CHƯƠNG VI
LOGIC TIẾN TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Nghiên cứu khoa học là hoạt động được tổ chức đặc biệt, với một logic
gồm trình tự các bước đi nghiêm ngặt. Logic này được thể hiện ở hai mặt: Logic
tiến trình nghiên cứu và logic nội dung công trình. Logic nghiên cứu là một
thành phần quan trọng trong phạm trù phương pháp. Ta sẽ nghiên cứu làm rõ cả
hai mặt đó.
I.Logic tiến trình
Hiệu quả của nghiên cứu khoa học phụ thuộc rất nhiều ở phương diện tổ
chức hợp lý các bước đi của quá trình nghiên cứu, mà ta gọi là logic tiến trình.
Logic tiến hành một công trình khoa học được thực hiện bằng các bước sau
đây:
1. Giai đoạn chuẩn bị nghiên cứu
Giai đoạn chuẩn bị nghiên cứu một đề tài khoa học bao gồm công việc sau
đây:
+ Xác định đề tài là tìm vấn đề làm đối tượng để nghiên cứu. Vấn đề của
khoa học và thực tiễn là vô cùng phong phú, vì vậy, xác định cho mình một vấn
đề để nghiên cứu không phải là việc làm đơn giản. Xác định đề tài là một khâu
then chốt, bởi vì phát hiện được vấn đề để nghiên cứu nhiêu khi còn khó hơn
giải quyết một vấn đề đó.
Đề tài nghiên cứu phải có tính cấp thiết đối với thời điểm mà ta định tiến
hành nghiên cứu. Vấn đề đang là điểm nóng cần phải giải quyết và giải quyết
được nó sẽ đem lại những giá trị thiết thực cho lý luận và thực tiễn đóng góp cho
sự phát triền của khoa học và đời sống (trừ có những nghiên cứu khoa học mà
hàng vài chục năm sau mới được công nhận và được áp dụng).
Đề tài nghiên cứu của cá nhân, thí dụ như: luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ,
phải phù hợp với xu hướng, khả năng, kinh nghiệm của nghiên cứu sinh, phù
hợp với các điều kiện vật chất kĩ thuật và nguồn thông tin, tư liệu khoa học hiện
có trong và ngoài cơ quan nghiên cứu.
+ Xây dựng đề cương nghiên cứu. Một văn bản trình bày cấu trúc nội dung
của công trình khoa học tương lai, gồm các chi tiết cụ thể theo yêu cầu của bản
luận án khoa học tương lai và các chi tiết cụ thể theo yêu cầu của bản thân luận
82
án khoa học. Xây dựng đề cương nghiên cứu là một thao tác quan trọng phù hợp
với logic sáng tạo khoa học (ta sẽ nghiên cứu ở phần sau).
+ Xây dựng kế hoạch triển khai nghiên cứu. Kế hoạch nghiên cứu là văn
bản trình bày kế hoạch dự kiến triển khai đề tài về tất cả các phương diện như:
nội dung công việc, ấn định thời gian thực hiện công việc, sản phẩm phải có và
phân công trách nhiệm cho các thành viên, cộng tác viên.
Kế hoạch nghiên cứu đối với các đề tài cấp Bộ và cấp Nhà nước còn bao
gồm cả mục đích nghiên cứu, chỉ rõ cá nhân và cơ quan chủ trì, cơ quan phối
hợp, kế hoạch về bổ sung nhân lực, nguồn vật lực, tài lực, nguồn thông tin khoa
học và các yêu cầu về hợp tác, đào tạo và nghiên cứu trong và ngoài nước…
2. Giai đoạn triển khai nghiên cứu
Giai đoạn triển khai thực hiện công trình khoa học là giai đoạn nghiên cứu
chủ yếu bao gồm các bước sau đây:
+ Lập thư mục các tài liệu liên quan đến đề tài nghiên cứu. Để lập thư mục
được nhanh chóng, ta có thể tham khảo danh mục tài liệu tham khảo của các
công trình khoa học khác gần với đề tài nghiên cứu. Thư viện sẽ giúp ta tìm
được các tài liệu cần đọc.
+ Nghiên cứu đầy đủ các tài liệu, các công trình khoa học có liên quan trực
tiếp hay gián tiếp tới đề tài để làm tổng quan, hay còn được gọi là lịch sử nghiên
cứu của vấn đề. Tổng quan là tổng thuật những gì có liên quan tới vấn đề mà tác
giả nghiên cứu. Tổng quan cho bức tranh chung làm cơ sở cho việc phát hiện ra
những yếu điểm của các công trình nghiên cứu trước đó hay những kẽ hở của lý
luận hay thực tiễn mà đề tài sẽ tìm cách tiếp tục nghiên cứu phát triền.
+ Xây dựng cơ sở lý thuyết của vấn đề nghiên cứu là công việc phức tạp và
khó khăn nhất của bất kỳ công trình khoa học nào. Xây dựng cơ sở lý thuyết là
tìm ra chỗ dựa lý thuyết của đề tài. Để có cơ sở lý thuyết nhà khoa học phải
phân tích, hệ thống hóa, khái quát hóa tài liệu và bằng suy luận mà tạo ra lý luận
cho đề tài.
+ Phát hiện thực trạng phát triền của đối tượng bằng các phương pháp
nghiên cứu thực tiễn. Các tài liệu thu thập được từ các phương pháp quan sát,
điều tra, thí nghiệm, thực nghiệm qua xử lý bằng toán học thống kê cho ta những
tài liệu khách quan về đối tượng.
+ Các tài liệu lý thuyết và thực tế thu được từ các phương pháp khác nhau
giúp tác giả chứng minh cho giả thuyết khoa học đã đề xuất ban đầu.
83
+ Kiểm tra giả thuyết bằng việc lặp lại các thí nghiệm, thực nghiệm hay
dùng các phương pháp khác nhau với phương pháp đã sử dụng ban đầu. Các
phương pháp kiểm tra lẫn nhau ta khẳng định tính chân thực của các kết luận.
+ Tổ chức các hội thảo khoa học, sử dụng trí tuệ chuyên gia đóng góp ý
kiến về hướng đi, phương pháp nghiên cứu và đánh giá các sản phẩm nghiên
cứu. Ý kiến chuyên gia là cơ sở quan trọng để sửa chữa bổ sung và hoàn thiện
công trình.
+ Trong từng giai đoạn nghiên cứu tác giả phải công bố dần các kết quả,
bằng các báo cáo khoa học trình bày ở các cuộc hội thảo, viết các bài báo để
đăng trên các
+ Tạp chí khoa học chuyên nghành. Đây là các bước quan trọng để khẳng
định giá trị của công trình.
3- Giai đoạn viết công trình
Viết công trình là trình bày tất cả các kết quả nghiên cứu bằng một văn bản
hay luận án. Việc viết công trình phải tiến hành nhiều lần.
+ Viết nháp cho riêng mình, trên cơ sở tổng hợp các tài liệu thu nhập được.
+ Sửa chữa bản thảo theo đề cương chi tiết, trên cơ sở góp ý của các
chuyên gia và người hướng dẫn.
+ Viết sạch công trình đưa ra thảo luận ở Bộ môn.
+ Sửa chữa theo sự góp ý của Bộ môn.
+ Viết sạch để bảo vệ ở Hội đông bảo vệ cấp cơ sở.
+ Sửa chữa lần cuối sau khi tiếp thu ý kiến của Hội đồng bảo vệ cấp cơ sở.
Viết hoàn chỉnh văn bản báo cáo , luận án, luận văn đồng thời viết tóm tắt các
văn bản đó.
4- Giai đoạn nghiệm thu, bảo vệ công trình.
Giai đoạn nghiệm thu hay bảo vệ công trình là giai đoạn cuố cùng để xác
nhận các kết quả nghiên cứu. Giai đoạn này bao gồm các công việc sau đây:
+ Hoàn chỉnh toàn bộ công trình, thể hiện bằng văn bản đúng với các yêu
cầu về nội dung và hình thức trình bày luận án của Bộ Giáo dục và Đào tạo (
xem phần phụ lục).
+ Lấy nhận xét của các chuyên gia trong lĩnh vực chuyên ngành.
84
+ Đưa tới các phản biện đọc và cho nhận xét về kết qủa nghiên cứu, các
phương pháp nghiên cứu và hình thức trình bày luận văn.
+ Đưa ra bảo vệ trước Hội đồng nghiệm thu hay Hội đồng chấm luận án.
Bảo vệ luận án Tiến sĩ được thực hiện theo hai cấp: Cấp cơ sở và nhà nước.
II. Logic nội dung công trình khoa học.
Logíc nội dung công trình khoa học là trật tự các nhu cầu của nội dung bản
luận văn. Nội dung của công trình bao gồm các phần sau đây.
1. Những vấn đề chung.
Phần này trình bày như trong đề cương nghiên cứu, bao gồm:
+ Lý do chọn đề tài hay tính cấp thiết của đề tài.
+ Mục đích nghiên cứu.
+ Khách thể và đối tượng nghiên cứu.
+ Giải thuyết khoa học.
+ Các nhiệm vụ nghiên cứu.
+ Giới hạnd đề tài.
+ Những luận điểm bảo vệ.
+ Những đóng góp mới cũng như ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án.
+ Cơ sở phương pháp luanạ và các phương pháp nghiên cứu mà luận văn,
luận án sử dụng.
2- Các kết quả nghiên cứu.
Phần này trình bày toàn bộ các kết quả nghiên cứu lý thuyết và thực tiễn
của đề tài. Luận án Tiến sĩ khoa học được trình bày ít nhất gồm ba chương.
Thí dụ: Nội dung luận văn Tiến sĩ ít nhất là ba chương ngoài phần mở đầu,
kết luận.
Chương I. Cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu cần trình bày:
+ Lịch sử nghiên cứu những vấn đề có liên quan tới đề tìa (tổng quan)
+ Cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu.
Chương 2: Thực trạng của vấn đề nghiên cứu.
85
+ Trình bày cac bước tiến hành và kết quả quan sát, điều tra, thí nghiệm.
+ Những khái quát tài liệu thực tiễn đã sử lý bằng Toán học.
Chương 3: Trình bày quá trình thực nghiệm khẳng định giả thuyết khoa
học. Những bài học rút ra từ các kết quả nghiên cứu thực nghiệm.
3. Kết luận:
Phân kết luậnc của luận án trình bày:
+ Toàn bộ những tư tưởng quan trọng nhất mà luận án đã nghiên cứu, phát
hiện, bao gồm cả những vấn đề lý thuyết và thực tiễn.
+ Các đề xuất ứng dụng kết quả nghiên cứu của luận án.
+ Những kiến nghị cho việc nghiên cứu tiếp theo.
4- Phần phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo.
+ Cuối luận án trình bày phần phụ lục để làm rõ thêm các kết quả nghiên
cứu, mà trong phần chính luận án chưa trình bày.
+ Cuối cùng là danh mục các tài liệu tham khảo theo thứ tự ABC họ tên tác
giả, tiếp nối là tên tài liệu, nhà xuất bản, nới xuất bản, năm xuất bản và trong tài
liệu đã sử dụng trong luận án.
86
Chương VII
ĐỀ TÀI KHOA HỌC
I. Khái niệm về đề tài khoa học.
Đề tài khoa học ( Subject) là một vấn đề khoa học (Problem) có chứa một
nội dung thông tin chua biết, cần phải nghiên cứu làm sáng tỏ. Có thể nói đơn
giản đề tài khoa học là một câu hỏi, một vấn đề của khoa học cần phải giải đáp
và khi giải đáp được thì làm cho khoa học tiến thêm một bước.
Vấn đề khoa học về bản chất là một sự kiện, hiện tượng mới phát hiện mà
khoa học chưa biết, là một sự thiếu hụt của lý thuyết hay một mâu thuẫn của
thực tiễn đang cản trở bước tiến của con người, với kiến thức cũ, kinh nghiệm cũ
không giải thích được, đòi hỏi các nhà khoa học nghiên cứu làm sáng tỏ. Điều
dó có nghĩa là một vấn đề trở thành đề tài khoa học phải có các điều kiện sau:
- Một là, đó là sự kiện hay hiện tượng mới chưa từng ai biêt, một mâu
thuẫn hay vướng mắc cả trở bước tiến cũ khoa học hay thực tiễn.
- Hai là, bằng kiến thức cũ không thể giải quyết được, đòi hỏi các nhà khoa
học phải nghiên cứu giải quyết.
- Ba là, vấn đề nếu được giải quyết sẽ cho một thông tin mới có giá trị cho
khoa học hay làm khai thông các hoạt động của thực tiễn.
Ngược lại nếu một sự kiện, một mâu thuẫn của thực tế đã quen biết, bằng
kiến thức và kinh nghiệm cũ có thể giải quyết được thì vấn đề này không có giá
trị thông tin không thể lấy làm đề tài khoa học.
Sự xuất hiện của đề tài là do nhu cầu của thực tiễn cuộc sống hay nhu cầu
phát triển khoa học. Giải quyết những yêu cầu đó đòi hỏi phải huy động lực
lượng các nhà khoa học nghiên cứu.
Do vậy đề tài khoa học phải là vấn đề có tính cấp thiết đối với lý luận hay
đối với thực tiễn. Đề tài phải có tính mới mẻ, giải quyết được vấn đề sẽ làm cho
khoa học phát triển, sẽ bổ sung cho kho tàng tri thức nhân loại những thông tin
mới.
Đề tài khoa học được diễn đạt bằng tên đề tài. Tên đề tài là tên gọi của vấn
đề khoa học mà ta cần nghiên cứu. Tên gọi là cái vỏ bên ngoài còn vấn đề khoa
87
học là nội dung bên trong. Cái vỏ chứa nội dung, cái vở phải phù hợp với nội
dung. Đọc đề tài là ta nắm bắt được ngay nội dung vấn đề nghiên cứu của đề tài.
Đề tài cần diễn đạt bằng một câu ngữ pháp trọn vẹn, rõ ràng, một nghĩa,
chứa đựng vấn đề cần nghiên cứu. Tên đề tài có thể đặt thẳng vào đối tượng
nghiên cứu. Bắt đắc dĩ mới đặt tên có thêm ngoặc đơn để giải thích chủ đề.
Không đặt tên đề tài quá dài, thiếu xác định quá xa với nội dung, có thể
hiểu theo nhiều cách hoặc dùng mỹ từ bóng bẩy. Thí dụ.
- Một số vấn đề về…
- Thử tìm hiểu…
- Góp phần làm sáng tỏ.
II. Các loại đề tài
Đề tài khoa học rất đa dạng về chủng loại, phong phú về nội dung và nhiều
cấp quản lý. Người ta dựa vào các dấu hiện khác nhau để phân loại đề tài khoa
học.
1. Dựa theo trình độ đào tạo ta có.
+ Luận văn Cử nhân khoa học. Đó là một văn bản trình bày các kết quả tập
dượt nghiên cứu của sinh viên trong quá trình đào tạo ở trường đại học để trở
thành nhà khoa học. Kết quả đánh giá luận văn là cơ sở để nhà trường công nhận
tốt nghiệp. Tuy vậy, cũng có những sinh viên tài năng, luận văn của họ có giá trị
thực tiễn và khoa học cao, có thể lên thành luận văn Thạc sĩ hoặc luận án Tiến sĩ
khoa học.
+ Luận văn Thạc sĩ khoa học là một công trình nghiên cứu khoa học có giá
trị thực tiễn. Luận văn thường hướng vào việc tìm tòi các giải pháp cho một vấn
đề nào đó của thực tiễn chuyên nghành. Hoàn thành luận văn Thạc sĩ là bước
trưởng thành về mặt khoa học của nhà chuyên môn trẻ và là bước chuẩn bị để
tiếp tục học ở bậc nghiên cứu sinh.
+ Luận án Tiến sĩ khoa học là một công trình nghiên cứu khoa học của
nghiên cứu sinh. Đề tài luận án có tính cấp thiết, kết quả nghiên cứu có những
đóng góp mới, những phát hiện mới và kiến giải có giá trị trong lĩnh vực khoa
học và thực tiễn chuyên ngành.
88
2- Dựa theo quy trình tổ chức nghiên cứu khoa học tao có:
+ Đè tài khoa học do cấp trên giao: Loại đề tài này thường là đề tài cấp nhà
nước, cấp Bộ hay một phần của các loai đề tài đó có phạm vi rộng, nghiên cứu
các chiếm lược phát triển kinh tế và xã hội của quốc gia hay chiếm lược phát
triển của các nghành. Các cơ sở tiếp nhận một phần theo khẳ năng của chuyên
nghành mình để nghiên cứu.
+ Đề tài phát hiện từ cơ sở thực tiễn. Đây là loại đề tài có ý nghĩa thiết
thực đối với các hoạt động thực tiễn ở cơ sở. Đề tài này do các nhà khoa học
đăng ký với cấp trên cơ sở phát hiện được những vấn đề cụ thể trong phạm vi
hoạt động chuyên môn của mình. Loại đề tài này có ý nghĩa thực tiễn lớn và khả
năng ứng dụng rất cao.
3- Dựa theo cấp quản lý đề tài ta có:
+ Chương trình khoa học quốc gia nghiên cứu cac chiếm lược phát triển
kinh tế,văn hoa, khoa học công nghệ quốc gia. Chương trình này chia thành
nhiều nhánh với nhiều đề tài cấp nhà nước, giao cho cac cơ sở, các nhà khoa học
từng chuyên ngành thực hiện.
+ Đề tài cấp Bộ là đề tài nghiên cứu các vấn đề thuộc lĩnh vực chuyên
nghành nhằm thúc đẩy sự tiến bộ chuyên môn của các ngành phục vụ cho sự
tiến bộ chung.
+ Đề tài cấp cơ sở là đề tài do các cơ sở đăng ký và cấp trên phê duyệt. Đề
tài cấp cơ sở giải quyết những vấn đề trực tiếp trong chuyên môn của cơ sở hoặc
của ngành.
Ba loại đề tài này không chỉ khác nhau về cấp quản lý mà khác nhau về
phạm vị nghiên cứu và ứng dụng. Trong ba loại dó thì chương trình khoa học
với các đề tài cấp nhà nước có phạm vi ứng dụng. Trong ba loại đó thì chương
trình khoa học với các đề tài cấp nhà nước có phạm rộng bao hàm những vấn đề
quan trọng ở tầm cỡ chiếm lược quốc gia và chỉ dẫn các đề tài cấp dưới theo một
định hướng chung
4- Dựa theo các loại hình nghiên cứu khoa học ta có:
+ Đề tài nghiên cứu cơ bản là đề tài nghiên cứu có mục tiêu phát hiện ra
các sự kiện hiện tượng khoa học mới, tìm ra bản chất và các quy luật phát triển
của chúng hoặc tìm ra các phương pháp nhận thức mới.
89
+ Đề tài nghiên cứu ứng dụng là đề tài tìm ra giải pháp áp dụng các thành
tựu khoa học vào thực tế sản xuất hay quản lý xã hội nhằm tạo ra sản phẩm vật
chất hay tinh thần, cũng như nhằm cải tiến nội dung và phương pháp hoạt
động…
+ Đề tài nghiên cứu dự báo là loại đề tài hướng vào tìm tòi các xu hướng
phát triển của khoa học và thực tiễn trong tương lai.
Đề tài khoa học dù là ở dạng nào cũng xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn
mà mục đích thật sự của nó hoặc là phát hiện ra các tri thức mới, các quy luật
phát triển của thế giới hoặc là các phương pháp nhận thức và cải tạo hiện thực.
III. Phát triển vấn đề khoa học.
Đề tài khoa học thường bắt nguồn từ những ý tưởng khoa học độc đóa của
cá nhân và sau đó là sự đóng góp chung của tập thể. Đề tài được xây dựng trên
cơ sở:
+ Phát hiện ra một hiện tượng lạ chưa từng thấy và chưa có ai nghiên cứu,
chưa có tài liệu nào trình bày.
+ Phát hiện những sai sót, sự không hoàn thiện của lý thuyết hiện có.
+ Phát hiện mâu thuẫn của các trường phái lý thuyết. Từ các mâu thuẫn này
có thể tìm thấy một hướng nghiên cứu mới tốt hơn.
+ Phát hiện mâu thuẫn giữa lý thuyết với thực tế. Sự khác biệt giữa lý
thuyết và thực tiễn tạo ra khoảng cách không thể chấp nhận được.
+ Phát hiện sự bế tắc của các phương pháp phát hiện có, bằng cách làm cũ
không tạo được hiệu quả công việc, cần phải có các phương pháp hành động
mới.
+ Phát hiện sự phát triển chậm chạp của thực tế. Tức là cuộc sống đang
dậm chân tại chỗ do nhiều nguyên nhân, cầm tìm tòi các nguyên nhân đó để đề
xuất các giải pháp hành động thích hợp.
Các ý tưởng về đề tài của cá nhân thường xuất hiện trong quá trình giải
quyết các công việc thực tế, trong khi nghiên cứu tài liệu lý thuyết hay thực tiễn,
trong trao đổi, tranh luận, hội thảo và cũng có khi xuất hiện bất ngờ theo cơ chế
trực giác.
90
Tổ chức nghiên cứu là huy động nhân lực, vật lựuc thực thi kế hoạch, tạo ra
sản phẩm khoa học. Nghiên cứu không còn là hoạt động của một cá nhân mà là
một sự phối hợp của nhiều nhà khoa học, nhiều ngành khoa học. Nghiên cứu
khoa học trở thành hoạt động của xã hội. Tuy nhiên hoạt động nghiên cứu dù là
của tập thể vẫn phải là thực hiện trên cơ sở ý tưởng của một cá nhân và chiếm
lược tìm tòi của ý tưởng đó.
Thực hiện đề tài được giao từ các cấp bộ và chương trình khoa học nhà
nước một dạng phân tầng nghiên cứu theo chiếm lược chung, mà sự phát hiện ra
vấn đề nghiên cứu thuộc về cấp chỉ huy chiếm lược bên trên.
91
Chương VIII
ĐỀ CƯƠNG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khi bắt tay vào nghiên cứu một đề tài khoa học thì một thao tác rất quan
trọng là phải xây dựng một đề cương nghiên cứu. Đề cương nghiên cứu là văn
bản dự kiến các bước đi và nội dung của công trình.
Đối với một luận văn Thạc sĩ hay luận án Tiến sĩ thì đề cương nghiên cứu
bao gồm các mục sau đây.
Tên đề tài…. (Được diễn đạt bằng một câu ngữ pháp bao quát được đối
tượng và hàm chứa nội dung và phạm vi nghiên cứu).
I. Lý do chọn đề tài (Hay còn gọ là tính cấp thiết của đề tài). Phần này
yêu cầu người nghiên cứu phải trình bày rõ ràng, tường minh những lý do nào
khiến tác giả chọn đề tài để nghiên cứu. Phải làm rõ những lý do này là cấp thiết
đối với lý luận, là một đòi hỏi của thực tiễn cuộc sống.
Nói chung, lý do chọn đề tài các luận văn, luận án thường xuất phát từ
những yêu cầu của thực tế công tác mà người nghiên cứu đảm nhiệm hay từ việc
phát hiện các thiếu sót trong nghiên cứu lý thuyết chuyên ngành cần phải bổ
sung. Việc nghiên cứu này sẽ đem lại ích lợi cho hiện tại và tương lai của khoa
học và thực tiễn.
II. Mục đích nghiên cứu.
Mỗi đề tài tùy theo phạm vi nghiên cứu của mình phải xác định rõ mục
đích nghiên cứu. Mục đích sẽ hướng dẫn các bước đi chiếm lược của công trình
để đạt tới đích cuối cùng.
Mục đích của một luận án khoa học thường là tìm tòi làm rõ bản chất của
một sự kiện mới hay tìm một giải pháp nâng cao chất lượng một hoạt động thực
tế nào đó.
III. Khách thể và đối tượng nghiên cứu.
Thế giới khách quan là đối tượng duy nhất của nghiên cứu khoa học. Tuy
nhiên thế giới vô cùng rộng lớn, mỗi lĩnh vực khoa học phải chọn cho mình một
bộ phận, một phần nào đó để tập trung khám phá tìm tòi, đó chính là thao tác
xác định khách thể nghiên cứu.
92
Trong cá Khách thể rộng lớn đó, mỗi đề tài cụ thể lại phải chọn cho mình
một mặt, một thuộc tính, một mối quan hệ của Khách thể để nghiên cứu. Bộ
phận đó chính là đối tượng nghiên cứu của đề tài.
Mỗi đề tài nghiên cứu một vấn đề, cũng có nghĩa là mỗi đề tài có một đối
tượng nghiên cứu. Như vậy, xác định đối tượng nghiên cứu là xác định cái trung
tâm cần khám phá của đề tài khoa học.
Khách thể và đối tượng nghiên cứu là hai khái niệm có mối quan hệ như
loài và giống, chúng có thể chuyển hóa cho nhau. Khách thể của đề tài nhỏ có
thể là đối tượng của đề tài hơn và ngược lại đối tượng của đề tài lớn có thể là
khách thể của đề tài nhỏ hơn.
Khách thể đồng nghĩa với môi trường của đối tượng mà ta đang xem xét.
Xác định đối tượng là xác định cái trung tâm còn xác định khách thể nghĩa là
xác định cái giới hạn chứa đựng cái trung tâm, cái vòng mà đề tài không được
phép vượt qua. Do đó xác định khách thể và đối tượng nghiên cứu là thao tác
bản chất của quá trình nghiên cứu khoa học
IV. Giả thuyết khoa học.
Giả thuyết khoa học (Hypothesis) là mô hình giả định, một dự đoán về bản
chất của đối tượng nghiên cứu. Một công trình khoa học về thực chất là chứng
minh một giả thuyết khoa học. Do đó xây dựng giả thuyết là thao tác quan trọng
của mỗi công trình khoa học. Giả thuyết có chức năng tiên đoán bản chất sự
kiện, đồng thời là chức năng chỉ đường để khám phá đối tượng.
Giả thuyết được xây dựng phải tuân thủ các yêu cầu sau đây:
1- Giả thuyết phải có tính thông tin về sự kiện, nghĩa là có khả năng giải
thích được sự kiện cần nghiên cứu.
2- Giả thuyết có thể kiểm chứng được bằng thực nghiệm.
V.Nhiệm vụ nghiên cứu
Xuất phát từ mục đích và giả thuyết khoa học, mỗi đề tài phải xác định
các nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể. Nhiệm vụ nghiên cứu là mục tiêu cụ thể mà đề
tài phải thực hiện. Một luận văn Thạc sĩ hay luận án Tiến sĩ khoa học thường có
ba nhiệm vụ;
+ Nhiệm vụ xây dựng cơ sở lý thuyết.
93
+ Nhiệm vụ phân tích làm rõ bản chất và quy luật của đối tượng nghiên
cứu.
+ Nhiệm vụ đề xuất những giải pháp ứng dụng cải tạo hiện thực.
VI. Giới hạn đề tài.
Giới hạn đề tài là thao tác logíc xác định phạm vi về thời gian, không gian
những mặt, những chỉ số cần điều tra, quan sát, nghiên cứu phát hiện … Hay nói
cách khác giới hạn của đề tài là phạm vi mà đề tài phải thực hiện.
Giới hạn đề tài là thao tác quan trọng giúp cho việc nghiên cứu đi đúng
trọng tâm, không lệch hướng.
VII. Những luận điểm bảo vệ.
Luận điểm bảo vệ là những luận điểm quan trọng, những tư tưởng cốt lõi
của đề tại, nhờ có nó mà công trình khoa học có thể đứng vững và bảo vệ được.
Luận điểm bảo vệ được trình bày khái quát, chứa đựng thông tin quan
trọng và cô đọng nhất của luận án.VIII. Cái mới của luận án
Cái mới của công trình khoa học là những thông tin khoa học mà tác giả
của công trình là người đầu tiên tìm ra, chúng có giá trị đối với lý luận và thực
tiễn.
Cái mới của luận án Tiến sĩ có thể là phát hiện mới, góp phần bổ sung ,
phát triển lý thuyết hiện có hoặc có thể là những giải pháp lý thuyết vào thực
tiễn.
Mỗi luận án phải có cái mới, đó chính là giá trị thật sự của công trình khoa
học, là tiêu chuẩn để luận án được bảo vệ thành công.
VIII. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
+ Luận án được tiến hành nghiên cứu phải dựa vào những quan điểm tư
tưởng nhất định, nhờ có quan điểm nhất quán mà công trình đi tới chân lý khách
quan. Do đó luận án khoa học phải trình bày đầy đủ và rõ ràng phương pháp tiếp
cận đối tượng hay cơ sở phương pháp luận mà mình dựa vào để nghiên cứu.
+ Để tiến hành nghiên cứu một công trình khoa học , tác giả phải sử dụng
phối hợp các phương pháp nghiên cứu cụ thể. Các phương pháp được sử dụng
hợp lý, phù hợp với đề tài sẽ đảm bảo cho công trình đạt tới kết quả. Cho nên
trong đề cương nghiên cứu, tác giả phải trình bày các phương pháp dự kiến sử
dụng, ý đồ và kỹ thuật sử dụng chúng.
94
Đọc cơ sở phương pháp và các phương pháp nghiên cứu dự kiến sử dụng
trong đề tài. Người ta có thể đánh giá năng lực của tác giả và khả năng thành
công của công trình. Lựa chọn các phương pháp và chiến thuật nghiên cứu.
IX. Dàn ý nội dung công trình
Đề cương nghiên cứu khoa học yêu cầu phải trình bày một dàn ý nội dung
dự kiến của luận án. Để làm việc này tác giả phải nghiên cứu công phu nhiều tài
liệu tham khảo và đồng thời phải có khả năng tưởng tượng sáng tạo, thiết kế một
mô hình cho luận án tương lai.
Một luận án Tiến sĩ khoa học phải có ít nhất 3 chương và dàn ý cần được
trình bày cụ thể tới từng tiểu mục.
X. Tài liệu tham khảo
Tác giả phải trình bày rõ các tài liệu tham khảo đã đọc để xây dựng đề
cương. Các tài liệu được liệt kê có chọn lọc phù hợp với phạm vi của đề tài
nghiên cứu.
95