Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

Phổ biến kiến thức

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (378.32 KB, 33 trang )

SƯƠNG MUỐI
Sương muối là hiện tượng hơi nước đóng băng thành các hạt nhỏ và trắng như muối ngay trên mặt
đất hay bề mặt cây cỏ hoặc các vật thể khác khi không khí trên đó ẩm và lạnh. Nó thường hình
thành vào những đêm đông, trời lặng gió, quang mây, khi mà bức xạ là nguyên nhân chủ yếu của
quá trình lạnh đi của không khí và các vật thể. Nên nhớ rằng nó không mặn mà chỉ trắng như muối,
gần giống với lớp tuyết ở trong khoang lạnh của tủ lạnh.
Xem ra "màu trắng" của nó đã được thể hiện trong tên gọi sương muối ở nhiều thứ tiếng trên thế
giới, như tiếng Anh "hoar frost", trong đó "hoar" là "trắng như tóc hoa râm" tiếng Trung là "bạch
sương", bạch là trắng, tiếng Pháp là "gelée blanche", "blanche" là trắng. Có nơi cho rằng có 2 loại
sương muối: "hoar frost" và "rime", nhưng với "rime", không khí ẩm ban đầu ngưng kết thành các
hạt nước, sau đó mới bị lạnh đi để trở thành các hạt băng. Sương muối là hiện tượng nguy hiểm đối
với nhiều loại cây trồng và vật nuôi.

Ở nước ta sau khi không khí lạnh về, vùng núi Bắc bộ nằm sâu trong không khí lạnh, đêm trời
quang mây, lặng gió, không khí ẩm đã lạnh lại bị bức xạ mất nhiệt nên tiếp tục lạnh, nhiệt độ không
khí giảm nhanh dẫn đến hình thành sương muối. Sương muối thường hình thành khi nhiệt độ không
khí < = 4
0
C (trong lều khí tượng ở độ cao 2m), khi ấy nhiệt độ bề mặt các vật thể hay cây cỏ ở mặt
đất đã có thể xấp xỉ 0
0
C, nhưng phải đủ ẩm mới hình thành được sương muối. Các vùng đồng bằng
nước ta chỉ có sương giá (không phải sương muối), song nó cũng nguy hiểm đối với một số cây
trồng nếu thời gian sương giá kéo dài.

Vào mùa thu, về đêm trời thường quang đãng, gió lặng, nhưng buổi sáng ta lại thấy những giọt
nước long lanh đọng trên ngọn cỏ, lá cây. Đó là những hạt sương móc. Sương móc hình thành do sự
ngưng hơi nước trên các vật ở gần sát mặt đất khi nhiệt độ các vật này giảm xuống dưới điểm sương
của không khí. Trời quang, gió lặng chính là điều kiện thuận lợi cho sự hình thành sương móc.

Nếu nhiệt độ mặt đất giảm xuống 0


0
C hay thấp hơn, hơi nước sẽ ngưng kết thành thể rắn, xốp, có
màu trắng như muối nên gọi là sương muối. Sương muối cũng là một loại thời tiết nguy hiểm vì
nhiệt độ quá lạnh của nó làm chết cây trồng. Ở nước ta, hiện tượng sương muối thường xẩy ra trong
các tháng mùa đông, nhất là vào các tháng 12, tháng 1 và tháng 2. Nơi hàng năm xuất hiện sương
muối nhiều nhất là các tỉnh vùng núi Bắc Bộ, một số nơi trung du tỉnh Vĩnh Phúc, Hà Bắc, Hòa
Bình cũng có hiện tượng này. Thậm chí vùng núi Thanh Hóa và Tây Nghệ An (Nghệ Tĩnh) cũng có
năm xuất hiện sương muối (như tháng 12 năm 1 975). Các tỉnh Trung Trung Bộ trở vào đến Nam
Bộ hầu như không có hiện tượng sương muối.
SƯƠNG MÙ
Sương mù là hiện tượng hơi nước ngưng tụ thành các hạt nhỏ li ti trong lớp không khí sát mặt đất,
làm giảm tầm nhìn ngang xuống dưới 1 km. Nó giống như mây thấp nhưng khác ở chỗ sương mù
tiếp xúc trực tiếp với bề mặt đất, còn mây thấp không tiếp súc với bề mặt đất mà cách mặt đất một
khoảng cách được gọi là độ cao chân mây.
Chính vì thế người ta xếp sương mù vào họ mây thấp. Căn cứ vào nguyên nhân hình thành, sương
mù được chia ra các loại khác nhau như:
+ Sương mù bức xạ hình thành khi mặt đất lạnh đi do bức xạ vào ban đêm trời quang mây, lặng
gió.
+ Khi không khí ẩm di chuyển ngang qua nơi có bề mặt lạnh sẽ bị lạnh đi nên hình thành sương
mù bình lưu.
+ Khí không khí lạnh di chuyển qua miền có mặt nước ấm hơn nhiều thì hơi nước bốc lên gặp lạnh
nhanh chóng ngưng tụ thành sương mù bốc hơi. Ngoài ra còn sương mù do mưa, sương mù thung
lũng, v.v
Mù là hiện tượng tập hợp các hạt bụi, khói lơ lửng trong không khí, làm giảm tầm nhìn ngang. Mù
mạnh có thể làm giảm tầm nhìn ngang xuống vài trăm mét, thậm chí hàng chục mét như sương mù
mạnh. Mù thường do nguyên nhân địa phương như cháy rừng, môi trường ô nhiễm, Sương mù và
mù đều là hiện tương khí tượng nguy hiểm. Đặc biệt đối với giao thông vận tải đường bộ, đường
sông, đường biển và hàng không, hàng năm sương mù đã gây ra những trở ngại và tổn thất không
nhỏ.
Sương mù ở nước ta thường xảy ra thường xuyên vào các tháng từ cuối mùa thu đến cuối mùa

xuân, nhiều và mạnh nhất vào các tháng mùa đông. Ngày nay môi trường không khí càng ngày càng
ô nhiễm nên sương mù và mù xảy ra nhiều hơn và cường độ mạnh hơn.
Nhân dân ta thường nói là sương sa hay sương xuống nhiều. Thực ra nói như vậy là không đúng. Vì
rằng khác hẳn với mưa, có nguồn gốc là những giọt nước trong các đám mây nên mưa từ trên trời
rơi xuống. Còn sương được hình thành do chính hơi nước trong lớp không khí gần mặt đất. Trong
lớp không khí ẩm (thường được gọi là điểm sương, tức là nhiệt độ ở đấy lượng hơi nước chứa trong
không khí trở thành mức bão hòa) thì lượng hơi nước thừa sẽ ngưng lại thành những giọt nhỏ, tạo ra
sương mù. Hạt sương mù nhỏ li ti, đường kính trung bình từ ba phần nghìn đến một phần trăm
milimét.
Sương mù được hình thành do nhiều nguyên nhân. Có thể về đêm, mặt đất mất nhiệt bị lạnh đi làm
lớp không khí tiếp xúc với nó lạnh theo và sự lạnh này truyền lan đến các lớp không khí cao hơn.
Khi không khí lạnh đến nhiệt độ dưới điểm sương thì hình thành sương mù, gọi là sương mù bức
xạ.
Sương mù cũng có thể do một khối khí nóng và ẩm nhiều tràn tới vùng lạnh hơn. Nhiệt độ của khối
khí nóng, ẩm bị giảm nhanh và tạo thành sương mù gọi là sương mù bình lưu. Sương mù còn có thể
được hình thành do hơi nước ở các mặt sông, hồ, đầm lầy bốc lên khi gặp không khí có nhiệt độ
thấp hơn thì ngưng lại tạo ra sương mù. Đó là sương mù bốc hơi.
TỐ, LỐC, VÒI RỒNG
Tố là hiện tượng gió tăng tốc đột ngột, hướng cũng thay đổi bất chợt, nhiệt độ không khí giảm
mạnh, ẩm độ tăng nhanh thường kèm theo dông, mưa rào hoặc mưa đá.
Đôi khi có những đám mây kỳ lạ bỗng xuất hiện. Chân mây tối thẫm, bề ngoài tơi tả, mây bay rất
thấp và hình thay đổi mau. Đó là những đám mây báo trước gió mạnh đột ngột, thường là Tố. Tố
xảy ra khi không khí lạnh tràn vào vùng nóng và nâng không khí nóng lên đột ngột. Tố thường xảy
ra trong một thời gian ngắn chừng vài phút. Vùng Tố là một dải dài và hẹp chuyển dịch với tốc độ
khá lớn, tới cấp 10. Tố rất nguy hiểm và xảy ra đột ngột chưa dự đoán trước được.

Lốc là những xoáy trong đó gió trong hoàn lưu nhỏ cỡ hàng chục, hàng trăm mét. Lốc xoáy là
những xoáy nhỏ cuốn lên, có trục thẳng đứng, thường xảy ra khi khí quyển có sự nhiễu loạn và về
cơ bản là không thể dự báo được. Nguyên nhân sinh gió lốc là những dòng khí nóng bốc lên cao
một cách mạnh mẽ. Trong những ngày hè nóng nực, mặt đất bị đốt nóng không đều nhau, một

khoảng nào đó hấp thụ nhiệt thuận lợi sẽ nóng hơn, tạo ra vùng khí áp giảm và tạo ra dòng thăng.
Không khí lạnh hơn ở chung quanh tràn đến tạo hiện tượng gió xoáy, tương tự như trong cơn bão.
Tốc độ gió của lốc tăng mạnh đột ngột trong một thời gian rõ rệt.

Hai hiện tượng tố, lốc thường xảy ra nhanh, không lan rộng. Về định nghĩa chuyên ngành thì đây là
hai hiện tượng khác nhau, nhưng khi thu thập số liệu từ nhiều nguồn khác nhau thì hai hiện tượng
này thường được thống kê đan xen lẫn lộn. Do vậy hai hiện tượng này tạm ghép thành một hiện
tượng (tố lốc).

Ở Việt Nam số liệu thống kê về vòi rồng rất ít, do vậy cơ sở dữ liệu và bản đồ về hiện tượng này
chưa được xây dựng. Vòi rồng là hiện tượng gió xoáy rất mạnh, phạm vi đường kính rất nhỏ, hút từ
bề mặt đất lên đám mây vũ tích, tạo thành hình như cái phễu di động, trông giống như cái vòi,
nhưng từ trên bầu trời thò xuống nên dân ta "tôn kính" gọi là "vòi rồng" (mà không gọi là vòi voi
chẳng hạn), chứ thực tế không có con rồng nào cả. Trên đường di chuyển nó có thể cuốn theo (rồi
ném xuống ở một khoảng cách sau đó) hoặc phá huỷ mọi thứ, kể cả những nhà gạch xây không kiên
cố, nên nó cũng là hiện tượng khí tượng đặc biệt nguy hiểm. Nhìn từ xa vòi rồng có thể có màu đen
hoặc trắng, tuỳ thuộc những thứ mà nó cuốn theo. Vòi rồng xuất hiện ở trên đại dương thường hút
nước biển lên cao tạo thành các cây nước (waterspouts). Rất thú vị là không phải chỉ có dân ta "tôn
kính" gọi nó là vòi rồng mà cả ở Trung quốc người ta cũng gọi là vòi rồng (âm Hán-Việt là "lục
long quyển"). Còn tiếng Anh thuật ngữ đó là "Tornado" có nguồn gốc từ tiếng Tây Ban Nha hay Bồ
Đào Nha, đều có nghĩa là "quay" hay "xoáy" (gió xoáy).

Khủng khiếp hơn Tố là Vòi rồng. Một đám mây đen kịt đang trôi rất thấp, chợt từ chân mây thòi ra
chiếc vòi đen khổng lồ từ từ hạ xuống mặt đất. Bụi, cát, đá bị cuốn lên nối với vòi mây, uốn éo, rít
lên những tiếng ghê rợn. Đó là Vòi rồng. Vòi rồng là một xoáy khí nhỏ nhưng cực mạnh. Khi một
khối không khí nóng, ẩm di chuyển ở dưới một khối không khí lạnh khô thì có khả năng làm xuất
hiện những xoáy khí. Nếu xoáy khí này có áp suất trung tâm rất thấp nghĩa là vật chất trong tâm
xoáy rất loãng thì không khí nóng, ẩm ở phía dưới bị hút lên tạo thành một cái vòi chuyển động
xoáy rất mãnh liệt. Đó là nguyên nhân phát sinh vòi rồng. Vòi rồng nuốt chửng những vật nó gặp
trên đường đi, cuốn chúng lên cao, mang đi xa rồi ném trả lại mặt đất ở rải rác các nơi. Vòi rồng là

một luồng gió xoáy có sức phá hoại mãnh liệt. Tốc độ gió trong vòi rồng còn lớn hơn gió bão, có
khi tới hàng trăm mét trong một giây. Vòi rồng phát triển từ một cơn dông, thường từ ổ dông rất
mạnh hay siêu mạnh, nên ở đâu có dông dữ dội là ở đó có thể có vòi rồng, song cũng may là nó rất
hiếm. Cũng có khi nó sinh ra từ một dải gió giật mạnh (được gọi những đường tố) hay từ một cơn
bão. Người ta cho rằng khi không khí ở lớp bên trên lạnh đè lên lớp không khí nóng ở phía dưới,
không khí nóng sẽ bị cưỡng bức chuyển động lên rất mạnh, thế nhưng khí vòi rồng xảy ra trên mặt
nước thì thường lại không thấy đối lưu và cũng không thấy sự khác biệt nhiệt độ giữa các lớp. Vì
vậy nguyên nhân vòi rồng con người vẫn chưa hoàn toàn hiểu được hết.

Ở nước ta, vòi rồng và tố thường xuất hiện vàc các tháng mùa hè. Năm nào cũng xảy ra hiện tượng
này, song có năm nhiều, năm ít. Ở Bắc Bộ vòi rồng, tố không những xảy ra trong các tháng mùa hè,
mà đặc biệt thường hay xảy ra vào các giai đoạn chuyển tiếp từ đông sang hè (tháng 4, tháng 5),
mỗi khi có một đợt không khí lạnh ảnh hưởng tới. Ở Nam Bộ số lần xảy ra vòi rồng ít hơn ở Bắc Bộ
và Trung Bộ.
MƯA ĐÁ
Mưa đá là hiện tượng mưa dưới dạng hạt hoặc cục băng có hình dáng và kích thước khác nhau do
đối lưu cực mạnh từ các đám mây dông gây ra. Kích thước có thể từ 5 mm đến hàng chục cm,
thường cỡ khoảng một vài cm, có dạng hình cầu không cân đối. Những hạt mưa đá thường rơi
xuống cùng với mưa rào. Mưa đá thường kết thúc rất nhanh trong vòng 5 -10 phút, lâu nhất cho cả
một vệt mưa cũng chỉ 20 - 30 phút.
Trong cơn dông mưa đá thường kèm theo gió rất mạnh, có khi là gió lốc kèm theo mưa đá, sức tàn
phá hết sức khủng khiếp do gió mạnh và xoáy gây ra.
Ngoài gió rất mạnh ra thì bản thân những hòn mưa đá cũng có khi gây ra đổ nhà, tàn phá cây cối,
thậm chí chết người. Vì vậy mưa đá được xếp vào những hiện tượng thời tiết nguy hiểm.
Mưa đá thường xảy ra ở vùng núi hay khu vực giáp biển, giáp núi (bán sơn địa), còn vùng đồng
bằng ít xảy ra hơn. Vì vậy ở nước ta mưa đá có thể xảy ra ở khắp các vùng miền. và cả trong mùa
hè. Riêng ở vùng núi phía bắc nước ta, từ tháng 1 đến tháng 5 hàng năm thường có mưa đá, nhiều
nhất là từ tháng 3 đến tháng 5, mà nguyên nhân chủ yếu là các đợt front lạnh cực mạnh tràn về
nhanh.
Khi chưa nhận được tin dự báo mưa đá bạn đọc vẫn có thể qua hiểu biết mà tự phòng tránh: Nếu

thấy trời nổi dông gió, mây đen bao phủ bầu trời gần như kín tầm mắt, có dạng như bầu vú, rồi
dông gió nổi lên mạnh, tạo ra tiếng "ù ù, ầm ầm" liên tục thì bạn hãy cảnh giác với mưa đá. Nếu tiếp
đó lắc rắc vài hạt mưa rào, ta cảm thấy nhiệt độ không khí như lạnh đi, có thể mưa đá đã kéo đến.
Hãy cùng nhau chiêm nghiệm, rất lợi ích và thú vị!.
DIỄN GIẢI MỘT SỐ THUẬT NGỮ VÀ KHÁI NIỆM LIÊN QUAN
Tổ chức Khí tượng thế giới (WMO) là một cơ quan chuyên nghiệp thuộc Liên hợp quốc, được thành
lập để phối hợp, chuẩn hoá và cải thiện những hoạt động khí tượng trên thế giới và khuyến khích
trao đổi hữu hiệu thông tin số liệu khí tượng giữa các nước vì lợi ích khác nhau của nhân loại.
Ngày 23-3-1950 WMO được thành lập trên cơ sở kế thừa Tổ chức Khí tượng Quốc tế (IMO), được
thành lập năm 1873, khi còn chưa có Tổ chức Liên hợp quốc. Từ đó nó trở thành cơ quan chuyên
nghiệp của Liên hợp quốc về Khí tượng (thời tiết và khí hậu), thuỷ văn nghiệp vụ và các khoa học
địa vật lý có liên quan. Ngày 23 tháng 3 hàng năm được Liên hợp quốc lấy làm Ngày Khí tượng
Thế giới.
Từ khi thành lập, WMO đã đóng vai trò tích cực có một không hai, góp phần bảo vệ sự bình yên
của nhân loại. Dưới sự lãnh đạo của WMO và trong khuôn khổ các chương trình của WMO, các Cơ
quan Khí tượng Thuỷ văn Quốc gia đã có những đóng góp căn bản trong việc phòng chống thiên
tai, bảo vệ tính mạng và tài sản cho dân, bảo vệ môi trường, phát triển kinh tế xã hội thuộc tất cả
các lĩnh vực hoạt động của xã hội loài người. Nó là tổ chức duy nhất trong hệ thống tổ chức của
Liên hợp quốc thực hiện tự do (không mất tiền) và không hạn chế việc trao đổi thông tin số liệu, sản
phẩm và dịch vụ theo chế độ thời gian thực hoặc gần thời gian thực. Chính vì vậy mà từ một tổ
chức lúc đầu chỉ có mươi thành viên, đến nay WMO đã có 187 thành viên là quốc gia hoặc lãnh thổ
ở khắp các châu lục.

Khí tượng (hay Khí tượng học, Meteorology có nguồn gốc từ tiếng Hy-Lạp "μετεωρΟλόγια", có
nghĩa là "khoa học về các hiện tượng khí quyển") là khoa học nghiên cứu các quá trình và các hiện
tượng của khí quyển. Việc nghiên cứu không chỉ bao gồm vật lý, hoá hoc và động lực học của khí
quyển mà nó còn mở rộng ra và bao gồm cả những hiệu ứng trực tiếp của khí quyển lên bề mặt trái
đất, đại dương và cuộc sống nói chung thông qua các yếu tố và hiện tượng khí tượng. . Các yếu tố
khí tượng chủ yếu bao gồm nhiệt độ, khí áp, độ ẩm, gió, mây, mưa. Chúng luôn biến động theo thời
gian và không gian trong mối tương tác lẫn nhau theo những quy luật phức tạp của tự nhiên

Các hiện tượng khí tượng là những hiện tượng thời tiết có thể quan trắc được và được làm sáng tỏ
hay giải thích bằng khoa học khí tượng, như mưa, gió, sấm, chớp, dông, tố, bão, tuyết, Trong đó
có những hiện tượng thời tiết nguy hiểm và đặc biệt nghuy hiểm đến mức thảm hoạ, mà theo WMO
có tới 70% thiên tai (các thảm hoạ tự nhiên) bắt nguồn từ các hiện tượng Khí tượng thuỷ văn.
Tiêu điểm của khoa học Khí tượng là nghiên cứu dự báo được các quá trình khí quyển, các hiện
tượng thời tiết và khí hậu với thời hạn dự báo khác nhau.
Các lĩnh vực khác nhau của Khí tượng bao gồm khí tượng nông nghiệp, khí tượng cao không, khí
tượng biển, khí tượng học thiên thể, khí tượng hàng không, khí tượng động lực, khí tượng-thuỷ văn,
khí tượng nghiệp vụ, khí tượng sy-nôp, khí tượng ứng dụng
Thuỷ văn (hay Thuỷ văn học, Hydrology có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp "Yδρoλoγια" có nghĩa là
khoa học về nước) là khoa học nghiên cứu về tính chất, sự chuyển động và phân bố của nước (thể
lỏng và thể rắn) trong toàn bộ Trái đất. Nó có quan hệ tương tác về vật lý và hoá học của nước với
phần còn lại của Trái đất và quan hệ của nó với sự sống của Trái đất, và như vậy nó bao gồm cả chu
trình thuỷ văn và tài nguyên nước.
Các lĩnh vực thuỷ văn bao gồm thuỷ văn-khí tượng, thuỷ văn bề mặt, thuỷ văn địa chất, vì ở đó
nước đóng vai trò trung tâm. Nó không bao gồm khí tượng học và hải dương học, vì ở đó nước chỉ
là một trong nhiều mặt quan trọng. (Cần nói thêm rằng tuỳ quá trình phát triển ở từng quốc gia mà
từ một lĩnh vực được tách ra thành 1 ngành riêng biệt, nên khái niệm lĩnh vực không có nghĩa tuyệt
đối).

Do có sự giao nhau giữa khí tượng và thuỷ văn nên có lĩnh vực Khí tượng-thuỷ văn và Thuỷ văn-
khí tượng (Hydrometeorology, tiếng anh chỉ là 1 từ, nhưng người biên soạn đã dịch đảo tính từ để
phân biệt) là một khoa học liên ngành bao gồm việc nghiên cứu và phân tích mối quan hệ qua lại
giữa các pha của nước trong khí quyển và đất khi nó chuyển qua chu trình thuỷ văn. Cũng từ đó mà
có thuật ngũa "nhà thuỷ văn-khí tượng" (hydrometeorologist) là người có kiến thức thuộc cả 2 lĩnh
vực khí tượng và thuỷ văn, có khả năng nghiên cứu và giải các bài toán thuỷ văn mà ở đó khí tượng
chỉ là 1 nhân tố.

Bão Bão (typhoon) là tên gọi chung những xoáy thuận nhiệt đới (XTNĐ) trên Tây bắc Thái Bình
Dương khi tốc độ gió cực đại (Vmax) ở gần tâm duy trì liên tục từ 64 hải lý (gió cấp 12 ở ta) trở lên

(hải lý: knot - kt, bằng 1,853 km/h). Tiếng Anh "typhoon" có nguồn gốc từ tiếng Trung (âm Hán-
Việt) là "Thai phong" là "bão".
Ở khu vực khác nhau gọi hiện tượng bão bằng thuật ngữ khác nhau, như ở Đại Tây Dương, Đông
bắc Thái Bình Dương và Đông nam Thái Bình Dương (phía đông 160oE) gọi bão là "hurricanes".
Uỷ ban bão Khu vực Châu Á-Thái Bình Dương chia XTNĐ ra 5 giai đoạn theo Vmax: 1) Vùng áp
thấp (low pressure area): có vùng áp thấp trên bản đồ khí áp bề mặt, nhưng vị trí trung tâm không
thể xác định được 2) Áp thấp nhiệt đới (ATNĐ: tropical depression): vị trí trung tâm có thể xác
định được, nhưng Vmax < 34 kt 3) Bão tố nhiệt đới (Tropical storm - TS): Vmax 34-47 kt ("storm"
gốc từ tiếng Hà Lan là "dông tố", tiếng Trung là "cuồng phong", ở đây tạm dịch là "bão tố") 4) Bão
tố nhiệt đới mạnh (severe TS): Vmax 48-63 kt 5) Bão (Typhoon): Vmax => 64 kt. Có cơn bão quá
mạnh người ta gọi là "siêu bão" (supertyphoon).
Ở ta, "Quy chế báo bão, lũ" quy định tương tự như trên cho Biển Đông, trừ vùng áp thấp, gồm 1)
ATNĐ: XTNĐ có Vmax cấp 6-7 (39-61km/h), có thể có gió giật (GG) 2) Bão thường: XTNĐ có
Vmax cấp 8-9 (62-88km/h),GG 3) Bão mạnh: XTNĐ có Vmax cấp 10-11 (89-117km/h), GG 4)
Bão rất mạnh: XTNĐ có Vmax cấp 12 trở lên (=> 118km/h), GG.
Bão là hiện tượng đặc biệt nguy hiểm, gây ra gió rất mạnh, có thể đánh đắm tầu thuyền, làm đổ nhà
cửa mưa rất lớn, gây lũ lụt nghiêm trọng, có khi trở thành thảm hoạ. Ở nước ta mùa bão hàng năm
vào tháng 6 - 11, nhiều nhất vào tháng 7 - 10. Theo số liệu lịch sử thì trừ tháng 2, các tháng còn lại
đều có thể có bão nhưng rất hiếm.

Không khí lạnh là hiện tượng thời tiết khi khối không khí rất lạnh từ lục địa Châu Á di chuyển
xuống khu vực nước ta, nơi đang có khối không khí ấm, gây ra gió đông bắc mạnh trời trở rét và
thời riết xấu, thời gian đặc trưng là vào thời kỳ gió mùa mùa đông nên còn gọi là "gió mùa đông
bắc". Khối không khí lạnh này có nguồn gốc cực đới, tràn qua lục địa Châu Á dưới dạng front lạnh,
xuống đến nước ta trong nhiều trường hợp không còn thể hiện rõ tính chất điển hình của một front
lạnh nên ta gọi chung là "không khí lạnh". Khi không khí lạnh tràn về, đẩy không khí nóng chuyển
động lên cao, tạo thành một dải chuyển tiếp, người ta vẽ một đường phân cách giữa 2 khối không
khí, khác nhau cơ bản về nhiệt độ và độ ẩm, được gọi là front lạnh (thuật ngữ này do Bjerknes
(người Na-uy) đưa ra lần đầu vào lúc chiến tranh thế giới I đang đi đến hồi kết nên ông "lấy hứng"
đặt là "front" (mặt trận) và được giữ nguyên trong mọi thứ tiếng).


Gió mùa đông bắc là hiện tượng thời tiết đặc biệt nguy hiểm, vì khi nó tràn về ngoài khơi vịnh Bắc
bộ gió có thể mạnh đến cấp 6 - 7, có thể đánh đắm tầu thuyền, đất liền gió cấp 4 - 5, có thể làm hư
hại nhà cửa, cây cối, các công trình đang thi công trên cao, Đặc biệt những đợt mạnh còn gây ra
mưa to, gió lớn, thậm chí dông, tố lốc, có khi cả mưa đá. Vào những tháng chính đông (tháng 12,
tháng 1), đêm về trời quang mây, gây ra sương muối, băng giá, thậm chí có năm cả tuyết rơi trên
vùng núi cao nếu kéo dài còn gây rét đậm, rét hại không những đối với cây tròng, gia súc mà cả con
người. Ở ta không khí lạnh thường từ tháng 9 -10 đến tháng 5 - 6 năm sau, nhưng mạnh nhất vào
các tháng chính đông, ảnh hưởng trực tiếp là khu vực phía bắc, từ đèo Ngang trở ra, ít khi đến nam
Trung bộ.

El Nino là hiện tượng nhiệt độ nước biển ấm lên bất thường ở ngoài khơi bờ biển Nam Châu Mỹ
(Peru và Ecuador), phía Thái Bình Dương, thường kéo theo mưa lớn ở vùng bờ biển Peru và Chile.
La Nina là hiện tượng nhiệt độ nước biển lạnh đi khác thường ở ngoài khơi bờ biển nói trên. Hiệu
ứng của La Nina thường ngược lại với El Nino.
Theo tiếng Tây Ban Nha, "La Niủa" nghĩa là "cô bé", "El Niủo" là "cậu bé", do những người đánh
cá địa phương đặt, ý ám chỉ "Chúa Hài đồng" vì nó thường xuất hiện vào dịp lễ Giáng sinh. El Nino
thường xảy ra 3 đến 5 năm một lần, còn La Nina thì tần suất ít hơn. Trong thời gian diễn ra hiện
tượng El Nino và La Nina, những phần Thái bình dương ấm gây ra sự thay đổi thời tiết khắp nơi
trên thế giới. Hiệu ứng của chúng gây ra sự thay đổi về nhiệt độ và mưa xa đến tận Hoa kỳ và Úc.
Song hiệu ứng của chúng đối với mỗi vùng mỗi khác.
Dao động nam (South Oscilation SO) là dao động "đung đưa", bên tới bên lui, của khí áp quy mô
lớn giữa Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương (Walker, 1923). Kết hợp với dao động đung đưa của
khối lượng giữa các bán cầu là những thay đổi rất rõ trong chế độ gió, nhiệt độ và mưa. Khi El Nino
xảy ra thì ở Đông Thái Bình Dương nhiệt đới quan trắc được khí áp thấp hơn trung bình chuẩn, còn
ở Indonesia và bắc nước Úc lại cao hơn trung bình chuẩn. Đặc điểm này đặc trưng cho pha ấm của
SO và được gọi kết hợp với El Nino thành ENSO (El Nino / South Oscilation).

Dông trong Khí tượng được hiểu là hiện tượng khí tượng phức hợp gồm chớp và kèm theo sấm do
đối lưu rất mạnh trong khí quyển gây ra. Nó cũng thường kèm theo gió mạnh, mưa rào, sấm sét dữ

dội, thậm chí cả mưa đá, vòi rồng (ở vùng vĩ độ cao có khi còn có cả tuyết rơi).
Thuật ngữ "dông" tiếng Anh là "thunderstorm", từ điển khí tượng Trung quốc dịch là "lôi bạo" (âm
Hán-Việt) nghĩa là sấm dữ dội), còn trong dân gian ta "dông" là "trận gió to", không hoàn toàn
trùng với thuật ngữ "dông" trong khí tượng. Người La-mã xưa thì cho rằng dông sét là những trận
chiến giữa thần sấm (Jupiter, còn thần thoại Hy lạp là thần Zuis) và thần lửa (Vulkan).
Dông được xếp vào thời tiết nguy hiểm vì hàng năm có nước sét đánh chết hàng nghìn người, gây ra
hàng trăm vụ cháy rừng, cháy nhà, làm hư hỏng nhiều thiết bị máy móc, nhất là các thiết bị điện tử.
Dông ở nước ta có thể xảy ra quanh năm, nhưng vào tháng chính đông ở khu vực Bắc bộ nước ta
dông rất ít, có năm gián đoạn đến dịp sang xuân. Dông thường sinh ra trong thời tiết nóng ẩm nên
về mùa hè ở nước ta dông xảy ra thường xuyên hơn, thường vào buổi chiều hay chiều tối và được
gọi là dông nhiệt. Đặc biệt trên các vùng núi hay sông hồ trong những tháng nóng ẩm, dông có thể
xuất hiện nhiều và bất thường, lại hay kèm theo gió mạnh nên rất nguy hiểm cho tính mạng con
người.

Mưa đá là hiện tượng mưa dưới dạng hạt hoặc cục băng có hình dáng và kích thước khác nhau do
đối lưu cực mạnh từ các đám mây dông gây ra. Kích thước có thể từ 5 mm đến hàng chục cm,
thường cỡ khoảng một vài cm, có dạng hình cầu không cân đối. Những hạt mưa đá thường rơi
xuống cùng với mưa rào. Mưa đá thường kết thúc rất nhanh trong vòng 5 -10 phút, lâu nhất cho cả
một vệt mưa cũng chỉ 20 - 30 phút.
Trong cơn dông mưa đá thường kèm theo gió rất mạnh, có khi là gió lốc kèm theo mưa đá, sức tàn
phá hết sức khủng khiếp do gió mạnh và xoáy gây ra. Ngoài gió rất mạnh ra thì bản thân những hòn
mưa đá cũng có khi gây ra đổ nhà, tàn phá cây cối, thậm chí chết người. Vì vậy mưa đá được xếp
vào những hiện tượng thời tiết nguy hiểm.
Mưa đá thường xảy ra ở vùng núi hay khu vực giáp biển, giáp núi (bán sơn địa), còn vùng đồng
bằng ít xảy ra hơn. Vì vậy ở nước ta mưa đá có thể xảy ra ở khắp các vùng miền. và cả trong mùa
hè. Riêng ở vùng núi phía bắc nước ta, từ tháng 1 đến tháng 5 hàng năm thường có mưa đá, nhiều
nhất là từ tháng 3 đến tháng 5, mà nguyên nhân chủ yếu là các đợt front lạnh cực mạnh tràn về
nhanh.
Khi chưa nhận được tin dự báo mưa đá bạn đọc vẫn có thể qua hiểu biết mà tự phòng tránh: Nếu
thấy trời nổi dông gió, mây đen bao phủ bầu trời gần như kín tầm mắt, có dạng như bầu vú, rồi

dông gió nổi lên mạnh, tạo ra tiếng "ù ù, ầm ầm" liên tục thì bạn hãy cảnh giác với mưa đá. Nếu tiếp
đó lắc rắc vài hạt mưa rào, ta cảm thấy nhiệt độ không khí như lạnh đi, có thể mưa đá đã kéo đến.
Hãy cùng nhau chiêm nghiệm, rất lợi ích và thú vị !

Vòi rồng là hiện tượng gió xoáy rất mạnh, phạm vi đường kính rất nhỏ, hút từ bề mặt đất lên đám
mây vũ tích, tạo thành hình như cái phễu di động, trông giống như cái vòi, nhưng từ trên bầu trời
thò xuống nên dân ta "tôn kính" gọi là "vòi rồng" (mà không gọi là vòi voi chẳng hạn), chứ thực tế
không có con rồng nào cả.
Trên đường di chuyển nó có thể cuốn theo (rồi ném xuống ở một khoảng cách sau đó) hoặc phá huỷ
mọi thứ mà nó có thể, kể cả những nhà gạch xây không kiên cố., nên nó cũng là hiện tượng khí
tượng đặc biệt nguy hiểm. Nhìn từ xa vòi rồng có thể có màu đen hoặc trắng, tuỳ thuộc những thứ
mà nó cuốn theo. Vòi rồng xuất hiện ở trên đại dương thường hút nước biển lên cao tạo thành các
cây nước (waterspouts). Rất thú vị là không phải chỉ có dân ta "tôn kính" gọi nó là vòi rồng mà cả ở
Trung quốc người ta cũng gọi là vòi rồng (âm Hán-Việt là "lục long quyển"). Còn tiếng Anh thuật
ngữ đó là "Tornado" có nguồn gốc từ tiếng Tây Ban Nha hay Bồ Đào Nha, đều có nghĩa là "quay"
hay "xoáy" (gió xoáy).
Vòi rồng phát triển từ một cơn dông, thường từ ổ dông rất mạnh hay siêu mạnh, nên ở đâu có dông
dữ dội là ở đó có thể có vòi rồng, song cũng may là nó rất hiếm. Cũng có khi nó sinh ra từ một dải
gió giật mạnh (được gọi những đường tố) hay từ một cơn bão. Người ta cho rằng khi không khí ở
lớp bên trên lạnh đè lên lớp không khí nóng ở phía dưới, không khí nóng sẽ bị cưỡng bức chuyển
động lên rất mạnh, thế nhưng khí vòi rồng xảy ra trên mặt nước thì thường lại không thấy đối lưu và
cũng không thấy sự khác biệt nhiệt độ giữa các lớp. Vì vậy nguyên nhân vòi rồng con người vẫn
chưa hoàn toàn hiểu được hết.

Lũ là hiện tượng dòng nước do mưa lớn tích luỹ từ nơi cao tràn về dữ dội làm ngập lụt một khu vực
hoặc một vùng trũng, thấp hơn. Nếu mưa lớn, nước mưa lại bị tích luỹ bởi các trướng ngại vật như
đất đá, cây cối cho đến khi lượng nước vượt quá sức chịu đựng của vật chắn, phá vỡ vật chắn, ào
xuống cấp tập (rất nhanh), cuốn theo đất đá, cây cối và quét đi mọi vật có thể quét theo dòng chảy
thì được gọi là lũ quét (hay lũ ống), thường diễn ra rất nhanh, khoảng 3-6 giờ.
Tiếng Anh lũ là flood, lũ quét là flash flood (flassh là vụt hiện rồi tắt), tiếng Trung lũ là "hồng

thuỷ", nghĩa là "nước lớn".
Lũ lụt là hiện tương thuỷ văn đặc biệt nguy hiểm, nhất là lũ quét. Trong một số trường hợp nó có
sức tàn phá khủng khiếp và trở thành thảm hoạ tự nhiên, như trận lũ quét năm 1998 ở thị xã Lai
châu (cũ) đã xoá sổ cả bản Mường lay và khu vực thị xã. Lũ thường xảy ra ở vùng núi, nơi có địa
hình đồi núi cao chen kẽ với thung lũng và sông suối thấp. Vào các tháng mùa mưa có các trận mưa
lớn, cường độ mạnh, nước mưa tích luỹ nhanh, nếu đất tại chỗ đã no nước thì nước mưa đổ cả vào
dòng chảy, dễ gây ra lũ.
Nước lũ do mưa (hay băng, tuyết ở những nước vùng vĩ độ cao) sinh ra nên mùa lũ thường đi đôi
với mùa mưa. Mùa lũ ở Bắc bộ từ tháng 5-6 đến tháng 9-10, Bắc Trung bộ từ tháng 6-7 đến tháng
10-11, Trung và Nam Trung bộ: tháng 10-12, Tây nguyên: tháng 6-12, Nam bộ: tháng 7-12. Tuy
vậy đầu mùa mưa cũng có thể có lũ sớm, như lũ "tiểu mãn", thường xảy ra vào "tiết tiểu mãn"
(tháng 5) hàng năm ở vùng núi phía bắc nước ta. Song mùa lũ hàng năm cúng biến động cùng với
mùa mưa, thậm chí sớm muộn 1-2 tháng so với trung bình nhiều năm.

Hạn là hiện tượng thời tiết khô không bình thường ở một khu vực do trong một thời gian dài không
có mưa hay mưa không đáng kể. Song hạn không phải là hiện tượng thuần tuý vật lý, mà có sự tác
động qua lại giữa nước tự nhiên với nhu cầu sử dụng nước của con người, vì thế định nghĩa chính
xác về hạn là vấn đề phức tạp do phải cân nhắc rất nhiều mặt trong sự tương tác đó.
Nói chung người ta chấp nhận 3 định nghĩa sau đây về hạn: 1) Hạn khí tượng: là một thời kỳ dài
mưa ít hơn trung bình nhiều năm 2) Hạn nông nghiệp: là hạn khi mà thiếu độ ẩm đối với một thời
vụ hay thời kỳ sản xuất trung bình. Điều này xảy ra ngay cả khi mưa ở mức trung bình, nhưng lại
do điều kiện đất hay kỹ thuật canh tác đòi hỏi tăng lên 3) Hạn thuỷ văn: là khi nước dự trữ có thể
dùng được trong các nguồn như tầng ngầm, sông ngòi, hồ chứa tụt xuống mức thấp hơn trung bình
thống kê. Điều này cũng có thể xảy ra ngay cả khi mưa trung bình, nhưng sử dụng nước tăng lên,
làm thu hẹp mức dự trữ nước.
Về thuật ngữ thì nói "hạn" hay "hạn hán"? Tiếng Trung là "can hạn" hay "hạn" (âm Hán-Việt) nghĩa
là "khô hạn" hay "hạn". Như vậy thuật ngữ "hạn" tiếng Việt bắt nguồn từ tiếng Hán, nên nói "hạn"
hay "hạn hán" đều như nhau.
Hạn là hiện tượng có hại, có khi dẫn đến thảm hoạ như đã từng xảy ra ở một số nước Châu Phi. Ở
nước ta hạn xảy ra ở cả 3 miền, nhưng miền trung hạn nặng nhất, nhiều vùng đang có nguy cơ sa

mạc hoá. Hãy bảo vệ rừng và sử dụng tài mguyên nước hợp lý !

Trong Khí tượng có hiện tượng gió vượt đèo được gọi là "Fơn" (foehn): từ bên kia núi gió thổi lên
(anabatic wind), không khí bị lạnh dần đi rồi ngưng kết nên chút bớt ẩm nhưng cũng thu thêm nhiệt
do ngưng kết toả ra, sau khi qua đỉnh gió thổi xuống (katabatic wind) bên này núi, nhiệt độ của nó
tăng dần lên do quá trình không khí bị nén đoạn nhiệt, vì vậy đến chân núi bên này gió trở nên khô
và nóng hơn. Núi càng cao chênh lệch nhiệt độ càng lớn. (thí dụ với dãy núi cao 3km, nhiệt độ
không khí bên kia núi là 10oC, sang chân núi bên này nhiệt độ đã lên tới 18oC, theo Nicholas M.
Short, NASA).
Hiện tượng trên mỗi địa phương gọi mỗi tên khác nhau, "Fơn" là cách gọi ở Nam Mỹ, ở tây nam
nước Mỹ là "chinook", ở vùng giữa Alma-Ata và Frunze (Liên xô cũ) là "kastek", ở Việt Nam ta gọi
là "gió Lào" (vì thổi từ Lào sang) hay gió tây khô nóng (gió có thể lệch tây).
Gió khô nóng cũng là loại thời tiết nguy hiểm.
Gió tây thổi từ tây qua đông dãy Trường son gây ra gió khô nóng chủ yếu ở khu vực miền Trung
nước ta, thường xảy ra vào tháng 4, 5 và 6 hàng năm, thành từng đợt, kéo dài trong nhiều ngày.
Thời tiết trong những ngày này rất khô, độ ẩm có khi xuống 30%, và nóng, nhiệt độ có khi lên tới
43oC, bầu trời không một gợn mây, trời nắng chói chang, gió lại thổi đều đều như quạt lửa, cây cỏ
héo khô, ao hồ cạn kiệt, con người và gia súc bị ngột ngạt, rất dễ sinh hoả hoạn. Các nơi khác ở
nước ta cũng có gió khô nóng, song mức độ thấp hơn so với Trung bộ, nên để định lượng hoá hiện
tượng gió khô nóng các nhà khí tượng nước ta đưa ra chỉ tiêu: ngày có nhiệt độ > 35oC, độ ẩm < =
55% được xem là ngày có gió khô nóng.
Sương muối là hiện tượng hơi nước đóng băng thành các hạt nhỏ và trắng như muối ngay trên mặt
đất hay bề mặt cây cỏ hoặc các vật thể khác khi không khí trên đó ẩm và lạnh. Nó thường hình
thành vào những đêm đông, trời lặng gió, quang mây, khi mà bức xạ là nguyên nhân chủ yếu của
quá trình lạnh đi của không khí và các vật thể.
Nên nhớ rằng nó không mặn mà chỉ trắng như muối, gần giống với lớp tuyết ở trong khoang lạnh
của tủ lạnh. Xem ra "màu trắng" của nó đã được thể hiện trong tên gọi sương muối ở nhiều thứ
tiếng trên thế giới, như tiếng Anh "hoar frost", trong đó "hoar" là "trắng như tóc hoa râm" tiếng
Trung là "bạch sương", bạch là trắng, tiếng Pháp là "gelée blanche", "blanche" là trắng. Có nơi cho
rằng có 2 loại sương muối: "hoar frost" và "rime", nhưng với "rime", không khí ẩm ban đầu ngưng

kết thành các hạt nước, sau đó mới bị lạnh đi để trở thành các hạt băng.
Sương muối là hiện tượng nguy hiểm đối với nhiều loại cây trồng và vật nuôi.
Ở nước ta sau khi không khí lạnh về, vùng núi Bắc bộ nằm sâu trong không khí lạnh, đêm trời
quang mây, lặng gió, không khí ẩm đã lạnh lại bị bức xạ mất nhiệt nên tiếp tục lạnh, nhiệt độ không
khí giảm nhanh dẫn đến hình thành sương muối. Sương muối thường hình thành khi nhiệt độ không
khí < = 4oC (trong lều khí tượng ở độ cao 2m), khi ấy nhiệt độ bề mặt các vật thể hay cây cỏ ở mặt
đất đã có thể xấp xỉ 0 oC, nhưng phải đủ ẩm mới hình thành được sương muối. Các vùng đồng bằng
nước ta chỉ có sương giá (không phải sương muối), song nó cũng nguy hiểm đối với một số cây
trồng nếu thời gian sương giá kéo dài.

Sương mù là hiện tượng hơi nước ngưng tụ thành các hạt nhỏ li ti trong lớp không khí sát mặt đất,
làm giảm tầm nhìn ngang xuống dưới 1km. Nó giống như mây thấp nhưng khác ở chỗ sương mù
tiếp xúc trực tiếp với bề mặt đất, còn mây thấp không tiếp súc với bề mặt đất mà cách mặt đất một
khoảng cách được gọi là độ cao chân mây. Chính vì thế người ta xếp sương mù vào họ mây thấp.
Căn cứ vào nguyên nhân hình thành, sương mù được chia ra các loại khác nhau như: + Sương mù
bức xạ hình thành khi mặt đất lạnh đi do bức xạ vào ban đêm trời quang mây, lặng gió + Khi không
khí ẩm di chuyển ngang qua nơi có bề mặt lạnh sẽ bị lạnh đi nên hình thành sương mù bìh lưu.,+
Khí không khí lạnh di chuyển qua miền có mặt nước ấm hơn nhiều thì hơi nước bốc lên gặp lạnh
nhanh chóng ngưng tụ thành sương mù bốc hơi. Ngoài ra còn sương mù do mưa, sương mù thung
lũng, v.v

Mù là hiện tượng tập hợp các hạt bụi, khói lơ lửng trong không khí, làm giảm tầm nhìn ngang. Mù
mạnh có thể làm giảm tầm nhìn ngang xuống vài trăm mét, thậm chí hàng chục mét như sương mù
mạnh. Mù thường do nguyên nhân địa phương như cháy rừng, môi trường ô nhiễm, Sương mù và
mù đều là hiện tương khí tượng nguy hiểm Đặc biệt đối với giao thông vận tải đường bộ, đường
sông, đường biển và hàng không, hàng năm sương mù đã gây ra những trở ngại và tổn thất không
nhỏ.
Sương mù ở nước ta thường xảy ra thường xuyên vào các tháng từ cuối mùa thu đến cuối mùa
xuân, nhiều và mạnh nhất vào các tháng mùa đông. Ngày nay môi trường không khí càng ngày càng
ô nhiễm nên sương mù và mù xảy ra nhiều hơn và cường độ mạnh hơn.


Ghi chú: Trên đây là diễn giải có thêm "hoạ tiết" mang tính phổ cập để mọi người dễ hiểu, ấn
tượng và dễ nhớ, không chặt chẽ như "định nghĩa", với chủ ý mỗi thuật ngữ diễn giải trong 1/2
trang, nhưng đảm bảo đủ ý cơ bản cần đè cập. Mọi ý kiến đóng góp và trao đổi xin liên hệ điện
thoại 563 1776. Ngày 10 tháng 8 năm 2005. NVT.
MƯA LỚN
Hiện tượng mưa lớn là hệ quả của một số loại hình thời tiết đặc biệt như bão, áp thấp nhiệt đới hay
dải hội tụ nhiệt đới, front lạnh, đường đứt Đặc biệt khi có sự kết hợp của chúng sẽ càng nguy
hiểm hơn gây nên mưa, mưa vừa đến mưa to, trong một thời gian dài trên một phạm vi rộng.
Theo “Qui định tạm thời về tổng kết các hiện tượng thời tiết nguy hiểm hàng năm” của Trung tâm
Dự báo Khí tượng Thủy văn Trung ương, căn cứ vào lượng mưa thực tế đo được trong 24 giờ tại
các trạm quan trắc khí tượng bề mặt, trạm đo mưa trong mạng lưới KTTV mà phân định các cấp
mưa khác nhau theo qui định của Tổ chức Khí tượng Thế giới.
Mưa lớn được chia làm 3 cấp:
- Mưa vừa: Lượng mưa đo được từ 16 - 50 mm/24h.
- Mưa to: Lượng mưa đo được từ 51 - 100 mm/24h.
- Mưa rất to: Lượng mưa đo được > 100 mm/24h.
Ngày có mưa lớn là ngày xảy ra mưa trong 24 giờ (từ 19 giờ ngày hôm trước đến 19 giờ ngày hôm
sau) đạt cấp mưa vừa trở lên.
Trong các nghiên cứu về ảnh hưởng của mưa thì cấp mưa to 51 - 100 mm/24h bắt đầu có những ảnh
hưởng tiêu cực đến đời sống con người.
El Nino và La Nina là gì?
El Ninô, trong từ tiếng Tây Ba Nha có nghĩa là Chúa Hài
đồng, hoặc chú bé con, do hiện tượng này hay xảy ra vào dịp lễ
Giáng sinh, đầu tiên chỉ hiện tượng vùng nước lạnh ngoài khơi
Nam Mỹ lại ấm lên vào mua đông (hay còn gọi là hiện tượng
ấm hay pha ấm). El Ninô là thuật ngữ chỉ sự nóng lên của mặt
biển vùng xích đạo Thái Bình Dương ngoài khơi biển Nam
Mỹ, thường bắt đầu vào mùa đông và có chu kỳ 2-7 năm, có
khi đến chu kỳ 10 năm. Trong những tháng này ngư dân vùng

biển Nam Mỹ không ra khơi mà ở nhà làm công việc khác, do
lượng cá đến vùng biển này giảm hẳn. Mỗi khi hiện tượng El
Ninô xảy ra, khí hậu, thời tiết trên thế giới lại có diễn biến bất
thường.
La Nina, trong từ Tây Ba Nha có nghĩa là cô bé con (hay còn
gọi là đối El Ninô, anti-Ninô). La Nina, hiện tượng đối lập với
El Ninô là chỉ hiện tượng nhiệt độ mặt nước biển vùng xích
đạo phía đông Thái Bình Dương lạnh đi so với điều kiện bình
thường (hiện tượng lạnh hay pha lạnh) và cũng gây ra những dị
thường về thời tiết và khí hậu nhiều nơi. Hai hiện tượng này
thường xảy ra kế tiếp nhau.
El Ninô được biết là mạnh nhất thế kỷ là thời kỳ 1982-1983, và còn được quan sát vào thời kỳ
1997-1998. Thực tế El Ninô không phải là hiện tượng cục bộ ở vùng biển ngoài khơi Nam Mỹ, mà
còn là một phần hệ thống tương tác có quy mô lớn và phức tạp giữa khí quyển và đại dương toàn
cầu.
Nguyên nhân của El Ninô là gì? Theo các nhà khoa học hiện tượng El Ninô là do sự yếu đi của tín
phong. Nước biển ấm lên làm gió yếu đi và gió yếu đi lại làm nước biển ấm thêm. Cứ như vậy El
Ninô ngày càng mạnh lên!
Nhưng cũng có các giả thiết về nguyên nhân hiện tượng El Ninô là do hoạt động của núi lửa hay
hậu quả của việc dư thừa nhiệt ở vùng nhiệt đới và El Ninô là sự điều chỉnh để tạo sự cân bằng khí
hậu?
Nguồn: "Những điều cần biết về El Ninô và La Nina" của GS.TS Đăng Đức Ngữ (chủ biên)
Đọc thêm: Climate Variability and El Nino (BOM-Australia)
Các kiến thức căn bản về vòi rồng (tornado basics)
Vòi rồng là gì? Theo từ vựng khí tượng (AMS 2000), vòi rồng là một cột không khí xoay với tốc độ
kinh khủng kéo từ đám mây tích hoặc bên dưới đám mây tích, và thường là (nhưng không phải luôn
luôn) thấy được như là đám mây hình cái phễu. Theo nghĩa đen để một cơn lốc phân loại trở thành
một vòi rồng, nó phải được tiếp xúc với mặt đất và mặt nền của đám mây. Các nhà khoa học về thời
tiết chưa khám phá được nó đơn giản hơn trong thực hành để phân loại và định nghĩa vòi rồng.
Chẳng hạn, sự khác nhau là không rõ ràng giữa một xoáy trung mạnh (sự lưu thông sấm chớp) trên

mặt đất và một vòi rồng yếu. Cũng có sự bất đồng ý kiến là liệu sự đổ bộ riêng biệt của cùng một
cơn lốc cấu thành lên các vòi rồng riêng biệt. Điều được thừa nhận là vòi rồng có thể không có một
dạng hình phễu nhìn thấy được. Vậy tốc độ gió như thế nào của một cơn lốc xoáy từ đám mây
xuống mặt đất của một vòi rồng? Sự liên hệ khăng khít thế nào của hai hay nhiều lưu thông vòi
rồng khác nhau để trở thành một vòi rồng đa xoáy lốc, thay cho nhiều nhiều vòi rồng riêng biệt?
Không có câu trả lời khẳng định. Để có nhiều thông tin về những vấn đề của vòi rồng về khoa học
vòi rồng, tiến sỹ Chuck Doswell (NSSL) đã đưa ra thảo luận rộng rãi về định nghĩa vòi rồng
Vòi rồng hình thành như thế nào? Câu trả lời cổ điển là "không khí ẩm nóng vùng vịnh gặp
không khí Canada lạnh và không khí khô từ dãy Rockies" - là sự đơn giản hóa nói chung. Nhiều cơ
n dông bão hình thành dưới điều kiện đó (gần phông ấm, phông lạnh và vùng biên khô tương ứng),
mà chúng chưa bao giờ đi đến gần việc hình thành vòi rồng. Ngay cả khi môi trường rộng lớn là cực
kỳ thuận lợi đối với hình thành dông bão có vòi rồng, không phải mọi dông bão đều sinh ra vòi
rồng. Sự thật là chúng ta vẫn chưa thực sự hiểu hết vòi rồng. Các vòi rồng phá hoại khủng khiếp
nhất xảy ra từ các supercell, chúng xoay tròn đám dông sấm sét với ảnh rada gọi là mesocyclone
(xoáy trung). [Các supercell cũng sinh ra mưa đá thiệt hại, các gió xoáy nghiêm trọng, thông thường
chớp sép và lũ quét]. Sự hình thành của vòi rồng được tin là có thể chế ngự chủ yếu bởi những điều
mà mà chúng xảy ra trong thang đo cấp bão, trong và xung quanh mesocyclone. Các lý thuyết và
kết quả gần đây từ chương trình VORTEX gợi ý rằng một khi các xoáy trung mesocyclone đang
hình thành, việc phát triển thành vòi rồng là liên quan đến sự khác nhau nhiệt độ qua cạnh của
không khí hút cuộn quanh một xoáy trung. Các nghiên cứu mô hình toán của sự hình thành vòi rồng
cũng chỉ ra rằng chúng có thể xảy ra mà không có mẫu nhiệt độ như vậy, và trong thực tế, sự biến
thiên nhiệt độ rất nhỏ được quan sát gần những vòi rồng tàn phá mạnh nhất trong lịch sử. Chi tiết
xem thêm phần phụ lục tham khảo đi kèm
Mưa đá có tạo thành vòi rồng? Mưa? Sấm chớp? Hoàn toàn yên lặng? Không nhất thiết là một
trong các nguên nhân trên. Mưa, gió, sấm chớp và mưa đá với đặc trưng thay đổi từ cơn bão này
đến cơn bão khác
Vòi rồng tồn tại trong bao lâu? Vòi rồng có thể tồn tại từ vài giây đến hơn 1 giờ. Vòi rồng sống
lâu nhất trong lịch sử thực sự chưa biết, vì nhiều vòi rồng được ghi lại từ đầu thế kỷ 19 và trước đó
được tin tưởng là chuỗi các vòi rồng. Đa số vòi rồng sống dưới 10 phút đồng hồ.
Bão được đặt tên như thế nào?

Không như ở Việt Nam nơi các cơn bão được đặt tên theo số thứ tự của nó trong năm, trên thế giới
bão thường mang tên phụ nữ, và sau này cả tên nam giới. Riêng ở tây bắc Thái Bình Dương, bão
còn mang tên hoa lá, động vật, và bão số 7 hiện nay được gọi là "con Voi".
Các cơn bão nhiệt đới được đặt tên từ đầu thế kỷ 20, tạo thuận lợi cho việc
liên lạc giữa các nhà dự báo thời tiết và công chúng trong việc theo dõi và
cảnh báo, tránh nhẫm lẫn giữa các cơn bão.
Người ta cho rằng tên của các bão lần đầu tiên xuất hiện là do một nhà dự báo thời tiết của
Australia. Ông đặt tên bão theo tên "của những chính trị gia mà ông ghét nhất, để thể hiện rằng
người đó hoặc quá keo kiệt hoặc gây khó chịu, hay thậm chí là kẻ vô công rồi nghề ở Thái Bình
Dương".
Trong Thế chiến II, các cơn bão nhiệt đới ở Thái Bình Dương được đặt tên không chính thức theo
tên của phụ nữ. Nguyên tắc bất thành văn này do đoàn dự báo thời tiết của Lục và Hải quân Mỹ đề
ra, và thường lấy tên vợ hoặc bạn gái của các nhà dự báo. Từ năm 1950 đến 1952, các cơn bão ở
bắc Đại tây dương được đặt tên theo thứ tự bảng chữ cái (Able-Baker-Charlie- ), nhưng từ năm
1953, cơ quan khí tượng Mỹ lại chuyển sang dùng hệ tên phụ nữ.
Năm 1979, Tổ chức Khí tượng Thế giới (WMO) và Cơ quan khí tượng Mỹ (NWS) lại thống nhất sử
dụng tên bão gồm cả tên nữ và nam giới.
Các cơn bão ở lòng chảo Đông bắc Thái bình dương được đặt theo tên phụ nữ từ năm 1959-1960.
Năm 1978, cả hai loại tên đều được sử dụng.
Ở vùng bắc Ấn độ dương, các bão nhiệt đới không được đặt tên. Tại tây nam Ấn độ dương, bão lần
đầu có tên vào mùa 1960-61.
Bão Damrey đánh vào
Hải Nam, Trung
Quốc.
Vùng Australia và Nam Thái bình dương, tên phụ nữ được lấy làm tên bão từ năm 1964, và 10 năm
sau thì tên của nam cũng được dùng.
Các bão ở lòng chảo tây bắc Thái bình dương được đặt tên phụ nữ từ năm 1945, và đến 1979 thì
tên của nam giới bổ sung vào.
Từ ngày 1/1/2000, bão nhiệt đới ở tây bắc Thái bình dương (khu vực mà Việt Nam nằm trong) được
đặt theo một danh sách các tên mới lạ. Những tên mới bổ sung bao gồm các tên châu Á, được lấy từ

các nước thành viên của WMO trong khu vực.
Những tên này có hai điều khác biệt so với tên bão ở các nơi trên thế giới. Thứ nhất, hầu hết chúng
không phải là tên riêng của người, mà thường là tên hoa, động vật, chim, cây cỏ hay thậm chí tên
món ăn. Thứ hai, các tên này không được đặt tuần tự theo thứ tự chữ cái, mà theo thứ tự chữ cái của
tên các nước.
Các cơn bão đang hình thành ở khu vực này sẽ được Trung tâm Bão nhiệt đới Tokyo thuộc Cơ quan
Khí tượng Nhật Bản đặt tên.
Trước bão Damrey (VN gọi là bão số 7), cơn bão Saola, lấy tên của một loài động vật quý hiếm của
Việt Nam, đã tràn vào Nhật Bản.
Mỗi trong số 14 nước và vùng lãnh thổ là thành viên WMO ở khu vực cung cấp 10 cái tên, tạo
thành dánh sách 140 tên bão.
(Nguồn: Atlantic Oceanographic and Meteorological Laboratory)
Nước/
Lãnh thổ
Tên bão
Cambodia Damrey Kong-rey Nakri Krovanh Sarika
China Longwang Yutu Fengshen Dujuan Haima
DPR
Korea
Kirogi Toraji Kalmaegi Maemi Meari
HK, China Kai-Tak Man-yi
Fung-
wong
Choi-wan Ma-on
Japan Tenbin Usagi Kanmuri Koppu Tokage
Lao PDR Bolaven Pabuk Phanfone Ketsana Nock-ten
Macau Chanchu Wutip Vongfong Parma Muifa
Malaysia Jelawat Sepat Rusa Melor Merbok
Micronesia Ewinlar Fitow Sinlaku Nepartak Nanmadol
Philippines Bilis Danas Hagupit Lupit Talas

RO Korea Gaemi Nari Changmi Sudal Noru
Thailand Prapiroon Wipha Mekkhala Nida Kulap
U.S.A. Maria Francisco Higos Omais Roke
Vietnam Saomai Lekima Bavi Conson Sonca
Cambodia Bopha Krosa Maysak Chanthu Nesat
China Wukong Haiyan Haishen Dianmu Haitang
DPR
Korea
Sonamu Podul Pongsona Mindule Nalgae
HK, China Shanshan Lingling Yanyan Tingting Banyan
Japan Yagi Kaziki Kujira Kompasu Washi
Lao PDR Xangsane Faxai
Chan-
hom
Namtheun Matsa
Macau Bebinca Vamei Linfa Malou Sanvu
Malaysia Rumbia Tapah Nangka Meranti Mawar
Micronesia Soulik Mitag Soudelor Rananin Guchol
Philippines Cimaron Hagibis Imbudo Malakas Talim
RO Korea Chebi Noguri Koni Megi Nabi
Thailand Durian Rammasun Morakot Chaba Khanun
U.S.A. Utor Chataan Etau Aere Vicete
Vietnam Trami Halong Vamco Songda Saola
T. Huyền
Cảnh báo sự trở lại của El Nino
El Nino là hiện tượng thời tiết hình thành do nước ở phía Tây Thái Bình Dương dọc theo đường
xích đạo nóng lên. El Nino xuất hiện theo chu kỳ, từ ba đến năm năm một lần, thường xuất hiện ở
Australia trước tiên và phát triển trong nhiều tháng.
Trước khi El Nino xuất hiện thường xảy ra các trận bão trái quy luật, kết hợp với tần số không khí
lạnh ít hơn và kết thúc sớm hơn mọi năm, dẫn đến mùa đông ấm hơn bình thường. Sự xuất hiện của

El Nino sẽ chi phối mạnh mẽ hình thái thời tiết khí hậu ở các khu vực trên thế giới
Những tháng gần đây, các nhà nghiên cứu môi trường, khí hậu quả đất đã lên tiếng cảnh báo về sự
trở lại của El Nino, khi những dấu hiệu của hiện tượng này mạnh lên trong hai tháng gần đây. Tại
Mỹ, ngay từ tháng 6-2006, khi thời tiết giá lạnh còn bao trùm Alaska, các nhà dự báo thời tiết nước
này đã dự báo một mùa đông ít giá lạnh hơn sẽ diễn ra ở Ðông - Nam bang Alaska do sự xuất hiện
trở lại của El Nino.
Các nhà khoa học nhận định rằng hiện tượng El Nino hình thành từ hè năm 2006 và kéo dài đến hết
mùa xuân 2007 có khả năng diễn ra ôn hòa, không mạnh như hiện tượng này đạt đỉnh cao thời kỳ
1997 - 1998, với mùa hè khô hạn hơn trong khi mùa đông và mùa xuân ở Mỹ sẽ ẩm ướt do mưa
nhiều hơn.
Hiện tượng El Nino yếu năm nay có khả năng làm giảm các trận bão ở hai bán cầu, làm giảm lượng
băng ở hai vùng cực của quả đất. Mùa bão (tháng 7 đến tháng 11) năm 2005 có 21 cơn bão hình
thành ở Ðại Tây Dương tác động nước Mỹ, trong đó có 13 cơn bão mạnh, với bốn cơn bão đạt cấp
5, cấp cao nhất trong mức báo bão của Mỹ, trong đó cơn bão Wilma là cơn bão mạnh kỷ lục và cơn
bão Katrina là cơn bão gây thiệt hại lớn nhất về người và tài sản, làm hơn 1.300 người chết và thiệt
hại về tài sản lên tới 120 tỷ USD. Năm 2006 này, số các cơn bão tác động nước Mỹ giảm mạnh so
với năm trước, có chín cơn bão hình thành ở Ðại Tây Dương tràn qua Trung Mỹ và Caribe, trong đó
năm cơn bão phát triển thành bão lớn, nhưng các cơn bão lớn đều không đổ vào bờ biển Mỹ.
Ở vùng Bắc Cực, thời tiết ấm hơn ở mức kỷ lục so với sáu năm trước đây, với ít băng hơn, nhiệt độ
tăng ở các vùng đất đóng băng vĩnh cửu, nhiều bụi cây xanh hơn xuất hiện ở vùng đất băng giá này.
Tuy nhiên các nhà nghiên cứu môi trường, khí hậu cho biết có một số khu vực ở Bắc Cực trở lại
mức độ lạnh giá từng diễn ra ở giữa thế kỷ 20. Nhưng khuynh hướng chung là nhiệt độ vùng Bắc
Cực đang nóng lên so với trước, với các biểu hiện quy mô biển băng giảm dần vào tháng 9-2005,
khối lượng băng mùa hè ở biển băng Bắc Cực ở mức thấp nhất mà vệ tinh quan sát được kể từ năm
1979. Khối lượng băng mùa đông ở biển băng cũng ở mức thấp nhất vào tháng 3-2006. Và nhiệt độ
vùng đất cái tiếp tục tăng lên. Tại biển Bắc, nhiệt độ trung bình của nước biển đo được trong tháng
10 vừa qua là 14,2oC, tăng 2,4oC so với nhiệt độ trung bình trong cả giai đoạn từ năm 1968 đến
năm 1993, và là mức cao kỷ lục.
Các chuyên gia Cục Vận tải biển và Thủy văn học LB Ðức cho biết, từ năm 1993 đến nay, nhiệt độ
nước biển Bắc tăng rõ rệt, với mức tăng trung bình hằng năm là 0,13oC. Mùa hè 2006, nhiều nước

châu Âu và một số bang của Mỹ đã phải trải qua những đợt nắng nóng khủng khiếp, gây cháy rừng
trên diện rộng, làm giảm sản lượng ngũ cốc và gây thiệt hại lớn cho nông nghiệp của các nước, mất
điện trên diện rộng ở nhiều khu vực nước Mỹ.
Trong khi đó ở châu Á, những trận bão xảy ra từ tháng 7 đến tháng 9 năm nay ở Nhật Bản, Trung
Quốc, Philippines, Việt Nam, Mông Cổ làm hơn một nghìn người chết và mất tích, thiệt hại lên tới
hàng chục tỷ USD. Tại Australia, nơi El Nino xuất hiện và bắt đầu mạnh lên từ tháng 10, Cơ quan
dự báo thời tiết nước này cho biết hầu hết các bang miền Tây, miền Ðông và Nam Australia trải qua
tháng 9-2006 nắng nóng chưa từng thấy trong nhiều thập kỷ qua, với nhiệt độ trung bình ở các
thành phố lớn, như Sydney, Melbourne và Adelaide đều tăng lên mức cao kỷ lục trong khi lượng
mưa lại thấp hơn so với cùng kỳ các năm trước. Tại Melbourne, nhiệt độ trung bình có lúc lên tới
30oC tháng 9 vừa qua so với mức trung bình là 19,7oC. Tại Sidney, nhiệt độ tăng cao tới mức đỉnh
điểm là 34oC trong khi ở A-đê-lay-đơ nhiệt độ lên tới mức cao nhất trong vòng 62 năm qua. Do El
Nino gây nóng bức khác thường, Australia đã vào hè sớm hơn thường lệ. Nước này cũng đối mặt
với nguy cơ hạn hán nghiêm trọng hơn ở các bang Queensland, Victoria, Nam Australia và
Tanzmania. Hạn hán sẽ làm cho sản lượng lúa mì vụ đông của Australia giảm 1/3, sản lượng len
giảm 6% làm giảm năng suất cây trồng cũng như sự tăng trưởng kinh tế của nước này. Tại Mỹ, giá
lúa mì tăng 51% do lo ngại hạn hán làm giảm năng suất lúa mì của Australia, nước xuất khẩu lúa mì
lớn thứ ba thế giới, sản lượng lúa mì của Australia có khả năng chỉ đạt từ 9 đến 12 triệu tấn, mức
thấp nhất trong vòng 12 năm gần đây.
Tại Indonesia, một trong các nước bị ảnh hưởng lớn bởi hiện tượng El Nino, sự trở lại của hiện
tượng thời tiết này tác động xấu đến việc ngăn chặn các đám cháy rừng ở đây. Chính phủ Indonesia
đang phải huy động nguồn lực chống lại các đám cháy rừng gây khói bụi lan sang các nước láng
giềng trong ba tháng qua. Các đám cháy rừng ở Indonesia gây khói bụi dày đặc làm ô nhiễm môi
trường các nước trong khu vực, khiến cho giao thông hàng không đình trệ, các trường học phải
đóng cửa Khoảng 1.000 con đười ươi đã chết do các đám cháy rừng trong mùa khô năm nay. Mặc
dù phần lớn các đám cháy rừng đã được kiểm soát, nhưng các nhà chức trách nước này lo ngại El
Nino sẽ hoạt động mạnh lên trong năm 2007, gây khó khăn cho việc dập tắt các đám cháy rừng ở
đây.
Tại New Zealand, Trung tâm dự báo khí tượng quốc gia dự đoán hiện tượng El Nino ôn hòa tác
động nước này, làm một số khu vực phía Bắc và phía Ðông bị khô hạn. Lượng mưa ít hơn bình

thường diễn ra ở phía Tây và Nam New Zealand. Hiện tượng El Nino sẽ làm tăng hoạt động của gió
xoáy ở một số khu vực nhiệt đới Nam Thái Bình Dương trong những tháng tới. Những khu vực sẽ
bị tác động định kỳ gồm Fiji, Tonga và phía nam đảo Cook
Các nhà khoa học cảnh báo mặc dù hiện tượng El Nino xuất hiện năm nay ở mức ôn hòa, nhưng
không loại trừ khả năng sẽ mạnh lên trong những tháng tới. Do đó, các nước cần theo dõi và có biện
pháp chủ động đối phó hiện tượng thời tiết này để tránh bị tổn thất về người và thiệt hại về kinh tế.
TT
Theo Reuters
Bão và mấy điều cần nhớ
Thông tin về bão được thông báo thế nào, cách đặt tên cho các cơn bão ra sao. Dưới đây là một số
thông tin cần biết.
Tin báo bão
Theo Quy chế báo bão, lũ do Thủ tướng Chính phủ Việt Nam ban hành ngày 25-7-1997, tin báo bão
được phân thành sáu loại:
1. Tin bão theo dõi: Khi có bão hoạt động ở phía Đông kinh tuyến 120o đông, nhưng có khả năng di
chuyển vào biển Đông trong khoảng từ 12-24 giờ tới và hướng về phía bờ biển nước ta.
2. Tin bão xa: Khi tâm bão vượt qua kinh tuyến 120o đông, vào biển Đông và cách điểm gần nhất
thuộc bờ biển đất liền nước ta trên 1.000km hoặc khi vị trí tâm bão cách điểm gần nhất thuộc bờ
biển đất liền nước ta từ 500 1.000 km và chưa có khả năng di chuyển về phía đất liền nước ta.
3. Tin bão gần: Khi vị trí tâm bão cách điểm gần nhất thuộc bờ biển đất liền nước ta từ 500-1.000
km và có hướng di chuyển về phía đất liền nước ta hoặc khi vị trí tâm bão cách điểm gần nhất thuộc
bờ biển đất liền nước ta từ 300-500km và chưa có khả năng di chuyển về phía đất liền nước ta trong
một vài ngày tới.
4. Tin bão khẩn cấp: Khi vị trí tâm bão cách điểm gần nhất thuộc bờ biển đất liền nước ta từ 300-
500km và có khả năng di chuyển về phía đất liền nước ta trong 1-2 ngày tới hoặc khi vị trí tâm bão
cách điểm gần nhất thuộc bờ biển đất liền nước ta dưới 300km.
5. Tin bão vào đất liền: Khi bão đã đổ bộ vào đất liền nước ta.
6. Tin cuối cùng về cơn bão:
Khi bão đã tan hoặc bão không còn khả năng ảnh hưởng đến nước ta.
Nội dung tin bão bao gồm: tiêu đề tóm tắt thực trạng (vị trí tâm bão, sức gió gần tâm bão, diễn biến

của bão trong 12 hoặc 24 giờ qua và trong 24 giờ tới). Riêng với tin bão khẩn cấp , ngoài các yếu tố
vừa nêu, còn phải thêm thời gian và khu vực có thể bị ảnh hưởng trực tiếp của bão, khả năng gây
gió mạnh ở một số vùng, khả năng mưa, khả năng và độ cao nước biển dâng do bão.
Tên bão
Từ năm 1950, bão hình thành tại Đại Tây Dương được đặt tên theo vần ABC, xen kẽ tên con trai
với tên con gái. Sau sáu năm, bảng tên bão được lặp lại sau khi các nhà khí tượng hiệu chỉnh chút
đỉnh. Chẳng hạn năm 2005, các cơn bão ở Đại Tây Dương lần lượt mang tên Arlene, Bret, Cindy,
De mis, Emily, Frankhn, Gert, Harvey, v.v. Bão hình thành tại Thái Bình Dương vào giai đoạn
Chiến tranh thế giới lần thứ hai được đặt tên không chính thức theo tên vợ hoặc bạn gái thân thiết
của nhà báo. Từ ngày 1-1-2000, 14 quốc gia và vùng lãnh thổ là thành viên của Tổ chức Khí tượng
thế giới (WMO) thuộc khu vực Tây Bắc Thái Bình Dương góp tên chính thức gọi bão.
Mỗi đơn vị góp 10 tên. Các tên Việt Nam là Lekima, Hoa Mai, Ba Vì, Côn Sơn, Sơn Ca, Trà Mi,
Hạ Long, Vàm Cỏ, Sông Đà, Sao La – song được viết liền và không ghi dấu thanh để tiện phổ biến
rộng khắp toàn cầu 140 tên quốc tế gọi bão ở Tây Bắc Thái Bình Dương gồm: Bão hình thành tại ở
Tây Bắc Thái Bình Dương được Trung tâm Bão nhiệt đới Tokyo thuộc Cơ quan Khí tượng Nhật
Bản đặt một trong 140 tên vừa nêu theo thứ tự: Damrey, Longwang, Kigori, Kai-tak, Tem bin,
Nolaven, Chanchu, v.v. Bên cạnh tên quốc tế, bão có thể mang tên do quốc gia đặt. Chẳng hạn cơn
bão Bebinca mới đây vẫn được người Philippines gọi là bão Neneng.
Khi cơn bão tràn vào hải phận Việt Nam, tên bão được nước ta gọi bằng số thứ tự và tính theo từng
năm. Ví dụ các cơn bão xuất hiện trong năm 2006 với tên quốc tế đính kèm: - Bão số 1: Chanchu
(từ do Ma cau đề nghị, nghĩa là trân châu)
Bão số 2: Jelawat (từ do Malaysia đề nghị, là tên một loài cá chép quý)
Bão số 3: Prapiroon (từ do Thái-lan đề nghị, nghĩa là thần mưa)
- Bão số 4: Bopha (từ do Campuchia đề nghị, là tên một loài hoa).
- Bão số 5: không có tên quốc gia
- Bão số 6: Xangsane (từ do Lào đề nghị, nghĩa là con voi)
- Bão số 7: Cimaron (từ do Philippines đề nghị, nghĩa là bò rừng).
Theo Thế giới mới
El Nino 2006 - 2007 có gì khác?
Dữ liệu truyền từ các vệ tinh nghiên cứu trái đất đã xác nhận: El Nino đã xuất hiện lại từ tháng

9/2006. Tuy nhiên, theo NASA và NOAA (Cơ quan nghiên cứu đại dương và khí hậu Mỹ), năm nay
hiện tượng này tỏ ra ôn hòa hơn năm 1997 - 1998 Tuy nhiên, do hiện tượng El Nino nên các cơ
quan Khí tượng Mỹ tới nay vẫn chưa thể đưa ra dự báo các cơn bão đổ vào nước Mỹ năm 2007.
Họ cũng đã không thể xác định là El Nino sẽ kết thúc vào thời điểm nào trong năm 2007. Song có
điều chắc chắn rằng, El Nino sẽ làm mùa đông năm nay ấm hơn so với các năm trước. Tại Mỹ, dự
báo vào tháng 1/2007, nhiệt độ trung bình sẽ cao hơn bình thường nhưng không cao bằng mức kỷ
lục vào tháng 1/2005 (mức cao nhất trong vòng 100 năm qua).

Tại các nước châu Á - Thái Bình Dương như Việt Nam, Australia, Indonesia, Philippines… sẽ có
hạn hán nhưng mức độ có khác nhau và khó dự báo trước. Nguy cơ cháy rừng tại Indonesia càng
cao hơn và dự báo cháy sẽ lớn hơn nữa trong năm 2007. Những năm qua, khi chưa có hiện tượng El
Nino, nạn cháy rừng tại Indonesia vẫn đáng sợ. Tại Australia, nạn hạn hán có thể nặng hơn và kéo
dài hơn nữa trong năm 2007 so với nạn hạn hán kỷ lục trong năm nay. Tại Philippines, ngoài khả
năng hạn hán, dự báo sẽ xuất hiện nhiều cơn bão hơn.
Theo Sài Gòn giải phóng
Vì sao xuất hiện lốc, mưa đá?
Lốc xoáy, mưa đá là những hiện tượng thời tiết quy mô nhỏ và vừa, rất nguy hiểm đối với tính
mạng con người và mùa màng. Các hiện tượng trên xảy ra khi điều kiện khí quyển bất ổn định gây
ra bởi không khí lạnh, ẩm thâm nhập vào khối không khí nóng.
Lốc xoáy và mưa đá thường xảy ra vào thời gian chuyển mùa từ mùa lạnh sang mùa nóng và ngược
lại. Ở Việt Nam, lốc xoáy và mưa đá thường xuất hiện vào thời gian từ tháng 1 - 5 và tháng 10 - 11
và có khả năng xảy ra ở hầu hết các khu vực nhưng tập trung chủ yếu ở miền bắc, Tây Nguyên.
Lốc xoáy (hay còn gọi là vòi rồng) là hiện tượng gió xoáy rất mạnh, tương tự như một cơn bão
nhưng quy mô nhỏ hơn nhiều. Thông thường bán kính của lốc xoáy chỉ từ vài trăm mét tới vài km,
có cấu tạo hút từ mặt đất lên các đám mây vũ tích, tạo thành hình cái phễu di động trông giống như
cái vòi của con voi thò xuống từ trên trời.
Trên đường di chuyển vòi rồng có thể cuốn theo lên cao rồi ném xuống ở một khoảng cách khá xa
sau đó hoặc phá huỷ mọi thứ mà nó có thể, kể cả nhà gạch xây kiên cố, xe tải, thậm chí cả đoàn tàu
và những cây cổ thụ.
Mưa đá là hiện tượng mưa dưới dạng hạt hoặc cục băng, có hình dáng kích thước khác nhau do đối

lưu cực mạnh từ các đám mây giông gây ra. Kích thước có thể từ 5 mm tới hàng chục cm, thường cỡ
một vài cm, có dạng hình cầu không cân đối. Mưa đá là hiện tượng thời tiết mà ngày nay khoa học
cũng chưa khám phá hết và dĩ nhiên là chưa thể dự báo trước được. Tuy nhiên chúng ta vẫn có thể
qua hiểu biết và tự phòng tránh được, ít nhất ra là đối với tính mạng con người: nếu thấy trời nổi cơn
giông mây đen bao phủ bầu trời gần như kín tầm mắt có dạng như bầu vú. Tiếp sau đó gió thổi mạnh
tạo ra tiếng "ù ù, ầm ầm" liên tục thì phải cảnh giác với mưa đá. Tiếp theo gió mạnh lắc rắc vài hạt
mưa rào to, nhiệt độ không khí giảm đi nhanh mà ta cảm thấy lạnh thì có nghĩa là mưa đá sắp xảy ra,
phải nhanh chóng tìm nơi trú ẩn an toàn.
Trong thời điểm giao mùa hiện nay rất hay xảy ra hiện tượng thời tiết đặc biệt, thí dụ giông, tố,
lốc, vòi ròng, mưa đá. Để phòng tránh thiệt hại, tốt nhất khi có mưa giông, bà con nên tránh những
cây to, vì có thể bị sấm sét đánh. Nên tìm nơi trú ẩn ở những mái nhà kiên cố. Nếu trú ở ngôi nhà
cấp 4, mái tôn hoặc ngói xi-măng có khi còn nguy hiểm hơn là đứng ngoài đường vì mưa đá có thể
làm thủng ngói. Trong cơn giông hay có gió giật, nó có thể giật tung mái nhà.
Ông Vũ Anh Tuấn - Phó trưởng Phòng dự báo
hạn ngắn (Trung tâm Dự báo KTTV Trung ương)
BÙI MINH TĂNG
(Giám đốc Trung tâm Dự báo
KTTV Trung ương)
Theo Nông thôn ngày nay
Mưa đá là hiện tượng thời tiết đặc biệt, khó dự báo
Theo Trung tâm dự báo Khí tượng - Thủy văn T.Ư, mưa đá là hiện tượng thời tiết đặc biệt, khó dự
báo. Ở nước ta, chỉ có thể đưa ra cảnh báo mưa đá thường xảy ra trong thời điểm giao mùa,
khoảng các tháng 4, 5, 10 và 11.
Những viên đá
nằm ngổn ngang
trên đường phố
Hạ Long sau
cơn lốc và mưa đá.
Sự xuất hiện của mưa đá liên quan sự tranh chấp giữa hai khối không khí nóng và lạnh. Năm nay,
mùa đông đến muộn, nhiệt độ bề mặt đệm lớn, lên đến 30-31oC, có ngày nóng tới 32oC, hơi nước từ

mặt đất bốc lên mạnh, hình thành những hội tụ ẩm và càng lên cao càng ngưng kết thành những tảng
đá lớn. Như vậy, trong thời điểm giao mùa nhiều hiện tượng thời tiết đặc biệt như mưa đá, lốc xoáy,
vòi rồng, dông tố sẽ xảy ra nên người dân cần hết sức cảnh giác phòng tránh. Mưa đá thường kết
thúc nhanh trong vòng 5-10 phút, lâu nhất cho cả một vệt cũng chỉ 20 - 30 phút. Trong cơn dông,
mưa đá thường kèm theo gió rất mạnh, có khi là gió lốc, sức tàn phá mạnh. Vì vậy mưa đá được xếp
vào những hiện tượng thời tiết nguy hiểm. Cũng theo trung tâm, mưa đá kèm lốc mấy ngày qua
không liên quan gì tới hiện tượng El Nino, mà chỉ là một hiện tượng lạ, ít gặp.
Bão (typhoon)
Bão (typhoon) là tên gọi chung những xoáy thuận nhiệt đới (XTNĐ) trên Tây bắc Thái Bình Dương
khi tốc độ gió cực đại (Vmax) ở gần tâm duy trì liên tục từ 64 hải lý (gió cấp 12 ở ta) trở lên (hải
lý: knot - kt, bằng 1,853 km/h). Tiếng Anh "typhoon" có nguồn gốc từ tiếng Trung (âm Hán-Việt) là
"Thai phong" là "bão".
Ở khu vực khác nhau gọi hiện tượng bão bằng thuật ngữ khác nhau, như ở Đại Tây Dương, Đông
bắc Thái Bình Dương và Đông nam Thái Bình Dương (phía đông 160
o
E) gọi bão là "hurricanes".
Uỷ ban bão Khu vực Châu Á-Thái Bình Dương chia XTNĐ ra 5 giai đoạn theo Vmax:
1) Vùng áp thấp (low pressure area): có vùng áp thấp trên bản đồ khí áp bề mặt, nhưng vị
trí trung tâm không thể xác định được
2) Áp thấp nhiệt đới (ATNĐ: tropical depression): vị trí trung tâm có thể xác định được,
nhưng Vmax < 34 kt
3) Bão tố nhiệt đới (Tropical storm - TS): Vmax 34-47 kt ("storm" gốc từ tiếng Hà Lan là
"dông tố", tiếng Trung là "cuồng phong", ở đây tạm dịch là "bão tố")
4) Bão tố nhiệt đới mạnh (severe TS): Vmax 48-63 kt
5) Bão (Typhoon): Vmax => 64 kt. Có cơn bão quá mạnh người ta gọi là "siêu bão"
(supertyphoon).
Ở ta, "Quy chế báo bão, lũ" quy định tương tự như trên cho Biển Đông, trừ vùng áp thấp, gồm:
1) ATNĐ: XTNĐ có Vmax cấp 6-7 (39-61km/h), có thể có gió giật (GG)
2) Bão thường: XTNĐ có Vmax cấp 8-9 (62-88km/h),GG
3) Bão mạnh: XTNĐ có Vmax cấp 10-11 (89-117km/h), GG

4) Bão rất mạnh: XTNĐ có Vmax cấp 12 trở lên (=> 118km/h), GG.
Bão là hiện tượng đặc biệt nguy hiểm, gây ra gió rất mạnh, có thể đánh đắm tầu thuyền, làm đổ nhà
cửa mưa rất lớn, gây lũ lụt nghiêm trọng, có khi trở thành thảm hoạ. Ở nước ta mùa bão hàng năm
vào tháng 6 - 11, nhiều nhất vào tháng 7 - 10. Theo số liệu lịch sử thì trừ tháng 2, các tháng còn lại
đều có thể có bão nhưng rất hiếm.

Dông
Dông trong Khí tượng được hiểu là hiện tượng khí tượng phức hợp gồm chớp và kèm theo sấm do
đối lưu rất mạnh trong khí quyển gây ra. Nó thường kèm theo gió mạnh, mưa rào, sấm sét dữ dội,
thậm trí cả mưa đá, vòi rồng (ở vùng vĩ độ cao có khi còn có cả tuyết rơi).
Thuật ngữ "dông" tiếng Anh là "thunderstorm", từ điển khí tượng Trung
quốc dịch là "lôi bạo" (âm Hán-Việt) nghĩa là sấm dữ dội), còn trong dân
gian ta "dông" là "trận gió to", không hoàn toàn trùng với thuật ngữ "dông"
trong khí tượng.
Người La-mã xưa thì cho rằng dông sét là những trận chiến giữa thần sấm
(Jupiter, còn thần thoại Hy lạp là thần Zuis) và thần lửa (Vulkan).
Dông được xếp vào thời tiết nguy hiểm vì hàng năm có nước sét đánh chết hàng nghìn người, gây ra
hàng trăm vụ cháy rừng, cháy nhà, làm hư hỏng nhiều thiết bị máy móc, nhất là các thiết bị điện tử.
Dông ở nước ta có thể xảy ra quanh năm, nhưng vào tháng chính đông ở khu vực Bắc bộ nước ta
dông rất ít, có năm gián đoạn đến dịp sang xuân. Dông thường sinh ra trong thời tiết nóng ẩm nên
về mùa hè ở nước ta dông xảy ra thường xuyên hơn, thường vào buổi chiều hay chiều tối và được
gọi là dông nhiệt. Đặc biệt trên các vùng núi hay sông hồ trong những tháng nóng ẩm, dông có thể
xuất hiện nhiều và bất thường, lại hay kèm theo gió mạnh nên rất nguy hiểm cho tính mạng con
người.
Vòi rồng
Vòi rồng là hiện tượng gió xoáy rất mạnh, phạm vi đường kính rất nhỏ, hút từ bề mặt đất lên đám
mây vũ tích, tạo thành hình như cái phễu di động, trông giống như cái vòi, nhưng từ trên bầu trời
thò xuống nên dân ta "tôn kính" gọi là "vòi rồng" (mà không gọi là vòi voi chẳng hạn), chứ thực tế
không có con rồng nào cả.
Trên đường di chuyển nó có thể cuốn theo (rồi ném xuống ở một khoảng cách sau

đó) hoặc phá huỷ mọi thứ mà nó có thể, kể cả những nhà gạch xây không kiên cố,
nên nó cũng là hiện tượng khí tượng đặc biệt nguy hiểm. Nhìn từ xa vòi rồng có thể
có màu đen hoặc trắng, tuỳ thuộc những thứ mà nó cuốn theo. Vòi rồng xuất hiện ở
trên đại dương thường hút nước biển lên cao tạo thành các cây nước (waterspouts).
Rất thú vị là không phải chỉ có dân ta "tôn kính" gọi nó là vòi rồng mà cả ở Trung
quốc người ta cũng gọi là vòi rồng (âm Hán-Việt là "lục long quyển"). Còn tiếng Anh
thuật ngữ đó là "Tornado" có nguồn gốc từ tiếng Tây Ban Nha hay Bồ Đào Nha, đều có nghĩa là
"quay" hay "xoáy" (gió xoáy).
Vòi rồng phát triển từ một cơn dông, thường từ ổ dông rất mạnh hay siêu mạnh, nên ở đâu có dông
dữ dội là ở đó có thể có vòi rồng, song cũng may là nó rất hiếm. Cũng có khi nó sinh ra từ một dải
gió giật mạnh (được gọi những đường tố) hay từ một cơn bão. Người ta cho rằng khi không khí ở
lớp bên trên lạnh đè lên lớp không khí nóng ở phía dưới, không khí nóng sẽ bị cưỡng bức chuyển
động lên rất mạnh, thế nhưng khí vòi rồng xảy ra trên mặt nước thì thường lại không thấy đối lưu và
cũng không thấy sự khác biệt nhiệt độ giữa các lớp. Vì vậy nguyên nhân vòi rồng con người vẫn
chưa hoàn toàn hiểu được hết.
LŨ QUÉT
Lũ lớn trên sông diễn biến chậm và thường xảy ra trên diện rộng và kéo dài thì lũ quét là một hiện
tượng thiên tai có tính chất và đặc điểm khác biệt là lũ diễn biến nhanh, mang tính bất thần và khốc
liệt, mỗi trận xảy ra trên một diện hẹp và phạm vi tác động cũng hẹp hơn lũ sông. Nếu mưa lớn,
nước mưa lại bị tích luỹ bởi các trướng ngại vật như đất đá, cây cối cho đến khi lượng nước vượt
quá sức chịu đựng của vật chắn, phá vỡ vật chắn, ào xuống cấp tập (rất nhanh), cuốn theo đất đá,
cây cối và quét đi mọi vật có thể quét theo dòng chảy thì được gọi là lũ quét (hay lũ ống), thường
diễn ra rất nhanh, khoảng 3-6 giờ.Lũ quét xảy ra bất ngờ, nhanh, có sức tàn phá lớn ở các lưu vực
nhỏ Tiếng Anh lũ là flood, lũ quét là flash flood (flash là vụt hiện rồi tắt), tiếng Trung Quốc lũ là
"hồng thuỷ", nghĩa là "nước lớn".miền núi, gây tổn thất nghiêm trọng về người, của cải và môi
trường sinh thái.
Trong một số trường hợp nó có sức tàn phá khủng khiếp và trở thành thảm hoạ tự nhiên, như trận lũ
quét năm 1998 ở thị xã Lai châu (cũ) đã xoá sổ cả bản Mường Lay và khu vực thị xã. Lũ thường
xảy ra ở vùng núi, nơi có địa hình đồi núi cao xen kẽ với thung lũng và sông suối thấp.
Cho đến nay vẫn chưa có định nghĩa thống nhất về lũ quét. Sau đây là một trong những ý kiến

chung của các chuyên gia đã nghiên cứu về vấn đề này: “Lũ quét là hiện tượng lũ bùn đá, lũ lớn
được hình thành từ mưa, xảy ra cực nhanh, có sức tàn phá rất lớn”.
Lũ quét tạm thời có thể phân chia làm 3 loại: + Lũ gây ra do mưa địa phương, tập trung lớn ở các
lưu vực tự nhiên (hầu như chưa có tác động của con người) + Lũ gây ra do mưa lớn trên các lưu vực
đã chịu tác động mạnh của các hoạt động kinh tế của con người làm mất ổn định hay phá vỡ cân
bằng sinh thái lưu vực (thay đổi lớp phủ, chế độ dòng chảy, lượng trữ hay các đặc tính lưu vực…) +
Lũ gây ra do tháo, vỡ thình lình một lượng nước tích do vỡ đập chắn hay các đập giữ nước, các đập
băng
Lũ quét thường gây hoạ cho các sông nhỏ và vừa nhưng ít đối với sông lớn. Ở các lưu vực sông
suối nhỏ miền núi, nới có điều kiện thuận lợi để hình thành lũ quét như: địa hình chia cắt, độ dốc
lưu vực và độ dốc long sông/suối lớn, độ ổn định của lớp đất trên bề mặt lưu vực yếu do quá trình
phong hóa mạnh, lớp phủ thực vật bị tàn phá… Ở những nơi này, khi xẩy ra mưa lớn, tập trung
trong một thời gian ngắn thì dễ xảy ra lũ quét. Lũ quét thường xẩy ra vào các tháng 6-9 ở miền Bắc
và Tây Nguyên, Đông Nam Bộ tháng 9-12 ở các tỉnh ven biển miền Trung.
Kết quả điều tra các lưu vực đã xẩy ra lũ quét cho thấy, lũ quét có thời kỳ xuất hiện lại khoảng 30
năm một lần. Tuy nhiên có nhiều nơi lũ quét đã xẩy ra liên tiếp do những lưu vực này môi trường bị
suy thoái mạnh mẽ. Lũ quét là vấn đề phức tạp, đa dạng và mang tính địa phương sâu sắc.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×