫn,
trong những điều kiện hoàn cảnh cụ thể nhất định. Lịch sử có những diễn biến
thành công và có cả những thất bại. Sự diễn biến lịch sử bao giờ cũng xuất phát
từ những nguyên nhân, từ nguyên nhân dẫn đến hệ quả. Điều kiện lịch sử thuận
lợi thúc đẩy nhanh quá trình phát triển của các sự kiện. Sự phát triển của lịch sử
là sự diễn biến khách quan.
Lôgíc là sự phản ánh quá trình phát triển của thực tiễn lịch sử vào ý thức
của con người. Lôgíc là cái tất yếu, là trật tự diễn biến, là con đường ngắn nhất
của sự phát triển lịch sử. Lôgíc là kết quả nhận thức của con người về sự diễn
biến có quy luật của đối tượng. Nghiên cứu khoa học về bản chất là những cố
gắng nhằm phát hiện ra cái lôgíc tất yếu ấy của hiện thực.
Quan điểm lịch sử - lôgic trong nghiên cứu khoa học yêu cầu phải nghiên
cứu đối tượng bằng phương pháp lịch sử. Phát hiện nguồn gốc nảy sinh, quá
trình diễn biến của đối tượng trong những thời gian. Phát hiện nguồn gốc nảy
sinh, quá trình diễn biến của đối tượng trong những thời gian, không gian với
những điều kiện hoàn cảnh cụ thể.

49
Lịch sử và lôgic tuy là hai phạm trù nhưng thống nhất với nhau. Ngiên cứu
khoa học đi từ cái lịch sử để phát hiện cái tất yếu của lịch sử, đó là cái lôgic

khách uqna của sự phát triển lịch sử đó.
Bảo đảm sự thống nhất giữa tính lịch sử và tính lôgic trong nghiên cứu
khoa học chính là tôn trọng lịch sử khách quan, là hiểu triệt để những điều kiện
có thật của mọi sự diễn biến của đối tượng nghiên cứu. Phải phát hiện ra các quy
luật phát triển chung của sự thật lịch sử. Điều đó nói lên ý nghĩa lý luận và ý
nghĩa thực tiễn của quan điểm lịch sử và lôgíc.
4 – Quan điểm thực tiễn trong nghiên cứu khoa học
Quan điểm thực tiễn là luận điểm quan trọng của phương pháp luận, nó yêu
cầu nghiên cứu khoa học phải bám sát sự phát triển của thực tế sinh động.
Thực tiễn là toàn bộ những hoạt động vật chất có tính chất lịch sử - xã hội
của con người làm biến đổi tự nhiên và xã hội. Diễn biến của hiện thực là diễn
biến khách quan, với những sự kiện đa dạng, phức tạp, phát triển nhiều khuynh
hướng, có những thực tiễn tiên tiến, có những thực tiễn yếu kém và có những
mâu thuẫn, những xu hướng chống đối nhau cần giải quyết, khắc phục.
Các sự kiện của thực tiễn là những gợi ý rất quan trọng cho những ý tưởng
của các đề tài khoa học. Nhu cầu giải quyết những mâu thuẫn của thực tiễn là
động lực thúc đẩy quá trình triển khai mọi hoạt động nghiên cứu khoa học.
Nghiên cứu khoa học thực chất là hướng vào khám phá các sự kiện, phát
hiện các quy luật phát triển của hiện thực. Những tri thức này có ý nghĩa to lớn
bởi vì nó hướng tới phục vụ trực tiếp cho cuộc sống của con người. Chính vì thế
mà mọi đề tài nghiên cứu khoa học phải có tính cấp thiết xuất phát từ thực tiễn
và phải có ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn.
Mục đích của nghiên cứu khoa học suy cho cùng về thực chất là tìm ra
phương pháp tốt nhất để cải tạo thực tiễn phục vụ cho cuộc sống của con người.
Nghiên cứu khoa học luôn bám sát thực tiễn, coi thực tiễn là tiêu chuẩn để đánh
giá các sản phẩm khoa học. Khoa học là chân lý chỉ khi nào nó phù hợp với thực
tiến và có giá trị cải tạo thực tiến. Như vậy, thực tiễn vừa là nguồn gốc, vừa là
động lực, vừa là mục tiêu, vừa là tiêu chuẩn để đánh giá sản phẩm nghiên cứu
khoa học.
Quan điểm thực tiễn trong nghiên cứu khoa học có ý nghĩa to lớn, quán

triệt quan điểm thực tiễn vừa có lợi cho khoa học, vừa có lợi cho thực tiễn. Công
cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đang đặt ra cho khoa học rất nhiều

50
vấn đề để nghiên cứu và ngược lại nghiên cứu khoa học phải nhằm vào giải
quyết những vấn đề của thực tiễn, phục vụ cho sự phát triển của nước ta.
III – CƠ CHẾ SÁNG TẠO KHOA HỌC (MECHANISM)
Nghiên cứu khoa học là hoạt động sáng tạo của các nhà khoa học, thường
bắt đầu từ việc xuất hiện những ý tưởng về chủ đề, tiếp đến là những diễn biến
đặc biệt trong tư duy và cuối cùng dẫn đến phát minh. Một vấn đề quan trọng
được đặt ra là cơ chế sáng tạo khoa học nảy sinh và phát triển như thế nào trong
hoạt động tư duy của các nhà khoa học?
Phân tích quá trình phát minh của các nhà khoa học có tên tuổi trong lịch
sử khoa học thế giới và tổng kết các quá trình nghiên cứu sáng tạo trong thực
tiễn hiện đại, ta thấy có ba loại cơ chế sáng tạo sau đây:
1 – Cơ chế trực giác (Intuition)
Trong nghiên cứu khoa học, với các nhà bác học tài năng nhiều khi có các
ý tưởng độc đáo xuất hiện hết sức đột ngột, bỏ qua tất cả các bước, các thao tác
tư duy theo lôgíc thông thường và ngay tức khắc họ nhìn thấy rõ mọi điều cần
thiết. Trong trường hợp này bản thân các nhà khoa học không giải thích được vì
sao và từ đâu nó tới. Họ chỉ biết rằng ở thời điểm ấy ý tưởng xuất hiện như một
“tia chớp” họ rơi vào thời điểm “bừng sáng” nhìn rõ chân lý. Việc “bất ngờ”
xuất hiện một ý tưởng khoa học, một cách giải quyết vấn đề, mà các nhà khoa
học phải vật lộn nhiều năm chưa ra, đó là cái nhảy vọt của tư duy được gọi là
trực giác (hay còn gại là trực cảm).
Trong lịch sử phát minh khoa học có rất nhiều trường hợp như thế. Nhờ
trực giác, con người khám phá nhiều điều kỳ diệu, với những phát minh vĩ đại.
Niutơn phát hiện ra Định luật vạn vật hấp dẫn nhờ quan sát hiện tượng quả táo
rơi. Acsimet ngay trong bồn tắm phát hiện ra quy tắc tính lực đẩy của nước đối
với một vận nhấn chìm trong đó. Gaoxơ nhà toán học nổi tiếng tự thuật: “Việc

giải một bài toán mà toi loay hoay vài năm không xong, bỗng cuối cùng nó đã
đến… nhưng không phải bằng sự cố gắng vất vả… cách giải quyết bất ngờ như
một tia chớp…” (xem: Khái lực về lịch sử và lý luận phát triển khoa học. NXB
Khoa học Xã hội. Hà Nội 1975 tr.128).
Giải thích và đánh giá hiện tượng trực giác này có nhiều cách khác nhau.
Những người theo chủ nghĩa duy tâm, tuyệt đối hóa trực giác, họ khoa họcẳng
định tất cả các phát minh khoa học đều nhờ trực giác. Họ cho rằng trực giác là gì
đó phi lý tính, ngoài lôgíc, đó là sự thành công của cảm hứng, một món quà của
“Thượng đế”.

51
Các nhà khoa học duy vật cho rằng “món quà” này chính là kết quả lao
động không mệt mỏi của bản thân con người, là bước nhảy vọt của tư duy, đã
giải phóng sự kìm hãm của phương pháp cũ, xuất hiện năng lực trí tuyệ đặc biệt
và dẫn đến phát minh. Trực giác là kết quả của sự dồn nén trí tuệ và kiến thức, là
sự “bùng nổ” dựa trên nhiều thao tác tư duy đã phát triển ở nhiều trình độ khác
nhau.
Trực giác là sản phẩm của tài năng, là kết quả của sự tích lũy kiến thức,
đồng thời là kết quả của sự say mê, sự kiên trì lao động sáng tạo. Không có một
phát minh nào lại ngẫu nhiên nằm ngoài tâm hoạt động kiên trì với một định
hướng khoa học nghiêm túc.
2 – Cơ chế Algôrit (Algorithm)
Trong quá trình nghiên cứu khoa học, đặc biệt là trong sáng tạo kỹ thuật, có
thể đạt tới kết quả, khi tư duy của các nhà nghiên cứu tuân thủ các bước đi với
một nguyên tắc, một trật tự tạo thành chuỗi thao tác lôgíc hợp lý. Bản ghi chính
xác trật tự các bước đi để giải bài toán sáng tạo như thế được gọi là một Algôrit
sáng tạo (hay còn gọi là thuật toán).
Theo quan điểm này thì các phát minh khoa học Tự nhiên và kỹ thuật về
thực chất là phát hiện ra các algôrit sáng tạo. Khi ý thức được một bản ghi chính
xác các bước đi lôgíc của một loại công việc, thì cũng có nghĩa là sẽ thực hiện

thành công loại công việc đó.
Tư tưởng cơ bản của algôrit sáng tạo là: các hệ kỹ thuật hình thành và phát
triển không phải ngẫu nhiên, mà theo những quy tắc nhất định, ta có thể nhận
thức được các quy tắc ấy và sử dụng chúng một cách có ý thức, sẽ tránh được
những phép thử - sai một cách vô ích.
Cơ sở để giải quyết một bài toán sáng tạo ly quy luật biện chứng về sự phát
triển của các hệ kỹ thuật. Bài toán sáng tạo được giải bằng cách phân tích một
khối lượng lớn, có khi hàng nghìn các thông tin (Patent) về một giải pháp.
Algôrit giải các bài toán sáng tạo với hệ thống các quy tắc (các thuật chuẩn)
là các cơ chế chủ yếu để hoàn thiện các hệ kỹ thuật. Điều quan trọng là khó
thông tin luôn được bổ sung và chỉnh lý thường xuyên.
Việc giải quyết các bài toán sáng tạo được tiến hành không thể bằng các
phép thử - sai mà phải được tiến hành có kế hoạch. Người ta áp dụng các thuật
toán với những biến đổi đặc biệt bằng các thủ thuật chuyên môn để phá vớ sức ì
tâm lý của lối tư duy truyền thống và tạo nên quá trình tưởng tượng mới có tính
sáng tạo.

52
Nắm vững các quy tắc phát triển của các hệ kỹ thuật cho phép ta không chỉ
giải thích được các bài toán có sẵn, mà còn dự đoán được các khoa họcả năng
xuất hiện các bài toán mới. Các dự đoán này chính xác hơn nhiều so với những
dự đoán nhờ các phương pháp chủ quan. Giải các bài toán sáng tạo gắn liền với
sự phát triển của các hệ kỹ thuật.
Như vậy, các alôrit sáng tạo được chuyển thành lý thuyết phát triển của các
hệ kỹ thuật. Algôrit các công nghệ sáng tạo, một công nghệ quan trọng nhất
trong các công nghệ hiện đại.
3 – Cơ chế Ơristie (Heuristies)
Thông thường nghiên cứu khoa học bắt đầu từ việc phát hiện đề tài. Đề tài
là một vấn đề khoa học được hình thành do phát hiện các mâu thuẫn, các mặt
thiếu sót của lý thuyết hay thực tiễn nào đó. Các mâu thuẫn này không thể giải

quyết được bằng những điều đã biết, đặt các nhà khoa học vào một tình huống
phải nghiên cứu tìm tòi.
Trên cơ sở phân tích nhiều hiện tượng, sự kiện tương tự với hiện tượng mới
phát hiệu, người ta tìm thấy những điều giống nhau và những khác nhau của
chúng. Bằng những tri thức và kinh nghiệm đã có, bằng phép tương tự
(Anology) và trí tưởng tượng mà phỏng đoán bản chất hiện tượng, sự kiện vừa
phát hiện, tức là hình thành một giả thuyết khoa học (Hypothesis)
Từ giả thuyết khoa học, như là một dự báo định hướng, giúp ta tìm cách
chứng minh để khẳng định chính điều phỏng đoán ban đầu ấy. Vậy là quá trình
nghiên cứu khoa học được thực hiện bằng con đường đề xuất và chứng minh
một giả thuyết khoa học về một sự kiện, hiện tượng mới. Con đường sáng tạo
như thế được gọi là sáng tạo theo cơ chế Ơristic.
Vấn đề trung tam của cơ chế sáng tạo Ơristic là đề xuất giả thuyết khoa
học. Giả thuyết khoa học là một giả định, một dự đoán hết sức độc đáo về bản
chất đối tượng nghiên cứu. Để đề xuất một giả thuyết, nhà khoa học phải có
chuyên môn vững chắc, phải có kinh nghiệm hoạt động sáng tạo phong phú và
đặc biệt và phải có năng lực dự đoán.
IV. KỸ NĂNG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Bất cứ hoạt động nào, chủ thể hoạt động cũng phải là người thạo việc,
nghiên cứu khoa học là lao động đặc biệt lại càng đòi hỏi sự thành thạo ở mức
độ cao hơn. Sự thành thạo trong nghiên cứu khoa học chính là sự nắm vững các
kỹ năng nghiên cứu.

53
Nghiên cứu khoa học ngoài việc đòi hỏi các nhà khoa học phải có một năng
lực đặc biệt, một uyên bác về kiến trúc, sắc sảo và nhậy cảm trong tư duy, còn
đòi hỏi các nhà phải có một quan điểm tiếp cận đối tượng, có một chiến lược nv
đúng đắn, nắm vững các quy trình lôgic khách quan và sự thành thạo trong sử
dụng các phương tiện kỹ thuật để thu thập, xử lý thông tin và các trình bày các
kết quả nghiên cứu, nghĩa là phải có kỹ năng nghiên cứu. Kỹ năng nghiên cứu

khoa học là khả năng thực hiện thành công các công trình khoa học trên cơ sở
nắm vững các quan điểm phương pháp luận, sử dụng thành thạo phương pháp
và kỹ thuật nghiên cứu.
Kỹ thuật nghiên cứu khoa học bao gồm một tổ chức các cách thức các con
đường nghiên cứu, với nhiều mức độ phức tạp, mà nhà khoa học phải thực hiện
thành thạo. Hệ thống kỹ năng này có thể phân thành ba nhóm sau đây:
Nhóm thứ nhất: Nhóm kỹ năng nắm vững lý luận khoa học và phương
pháp luận nghiên cứu. Ở nhóm này các kỹ năng các kỹ thuật nghiên cứu thể hiện
bắt đầu từ phát hiện đề tài, xây dựng chiến lược và chiến thuật nghiên cứu. Xác
định các cách tiếp cận đối tượng, các quan điểm giải quyết vấn đề, lập đề cương,
xây dựng giả thuyết, tìm lôgic mới, tạo hệ thống mới.
Nhóm thứ hai: Nhóm kỹ thuật sử dụng thành thạo các phương tiện nghiên
cứu cụ thể. Các nhà khoa học phải nắm vững các phương pháp nghiên cứu trong
phạm vi chuyển môn và biết sử dụng chúng một cách hợp lý vào đề tài của
mình. Phương pháp nghiên cứu khoa học là phạm trù phức tạp, nó gao gồm
nhiều thao tác, đơn giản nhất như tìm tư liệu, đến những phương pháp phức tạp
hơn là tác động vào đối tượng thực.
Nhóm thứ ba: Nhóm kỹ năng sử dụng kỹ thuật nghiên cứu, đó là việc các
nhà khoa học phải thành thạo trong việc sử dụng các phương tiện, công cụ kỹ
thuật để thu thập, xử lý và trình bày thông tin khoa học. Việc thu thập thông tin
có thể bằng kỹ thuật quan sát, điều tra, bằng sử dụng các thiết bị máy móc hay
tra cứu các tài liệu lưu trữ… Xử lý thông tin có thể bằng thống kê toán học, có
thể bằng máy vi tính… trình bày thông tin phải đảm bảo đúng các yêu cầu kỹ
thuật, các sơ đồ, biểu đồ chính xác… Nghĩa là trong nghiên cứu khoa học kỹ
thuật cũng cần phải thành thạo.
Tóm lại: kỹ năng nghiên cứu là một hệ thống phức tạp, nhiều thành phần.
Các kỹ năng là điều kiện thiết yếu để thực hiện thành công các công trình nghiên
cứu khoa học.

54

×