Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Vai trò của văn học dân gian đối với sự phát triển của văn hóa dân tộc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (104.15 KB, 15 trang )

Đề tài:
Vai trò của văn học dân gian đối với sự phát triển của
văn hóa dân tộc

I/ Khái niệm về văn hóa dân gian
Văn học là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người
tích lũy và sáng tạo , tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn trong quá trình
tương tác giữ con người với môi trường tự nhiên và xã hội. Chính vì vậy:
- Văn hóa có tính hệ thống, nó giúp phát hiện và liên kết các sự kiện, hiện tượng,
sự kiện thuộc nền văn hóa và thực hiện chức năng xã hội cung cấp ( cung cấp cho
xã hội mội phương tiện cần thiết để ứng phó với Môi trường thiên nhiên và xã hội
của mình).
Văn hóa có tính giá trị: Nghĩa là trở thành đẹp, trở thành có giá trị để thực hiện
chức năng điều chỉnh xã hội.
- Văn hóa có tính nhân sinh: Vì văn hóa như một hiện tượng xã hội do con người
sáng tạo ra và các giá trị tự nhiên. Văn hóa là cái tự nhiên được biến đổi bởi con
người, thực hiện chức năng giao tiếp, liên kết lại với nhau.
Văn hóa có tính lịch sử: Văn hóa như sản phẩm của một quá trình và được tích lũy
qua nhiều thế hệ với văn minh là sản phẩm cuối cùng.

Văn vật Văn hiến Văn hóa Văn minh
Giá trị vật chất Giá trị tinh thần Vật chất và tinh thần Vật chất và kĩ thuật
Có bề dày lịch sử Chỉ trình độ phát triển
Tính dân tộc Tính quốc tế
Gắn với phương Đông là nông nghiệp Phương Tây đô thị
* Văn hóa Việt nam là loại hình văn hóa gốc nông nghiệp.
Như chúng ta đã biết, phương Đông và phương Tây với hai môi trường sống
khác nhau. Cư dân phương Đông (phía đông nam) là xứ nóng mư nhiều độ ẩm cao,
tạo nên các con sông lớn với những vùng đồng bằng trù phú. Còn phương
Tây( phía tây bắc) là xứ lạnh với khí hậu khô không thích hợp cho thực vật sinh
trưởng, có chăng chỉ là những vùng đồng cỏ mênh mông. Hai loại địa hình vùng


này khiến cho cư dân hai khu vực phải sinh sống bằng hai nghề khác nhau là trồng
trọt và chăn nuôi, hay nói cách khác hơn, nó hình thành nên hai nền văn hóa khác
nhau. Đó là: Văn hóa gốc nông nghiệp phương tây và văn hóa gốc du mục phương
|Tây.
Việt Nam chúng ta nằm ở góc tận cùng phía đông nam nên loại hình gốc nông
nghiệp rất phát triển . Và nó có những đặc trưng chủ yếu như sau:
* Trong cách ứng xử với môi trường tự nhiên:
- Nghề nông nghiệp lúa nước buộc người dân phải sống định cư chờ cây cối lớn
lên, đơm hoa kết trái. Qua đó thể hiện ước vọng sống hòa hợp với thiên nhiên,ý
thức tôn trọng thiên nhiên.
Ví dụ: '' Lạy trời'', ''nhờ trời''
- Nghề nông nghiệp lúa nước phụ thuộc vào thiên nhiên nên: '' trông trời trông đất
trông mây, trông mưa trông nắng trông ngày trông đêm '' ==> hiện tượng thể
hiện lối tư duy tổng hợp, mối quan hệ qua lại giữa các sự vật hiện tượng. Từ đó
tích lũy được một kho tàng kinh nghiệm thông qua các câu ca dao, tục ngữ : '' quạ
tắm thì ráo, sáo tắm thì mưa '', '' ráng mỡ gà ai có nhà thì giữ ''…
* Về tổ chức cộng đồng.
Con người nông nghiệp ưa sống theo nguyên tắc trọng tình. Hàng xóm láng
giềng với nhau phải tạo ra một cuộc sống hòa thuận trên cơ sở lấy tình nghĩa làm
đầu: ''Một bồ cái lý không bằng một tý cái tình '' .
- Lối sống trọng tình cảm tất yếu dẫn đến thái độ trọng đức, trọn văn, trọng phụ
nữ. Phụ nữ có vai trò quyết định trong giáo dục con cái: ''phúc đức tại mẫu '', ''con
dại cái mang ''. Vì tầm quan trọng của người mẹ cho nên trong tiếng việt chữ cái
thường được gắn với cái quan trọng, cái chính. Ví dụ: sông cái, đường cái, cái nồi,
cái xe
- Lối sông của người làm nông nghiệp là lối sống linh hoạt: ''Ở bầu thì tròn ở ống
thì dài ''; '' đi với bụt mặc áo cà sa đi với ma mặc áo giấy ''.
Người làm nông nghiệp sống theo lối tình cảm, dân chủ với nhau. Thể hiện tinh
thần coi trọng tập thể.
Tuy nhiên mặt trái của tính linh hoạt là thói không tôn trọng pháp luật, thời gian,

thiếu tổ chức
Trong ứng xử với môi trường xã hội: Đó là thái độ dung hợp trong giao tiếp với
con người, mềm dẻo hiếu hòa trong đối phó.
II/ Khái niệm về văn học dân gian
1.Về thuật ngữ (Tên gọi) Văn học dân gian:
Văn học dân gian xuất hiện ngay từ khi chưa có văn học viết. Nó chính là toàn bộ
nền văn học sơ khai của mỗi dân tộc.
- Văn học văn chương truyền miệng: Được sáng tác và lưu truyền bằng miệng.
- Văn học văn chương bình dân: Do tập thể người lao động sáng tác và gắn
liền với đời sống cùng mọi nhu cầu cuả xã hội của họ.
* Văn học dân gian là gì?
- Những sáng tác có nội dung là toàn bộ tri thức, hiểu biết, kinh nghiệm, trí tuệ của
nhân dân và được biểu hiện bằng những hình thức nghệ thuật được các nhà nghiên
cứu quốc tế gọi là Folklore với hàm nghĩa là văn hoá dân gian.
- Văn học dân gian là nền văn học đầu tiên xuất hiện trong lịch sử văn hoá tinh
thần của loài người. Nó đồng hành với cuộc sống con người ngay từ buổi sơ khai.
Khi con người bắt đầu có ý thức, biết cảm nhận cái đẹp là lúc vă học dân gian ra
đời- một nền văn học chỉ lưu truyền trong trí nhớ. Văn học dân gian đặc biệt là
truyện cổ tích và ca dao sống với thời gian bằng sự hấp dẫn mọi thời đại của nó.
Vẻ đẹp đó muôn đời vẫn được khám phá, kiếm tiềm.
III/ Vai trò của văn học dân gian đối với sự phát triển của văn hóa dân tộc
- Văn học dân gian là bộ bách khoa vĩ đại, là nơi kết tinh rực rỡ những tri thức, tài
năng nghệ thuật, tư tưởng tình cảm của nhân dân.
- Văn học là cội nguồn của văn học dân tộc.
- Văn học dân gian là bầu sữa mẹ, nuôi dưỡng nền văn học dân tộc.
Điều này thể hiện ở các giá trị sau:
* Giá trị thẩm mỹ.
Văn học dân gian có giá trị to lớn trong việc bồi dưỡng, phát triển nhận thức của
con người về cái đẹp. Cái đẹp ấy biểu hiện trên nhiều phương diện:
- Đó là cái đẹp tỏa ra từ cuộc sống bình dị của con người. Ví dụ: '' tốt gỗ hơn tốt

nước sơn'' , '' cái nết đánh chết cái đẹp''.
Rau muống, con thuyền, cũng là những hình ảnh bình dị, quen thuộc không thể
thiếu trong thơ Nguyễn Trãi:
“ Ao cạn vớt bèo cấy muống,
Đìa thanh phát cỏ ương sen
Kho thu phong nguyệt đầy qua nóc,
Thuyền chở yên hà nặng vạy then ”
(Thuật hứng 24 – Nguyễn Trãi )
- Từ cảnh sắc thiên nhiên hùng vĩ và tơ mộng: ''Đường vô xứ Huế quanh quanh
non xanh nước bíêc như tranh họa đồ''
- Từ nghệ thuật sử dụng ngôn từ, âm hưởng, nhịp điệu, từ ngữ, các biện pháp tu từ
như: so sánh, ẩn dụ, nhân hoá, các kiểu phô diễn và cách thức thể hiện để giúp
hình dung một cách cụ thể thông qua những hình ảnh quen thuộc như : hạt mưa,
tấm lụa đào, cái giếng, cây đa, bến nước, con thuyền, con đò, Trong ca dao :
“Thuyền về có nhớ bến chăng ?
Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền”.
“Trúc dặn dò mai, bến dặn dò thuyền
Nghe ai quyến rũ bỏ lời nguyền của anh
Bến dặn dò thuyền, trúc dặn dò mai
Nghe ai quyến rũ, không vãng lai chốn này”.
“Lênh đênh một chiếc thuyền tình
Mười hai bến nước biết gửi mình vào đâu”.
Các hình thức lặp lại là đặc trưng nghệ thuật tiêu biểu trong ca dao: lặp lại kết cấu,
hình ảnh, lặp lại dòng thơ mở đầu hoặc một từ, một cụm từ,
Ví dụ : Vì thuyền, vì bến, vì song
Vì hoa nên bận cánh ong đi về.
+ Còn non còn nước còn trời
Còn cô bán rượu còn người say sưa.
+ Yêu nhau mấy núi cũng trèo
Mấy sông cũng lội, mấy đèo cũng qua.(Ca dao)

Trong “Truyện Kiều” (Nguyễn Du) cũng có những câu thơ có kiểu dùng từ tương
ứng:
+ Vì hoa nên phải đánh đường tìm hoa
+ Còn non, còn nước, còn dài
Còn về còn nhớ đến người hôm nay.

4. Giá trị tạo nền cho nền văn hóa dân tộc.
Khi chưa có chữ viết, văn học dân gian có vai trò quan trọng trở thành bộ phận
chủ đạo và duy nhất của văn học dân tộc. Khi văn học viết xuất hiện thì văn học
dân gian vẫn không mất đi vì từ lúc chưa có chữ viết và ả khi đã có chữ viết, người
dân ít có điều kiện tiếp xúc với những thành tựu của văn học viết, họ vẫn có nhu
cầu sáng tác và thưởng thức bằng truyền miệng. Vì vậy bộ phận văn học dân gian
ra đời sớm hơn so với văn học viết nhưng vẫn tồn tại và phát triển đến ngày nay.
Văn học dân gian có tác động mạnh mẽ đến văn học viết. Đặc biệt là với tác phẩm
văn học chữ Nôm, các nhà văn học được nhiều từ cổ tích, các nhà thơ học được
nhiều ở ca dao Văn học dân gian góp phần quyết định trong việc xây dựng ngôn
ngữ văn học viết, sáng tạo nên những thể thơ dân tộc như lục bát, song thất lục bát,
hát nói Đề tài, cốt truyện của văn học dân gian đã trở thành chất liệu để các tác
giả văn học viết sáng tạo (chẳng hạn Thánh Tông di cảo, Truyền kì mạn lục ). Văn
học viết khai thác giá trị nôi dung và phương diện nghệ thuật của văn học dân gian.
Các nhà thơ học được ở ca dao cách thể hiện tình cảm, các nhà văn học ở truyện cổ
tích cách xây dựng cốt truyện.
Nhận xét về ảnh hưởng to lớn của văn học dân gian đối với văn học thành văn
Việt Nam, giáo trình Văn học dân gian nhận định: “Văn học dân gian là cội nguồn,
là bầu sữa mẹ nuôi dưỡng nền văn học dân tộc Việt Nam. Nhiều thể loại văn học
viết được xây dựng và phát triển dựa trên sự kế thừa các thể loại văn học dân gian.
Nhiều tác phẩm , nhiều hình tượng do văn học dân gian tạo nên là nguồn cảm
hứng, là thi liệu, văn liệu của văn học viết. Nhiều nhà thơ , nhà văn lớn của dân tộc
(Nguyễn Trãi , Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du , Hồ Xuân Hương , Phan Bội
Châu , Nguyễn Bính, Hồ Chí Minh, Nguyễn Duy….) đã tiếp thu có kết quả văn

học dân gian để sáng tạo nên những tác phẩm văn chương ưu tú”.
Đó là một nhận định xác đáng thể hiện rõ mối quan hệ máu thịt gắn bó giữa
văn học dân gian và văn học thành văn trong suốt tiến trình phát triển của văn học
dân tộc. VHDG chính là nền tảng của VHV và có tác động lớn đến sự hình thành
và phát triển của VHV, là nguồn cảm hứng dồi dào, tiếp thêm chất liệu và cảm
hứng sáng tạo cho văn học viết.
- Về phương diện nội dung: VHDG cung cấp cho các nhà văn của mọi thời đại
những quan niệm xã hội, đạo đức của nhân dân lao động, của các dân tộc. Ngoài
ra, nó còn cung cấp những tri thức hữu ích về tự nhiên xã hội, góp phần quan trọng
về sự hình thành nhân cách con người. Nó bảo tồn, phát huy những truyền thồng
tốt đẹp của dân tộc như: truyền thống yêu nước, tinh thần hướng thiện, trọng nhân
nghĩa, giàu tình thương, Biểu hiện rõ nhất là ở đề tài, nguồn cảm hứng, tư tưởng
nhân ái, tình cảm lạc quan, yêu đời, tình yêu thiên nhiên, đất nước, tình yêu con
người,
- Đề tài tiêu biểu trong văn học dân gian: Số phận người phụ nữ, thân phận người
lao động nói chung, tình yêu đôi lứa, những kinh nghiệm sống quý báu, đặc biệt
ngợi ca tình cảm gắn bó với quê hương, đất nước,
- Nguồn cảm hứng : Văn học dân gian thường lấy nguồn cảm hứng từ thiên nhiên,
cuộc sống xã hội, lao động sản xuất, .Đặc biệt, ca dao Việt Nam đã đưa ra những
tiêu chí về vẻ đẹp người con gái truyền thống.
- Tư tưởng nhân ái : Văn học dân gian đề cao tình cảm yêu thương con người nhất
là thân phận người phụ nữ, người lao động cùng khổ,
ẢNH HƯỞNG CỦA VĂN HỌC DÂN GIAN ĐỐI VỚI VĂN HỌC VIẾT
Phương
diện
nội dung
Văn học dân gian Văn học viết




Đề tài
“Tay làm hàm nhai, tay quai
miệng trễ”,
“Miệng ăn núi lở”
(Tục ngữ)
“Anh em như thể tay chân
Rách lành đùm bọc, dở hay đỡ
đần”
(Ca dao)
“Tay ai thì lại làm nuôi miệng
Làm biếng ngồi ăn lở núi non.”
(Bảo kính cảnh giới số 22”
- Nguyễn Trãi)
“Chân tay gẫm lại ai hơn nữa
Tranh cạnh làm chi, lỗi phép nhà”
(Nguyễn Bỉnh Khiêm)


Mười Thương
Một thương tóc bỏ đuôi gà
Chân quê
Hôm qua em đi tỉnh về ?



Nguồn
cảm
hứng
Hai thương ăn nói mặn mà có
duyên

Ba thương má lúm đồng tiền
Bốn thương răng lánh hạt huyền
kém thua
Năm thương cổ yếm đeo bùa
Sáu thương nón thượng quai tua
dịu dàng
Bảy thương nết ở khôn ngoan
Tám thương ăn nói lại càng thêm
xinh
Chín thương cô ở một mình
Mười thương con mắt hữu tình
với ai
Đợi em ở mãi con đê đầu làng
Khăn nhung quần lĩnh rộn ràng
Áo cài khuy bấm, em làm khổ tôi !
Nào đâu có yếm lụa sồi ?
Cái dây lưng đũi nhuộn hồi sang xuân ?
Nào đâu cái áo tứ thân ?
Cái khăn mỏ quạ, cái quần nái đen ?
Nói ra sợ mất lòng em
Van em em hãy giữ nguyên quê mùa
Như hôm em di lễ chùa
Cứ ăn mặc thế cho vừa lòng anh
Hoa chanh nở giữa vườn chanh
Thầy u mình với chúng mình chân quê
Hôm qua em đi tỉnh về?
Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều?
Nguyễn Bính - 1936
“Thương người như thể thương Bài thơ “Tôi yêu chuyện cổ nước tôi”


tưởng
nhân ái
thân”
(Tục ngữ)
Truyện cổ tích “Thạch Sanh”,
“Tấm Cám”,
– Lâm Thị Mỹ Dạ







Tình
cảm lạc
quan
yêu đời
Tháng giêng , tháng hai , tháng ba
,tháng bốn , tháng khốn , tháng
nạn
Đi vay đi dạm , được một quan
tiền
Ra chợ Kẻ Diên mua con gà mái
Về nuôi ba tháng , hắn đẻ ra mười
trứng
Một trứng ung ; Hai trứng ung ;
Ba trứng ung
Bốn trứng ung ; Năm trứng ung ;
Sáu trứng ung

Bảy trứng cũng ung
Còn ba trứng nở ra ba con
“ Bữa cơm ngày đói trông thật thảm
hại. Giữa cái mẹt rách có độc một lùm
rau chuối thái rối,và một đĩa muối ăn
với cháo, nhưng cả nhà đều ăn rất ngon
lành. Bà cụ vừa ăn vừa kể chuyện làm
ăn, gia cảnh với con dâu. Bà lão nói
toàn chuyện vui, toàn chuyện sung
sướng về sau này :
- Tràng ạ. Khi nào có tiền ta mua lấy
đôi gà. Tao tin rằng cái chỗ đầu bếp kia
làm cái chuồng gà thì tiện quá. Này
ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy mà có
ngay đàn gà cho mà xem ”
(Vợ nhặt – Kim Lân)
Con diều tha, con quạ quắp,
con mặt cắt xơi
Chớ than phận khó ai ơi !
Còn da lông mọc, còn chồi nảy
cây
(Ca dao “Mười quả trứng”)










Tình
yêu
thiên
nhiên,
“Chẳng thơm cũng thể hoa nhài
Dẫu không lịch sự cũng người
Trường An”
(Ca dao)
Rủ nhau chơi khắp Long Thành
Ba mươi sáu phố rành rành chẳng
sai
Hàng Bồ, Hàng Bạc, Hàng Gai
Hàng Buồm, Hàng Thiếc,
Hàng Bài, Hàng Khay
Mã Vĩ, Hàng Điếu, Hàng Giày
Hàng Lờ, Hàng Cót, Hàng Mây,
“Chẳng thơm cũng thể hoa nhài
Dẫu không lịch sự cũng người Trường
An
Hồi thủ khả lân ca vũ địa
Đất Trường An là chốn đế kinh
Nước non một dải hữu tình
Giời Nam Việt trước gây đồ đế kỉ,
Người thôn ổ, dấu phong lưu thành thị.
Đất kinh kì riêng một áng lâm tuyền
Men sườn non tiếng mục véo von
In mặt nước buồm ngư lã chã
Hoa thảo kỉ kinh xuân đại tạ
đất nướcHàng Đàn

Phố Mới, Phúc Kiến, Hàng Than
Hàng Mã, Hàng Mắm,
Hàng Ngang, Hàng Đồng
Hàng Muối, Hàng Nón, Cầu Đông
Hàng Hòm, Hàng Đậu, Hàng
Bông,
Hàng Bè
Hàng Thùng, Hàng Bút, Hàng Tre
Hàng Vôi, hàng Giấy, Hàng The,
Hàng Gà
Quanh đi đến phố Hàng Da
Trải xem phường phố thật là cũng
xinh
Phồn hoa thứ nhất Long Thành
Phố Giăng mắc cửi, đường quanh
bàn cờ
Người về nhớ cảnh ngẩn ngơ
Bút hoa xin chép nên thơ lưu
Giang sơn trầm tiếu cổ hưng vương
Đồ thiên nhiên riêng một bức tang
thương
Khách du lãm coi chừng thăm hỏi
Đã mấy độ sao dời vật đổi
Nào vương cung, đế miếu đâu nào ?
Mỉa mai vượn hót anh chào.”
(Vịnh cảnh Hà Nội - Nguyễn Công
Trứ)

truyền.
(Ca dao)

Tình
yêu
con
người
“Thân em cúc mọc bờ rào,
Kẻ qua ngắt nhụy, người vào bẻ
bông”
(Ca dao)
“Khi sao phong gấm rủ là
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường ”
(Truyện Kiều - Nguyễn Du)
+ Về phương diện nghệ thuật: VHDG cung cấp cho các nhà văn một kho tàng các
truyền thống nghệ thuật dân tộc, từ ngôn ngữ đến các hình thức thơ ca, các phương
pháp xây dựng nhân vật, hình ảnh, cách nói, các biện pháp tu từ, thể loại, chất liệu
dân gian,
- Ngôn ngữ : ngôn ngữ văn học dân gian mang đậm tính triết lí, giàu chất thơ song
hình thức biểu đạt lại gần gũi, dễ hiểu. Người dân lao động thường dùng những
cách nói trong giao tiếp hàng ngày để diễn đạt tư tưởng, tình cảm cũng như đúc kết
kinh nghiệm sống.
VD : Truyền thống lấy lá trầu để làm ngôn ngữ bày tỏ tình cảm :
“Anh thương em trầu hết lá lươn”.
“Bắc thang lên hái ngọn trầu vàng
Trầu em cao số muộn màng anh thương”.
“Bây giờ em mới hỏi anh
Trầu vàng nhá với cau xanh thế nào ?
“Cau xanh nhá với trầu vàng,
Tình anh sánh với duyên nàng đẹp đôi.”
→ Tiếp nối truyền thống ấy, Hồ Xuân Hương cũng sử dụng ngôn ngữ trầu cau để
bày tỏ khát vọng hạnh phúc của người phụ nữ trong xã hội phong kiến :
“Quả cau nho nhỏ, miếng trầu hôi” (Mời trầu)

- Hình ảnh : Trong văn học dân gian phần lớn là cảnh thiên nhiên hay sinh hoạt rất
quen thuộc với người bình dân. Trong cuộc sống hàng ngày, người dân lao động rất
thân thuộc với mái đình, cây đa, bến nước, vì vậy, trong tình yêu đôi lứa, trong
nỗi nhớ quê hương, người lao động đã tái hiện lại những không gian thân thuộc
ấy trong lời ca của mình :
“Anh đi anh nhớ quê nhà
Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương
Nhớ ai dãi nắng dầm sương
Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao”.(Ca dao)
- Thể loại : Hơn 90% số bài ca dao sử dụng thể thơ lục bát hoặc lục bát biến thể.
Trong ca dao còn có thể thơ khác, như : song thất lục bát, vãn bốn, vãn năm.
Nguyễn Du đã rất thành công trong việc sử dụng thể thơ lục bát của dân tộc với tác
phẩm “Truyện Kiều”. Ngoài, còn có một số tác phẩm văn học viết cũng được sử
dụng thể thơ dân tộc này : “Lục Vân Tiên” (Nguyễn Đình Chiểu), “Lỡ bước sang
ngang” (Nguyễn Bính),
- Chất liệu dân gian : Các nhà thơ đã sử dụng rất linh hoạt chất liệu dân gian vào
tác phẩm của mình :
VD : Câu thơ :
“Tay ai thì lại làm nuôi miệng
Làm biếng ngồi ăn lở núi non.”(Nguyễn Trãi)
→ Gợi liên tưởng tới 2 câu tục ngữ : “Tay làm hàm nhai, tay quai miệng trễ”,
“Miệng ăn núi lở”.
Câu thơ :
“Gần son thì đỏ, mực thì đen
Sáng, biết nhờ ơn thuở bóng đè” (Nguyễn Bỉnh Khiêm)
→ làm chúng ta nhớ đến câu tục ngữ “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”.
Như vậy, trong quá trình phát triển, hai bộ phận văn học dân gian và văn học viết
luôn có mối quan hệ biện chứng, tác động, bổ sung, hỗ trợ lẫn nhau để cùng phát
triển. Văn học dân gian là nền tảng cho văn học viết tiếp thu. Trái lại, văn học viết
có tác động trở lại làm văn học dân gian thêm phong phú, đa dạng.

×