Tải bản đầy đủ (.pdf) (44 trang)

Hoạch định chính sách giáo dục Khoa học và Công nghệ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (256.11 KB, 44 trang )

1
LỜI NÓI ĐẦU
Nếu trong Kỷ nguyên nông nghiệp và Kỷ nguyên công nghiệp, vai trò
có tính quyết định hàng đầu thuộc về các nguồn tài nguyên thiên nhiên, lao
động cơ bắp, kỹ thuật, công nghệ và vốn, thì trong Kỷ nguyên thông tin, với
đặc trưng là nền Kinh tế tri thức, một trong những yếu tố có tính động lực đã
thuộc về nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn và kỹ năng cao.
Bước vào thế kỷ 21, các nước trên thế giới và trong khu vực đều đặt
trọng tâm vào việc phát triển nguồn nhân lực bản địa có kỹ năng cao và đề
ra các chính sách thu hút nhân tài khoa học và công nghệ (KH&CN) của thế
giới để đẩy mạnh tốc độ phát triển kinh tế quốc gia và tăng cường khả năng
cạnh tranh trong quá trình hội nhập kinh tế toàn cầu. Trong đó, vấn đề giáo
dục và đào tạo về KH&CN cho học sinh ở ngay trong các trường phổ thông
có một ý nghĩa hết sức quan trọng.
Nhận thức được vấn đề trên, tháng 7 năm 2007, Tổ chức Văn hóa, Giáo
dục và Khoa học của Liên Hiệp Quốc (UNESCO) đã đề xướng tổ chức Hội
nghị về Giáo dục KH&CN Thế giới. Hội nghị này đã đưa ra Bản tuyên bố
về giáo dục KH&CN, nhấn mạnh sự quan tâm sâu sắc về hiện trạng giáo
dục KH&CN toàn cầu. Để giúp nguời đọc hình dung được phần nào tầm
quan trọng của vấn đề này, Trung tâm Thông tin KH&CN Quốc gia giới
thiệu Tổng luận “HOẠCH ĐỊNH CHÍNH SÁCH GIÁO DỤC KH&CN”,
được các chuyên gia của UNESCO nghiên cứu và biên soạn. Trong đó, trình
bày các vấn đề có liên quan tới việc nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo
ở mọi cấp, thông qua việc đề xướng, hoạch định, tổ chức và tiến hành các
chương trình giảng dạy trên cơ sở khoa học trên thế giới và khu vực hiện
nay.
Xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc.
TRUNG TÂM THÔNG TIN
KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ QUỐC GIA
2
PHẦN I. GIỚI THIỆU


Tháng 7 năm 2007, UNESCO, Hội đồng Quốc tế các Hiệp hội giáo dục khoa học
(ICASE) và Hiệp hội nhà giáo khoa học Ôxtrâylia (ASTA) đã cùng tổ chức Hội nghị về giáo
dục KH&CN thế giới ở Tp. Perth, Ôxtrâylia, với sự tham gia của trên 1000 đại biểu từ nhiều
nước trên thế giới. Kết thúc hội nghị, Bản Tuyên bố Perth về giáo dục KH&CN đã được ban
hành. Tuyên bố nhấn mạnh sự quan tâm sâu sắc về hiện trạng giáo dục KH&CN toàn cầu.
Tuyên bố này là một phát triển quan trọng từ những nỗ lực trước đó của UNESCO (cùng
với ICSU, Hội đồng Khoa học Quốc tế) khi 2 tổ chức này kêu gọi các nhà khoa học, các
nhà hoạt động và các nhà hoạch định chính sách tập hợp lại với nhau ở Budapest năm 1999
tại Hội nghị Khoa học Thế giới để bàn về vai trò của khoa học đối với phát triển bền vững.
Tuyên bố Perth lập luận rằng hạ tầng giáo dục trong giáo dục KH&CN là điều căn bản
nếu các mục tiêu trong tuyên bố Budapest được thực hiện trong đầu thế kỷ 21 này. Tuyên
bố kêu gọi các chính phủ đáp ứng một loạt đề nghị xây dựng những điều kiện về cấu trúc để
có thể cho phép giáo dục KH&CN hoàn thành được sứ mạng của nó như là một nhân tố
then chốt trong các xã hội hiện đại ngày càng phụ thuộc vào chúng, và bị ảnh hưởng bởi
khoa học và các ứng dụng trong công nghệ của chúng. Chất lượng giáo dục KH&CN ở
trường phổ thông chưa bao giờ lại có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với các chính phủ như
hiện nay. Có 3 vấn đề tiên quyết đối với tầm quan trọng đặc biệt này.
Vấn đề thứ nhất liên quan đến vai trò truyền thống của khoa học trong nhà trường phổ
thông, cụ thể là sự nhận dạng, động cơ và sự chuẩn bị ban đầu của những học sinh sẽ tiếp
tục theo đuổi sự nghiệp nghiên cứu trong tất cả những lính vực nghề nghiệp liên quan trực
tiếp đến KH&CN. Việc cung cấp đủ những nhà chuyên môn này có ý nghĩa sống còn đối
với nền kinh tế của tất cả các nước và đối với sức khỏe của các công dân của họ. Trong thế
kỷ 21, tất cả các nước đều công nhận lực lượng này là những người đóng vai trò then chốt
trong việc đảm bảo rằng sự phát triển kinh tế và công nghiệp diễn ra theo cách bền vững về
mặt môi trường và xã hội. Hiện nay ở nhiều nước, nguồn cung này đang giảm sút nghiêm
trọng và cần được quan tâm một cách khẩn cấp.
Vấn đề tiên quyết thứ hai là sự phát triển công nghệ bền vững, và nhiều khả năng ứng dụng
xã hội khác của khoa học, đòi hỏi sự ủng hộ của các công dân được nhận thức đầy đủ về
KH&CN. Không có sự hỗ trợ và hiểu biết của các công dân, phát triển công nghệ có thể chỉ
đơn thuần phục vụ các mục tiêu ngắn hạn và các lợi ích đơn lẻ. Và nếu những tiến bộ dài hạn

hơn của xã hội nói chung bị bỏ qua, thì những công dân sẽ nhầm lẫn giữa những gì nên ủng hộ
và những gì không nên ủng hộ và đó sẽ là những phản ứng bất lợi cho sự phát triển. Trong quá
trình đó, môi trường sẽ tiếp tục bị hủy hoại thay vì cần được bảo vệ. Phát triển bền vững và một
loạt vấn đề khác liên quan đến KH&CN có thể ảnh hưởng đến các xã hội theo những cách
thường tương tác mạnh mẽ, với những cách thức và giá trị truyền thống. Do vậy, hoạch định
3
những chính sách cho chúng sẽ gồm cả những quyết định đạo đức. Mọi học sinh cần được
chuẩn bị, thông qua việc giáo dục KH&CN cho họ, để tham gia tích cực, như những người
công dân có trách nhiệm, vào các vấn đề khoa học – xã hội. Mục tiêu này nói chung còn xa vời
tại thời điểm hiện nay, nhưng định hướng này hiện đã trở nên rõ rệt hơn nhiều.
Vấn đề tiên quyết thứ ba xuất phát từ những thay đổi là kết quả từ ứng dụng các công
nghệ số đang phát triển nhanh nhất, lan rộng nhất, và có thể là ảnh hưởng lan tỏa mạnh nhất
chưa từng có trong xã hội loài người. Tất cả chúng ta, dù sống ở bất kỳ nơi nào, đều là một
bộ phận của xã hội thông tin toàn cầu. Trao đổi thông tin và tiếp cận tới chúng, trước đây
mới chỉ nằm trong một nhóm ít người, thì nay đã có thể tiếp cận tới mọi cá nhân ở mọi nơi.
Điều này dẫn tới những thay đổi to lớn trong thế giới việc làm và trong cái mà chúng ta gọi
là xã hội tri thức. Việc học ở trường phổ thông hiện đang bị thách thức trước yêu cầu phải
góp phần vào phát triển trong học sinh các năng lực hay khả năng trên cơ sở kiến thức tổng
hợp hay theo chuyên ngành. Giáo dục KH&CN cần phải là bộ phận then chốt trong việc
phát triển khả năng trong học sinh cho thế giới việc làm và để sống một cách toàn diện hơn.
Khi gộp tất cả những vấn đề tiên quyết trên với nhau, khả năng cho giáo dục KH&CN
hiệu quả hơn sẽ có thể làm cho các công dân hài lòng, do vậy yêu cầu đối với các quyết
định chính sách trở nên vô cùng cấp bách.
Sự cấp bách này tuy ở mỗi nước một khác, nhưng nó cần có ở tất cả các nước, không
phụ thuộc vào tình trạng phát triển của họ ra sao. Ngày nay đang có một thực tế rõ ràng là ở
nhiều nước phát triển hơn lại có sự suy giảm sự quan tâm trong học sinh liên quan đế cả các
sự nghiệp dựa trên khoa học và coi khoa học là mối quan tâm suốt đời. Điều thứ nhất đe dọa
nền kinh tế và sức khỏe của xã hội. Còn điều thứ hai có nghĩa là những triển vọng không
sáng sủa cho sự thành đạt của các cá nhân, và cho nâng cao nhận thức mà cộng đồng cần
có, một xã hội dân chủ sẽ cố gắng tìm ra các giải pháp để đưa các vấn đề cá nhân, xã hội và

toàn cầu tham gia vào KH&CN.
Các nước, với các thể chế xã hội có thể được mô tả là “đang chuyển đổi”, cũng đối mặt
với những vấn đề tương tự, nhưng phạm vi thậm chí lớn hơn những nước đang cố gắng làm
cho giáo dục KH&CN có thể tiếp cận dễ hơn khi có đủ các giáo viên có chuyên môn.
Nếu các nhà giáo dục khoa học, giống như những người tại Hội nghị Thế giới, là những
người ủng hộ cho những thay đổi chính sách đối với lĩnh vực quan tâm của họ, tầm quan
trọng của việc này là họ bắt đầu bằng cách tiếp thu một số bài học quan trọng từ quá khứ về
cải cách giáo dục KH&CN. Vào những thập kỷ 1960/70, nhiều nước đã bỏ ra một khoản
tiền lớn cùng với những nỗ lực của con người để cải cách chương trình giảng dạy khoa học
ở trường phổ thông, sau khi chúng không được quan tâm trong nhiều năm do suy thoái kinh
tế và Đại chiến thế giới II. Những khoản tài chính lớn được dùng để phát triển các tài liệu
hỗ trợ giảng dạy (sách giáo khoa, sổ tay thực hành, các hướng dẫn cho giáo viên, v.v..) phục
4
vụ cho các phương pháp giảng dạy khoa học mới. Trong những năm sau đó, ảnh hưởng của
những đầu tư lớn này được giám sát theo các cách khác nhau. Xét tổng thể thì việc tiếp
nhận những khả năng mới này tại các nước đó đã phần nào gây thất vọng. Thực tế, những
tài liệu này, với những mức độ thích nghi khác nhau, đã được tiếp nhận một cách đại trà ở
một số nước khác. Những dự án này có tính chất khoa học đáng kể nhờ có sự tham gia của
các nhà khoa học, nhưng không có được sự cam kết của các nhà hoạch định chính sách để
thực thi việc triển khai các dự án này, vì vậy nó vẫn chỉ mang tính tình nguyện. Những giáo
viên khoa học nhiệt tình ở những nhà trường đổi mới đã khai thác được những lợi thế của
chúng, nhưng phần lớn không có ảnh hưởng gì cả đến các trường học.
Một cách để giải thích cho sự tác động bị hạn chế là những phát triển này xảy ra dường
như khoa học trong trường học diễn ra trong khoảng trống chính trị vậy. Sự ngây thơ này đã
không nhận biết được rằng chương trình giảng dạy khoa học trong trường phổ thông là một
vấn đề có tính cạnh tranh rất cao.
Những người có trách nhiệm có thể lĩnh hội hoàn toàn khác nhau những điểm hay và dở
của chương trình giảng dạy hiện tại, và đề xuất một chương trình mới, tán dương chương
trình của họ khi họ đạt tới những cấp bậc có tác động được đến chính sách. Một vấn đề nữa
tách rời việc phát triển chương trình với chính sách là các đổi mới để thay đổi giáo dục khoa

học thường diễn ra khi chương trình phổ thông phải đối mặt với những vấn đề và yêu cầu
cấp thiết hoàn toàn khác. Một Nghiên cứu Giáo dục khoa học (do Stake và Easley thực hiện
năm 1978) cho thấy các tài liệu đổi mới của Mỹ đã phải đấu tranh ra sao để được công nhận
ở các cấp trường phổ thông và các trường học khu vực, do có những ưu tiên khác nhau. Ở
cấp từng lớp học đơn lẻ, những yếu tố hoàn hoàn không lường trước cũng sẽ gây ra sự
chênh lệch giữa những gì mong muốn với những gì diễn ra trong thực tế.
Trong những năm sau đó, sai lầm trong việc đặt mức nhiệt tình lên hàng đầu để giảng
dạy khoa học thường xuyên lặp lại, mà không có sự phối hợp với những nhà hoạch định
chính sách ở các cấp thực thi và triển khai quyết định. Tuy nhiên, trong một số trường hợp
cũng có nhiều ví dụ tốt về sự hợp tác giữa các nhà hoạch định chính sách và những nhà đổi
mới giáo dục khoa học đã nâng cao được giảng dạy khoa học trong phổ thông.
Khi tầm quan trọng của việc trao đổi với các nhà hoạch định chính sách từng bước được
công nhận, các nhà giáo dục khoa học cần phải có các nền tảng tốt để tạo ra trong suy nghĩ của
những con người này rằng cần phải có sự thay đổi trong các thực tế giảng dạy KH&CN. Nhu
cầu thay đổi này cần được điều chỉnh bằng việc đưa ra các bằng chứng, mà các chính sách hiện
nay và sự triển khai của nó trong thực tế không đáp ứng được những mối quan tâm rộng rãi
hiện nay về giảng dạy khoa học trong trường phổ thông. Cuối cùng, các nhà giáo dục khoa học
cần phải tạo ra một số bằng chứng mà những thay đổi đang được ủng hộ sẽ thu hút được những
sự quan tâm đối với giáo dục KH&CN. Nói chung không dế dàng đưa ra bằng chứng cụ thể về
5
những thực tế chưa được phổ biến rộng rãi, vì vậy những bằng chứng này phải được rút ra từ
những trường hợp mang tính biểu thị chứ không phải tuyệt đối.
Những nhà nghiên cứu giáo dục khoa học thường có xu hướng coi Chính sách, Thực
hành và Đánh giá là các lĩnh vực nghiên cứu riêng rẽ. Mặc dù ở cuối mỗi báo cáo thường
ám chỉ nó sẽ được nghiên cứu thêm. Những ảnh hưởng đối với thực hành đôi khi cũng được
đem ra thảo luận, nhưng những nghiên cứu về giảng dạy khoa học ít khi được đề cập đến.
Tuy nhiên cũng có một số ngoại lệ đáng lưu ý liên quan đến tiến bộ thực sự trong cấu trúc
chương trình giảng dạy và giáo trình sư phạm. Nghiên cứu có thể đóng góp tốt hơn nhiều
khi cả 3 lĩnh vực này được triển khai cùng nhau một cách hài hòa, và các cơ quan quản lý
giáo dục cần khuyến khích cho sự kết hợp này diễn ra thường xuyên hơn.

Do những nghiên cứu của họ về thực hành trong giảng dạy khoa học quá chi tiết và mất
nhiều thời gian, các nhà nghiên cứu có thói quen xấu là cho rằng những kết quả nghiên cứu
của họ sẽ có ứng dụng rộng hơn mức bảo đảm. Tác động xấu của suy nghĩ này là họ lưỡng
lự đề xuất những chính sách hay bình luận mới về những đổi mới trong thực hành giảng
dạy, bởi chúng không được nghiên cứu trực tiếp và đầy đủ.
Hiện nay, nhiều nước đã tham gia vào 2 nghiên cứu so sánh lớn về thành tích của học
sinh trong khoa học. Cả IEA và OECD đều nói rằng các dự án của họ được xây dựng để hỗ
trợ cho các nước tham gia có các quan tâm chính sách của mình. Cả 2 dự án đều thu thập
những dữ liệu trên quy mô lớn với các cấu trúc nội dung gồm các đặc trưng của trường,
giáo viên, lớp học khoa học, nền tảng gia đình học sinh, giới, sự quan tâm đến giáo dục
khoa học v.v... Theo cách này, các tổ chức trên hy vọng rằng các nước tham gia tìm thấy
trong các nghiên cứu này những chính sách bổ ích mà các nhà hoạch định muốn có.
6
PHẦN II. NHỮNG VẤN ĐỀ TRONG HOẠCH ĐỊNH CHÍNH SÁCH
GIÁO DỤC KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TRONG PHỔ
THÔNG
1. Vấn đề thứ nhất (A): Khoa học trong trường phổ thông và các mục đích giáo
dục của nó
Thông tin cơ sở
Khoa học với tư cách là một bộ phận cấu thành của giáo dục phổ thông bắt buộc, nên rõ
ràng không cần phải nói nhiều đến các mục đích của nó. Hơn nữa, chúng ta sống trong các
xã hội ngày càng chịu ảnh hưởng nhiều hơn của khoa học và các ứng dụng công nghệ của
chúng. Do vậy, các chương trình giáo dục phổ thông mà không cảnh báo cho các học sinh
của mình về sức mạnh và những hạn chế của KH&CN thì thực sự rất đáng phê phán. Tuyên
bố Perth được bắt đầu bằng sự khẳng định tầm quan trọng của KH&CN đối với sự phát
triển toàn cầu, bền vững và có trách nhiệm. Tuyên bố này xem giáo dục KH&CN như các
phương tiện căn bản để xóa bỏ khoảng cách giữa những vai trò của KH&CN với sự hiểu
biết và tham gia tích cực của công chúng trong KH&CN.
Liên quan đến sự hiện diện của khoa học trong trường học, điều quan trọng là biết được
khoa học đã được đưa vào các trường học như thế nào. Mục đích ban đầu của nó không

phải là những lý do như đã đề cập ở trên, mà là để đơn giản hóa sự chuyển dịch từ phổ
thông trung học lên trang bị kiến thức KH&CN trong trường đại học dựa trên các nghiên
cứu dành cho nhóm nhỏ những sinh viên ưu tú trong tương lai sẽ trở thành các nhà khoa
học, kỹ sư và bác sĩ thực hành.. Nội dung khoa học và các kinh nghiệm sư phạm hữu ích để
giảng dạy phục vụ cho mục tiêu quan trọng nhưng hạn chế này chưa nhất thiết phải là các
phương tiện giáo dục lý tưởng khi các mục tiêu giáo dục khác cho KH&CN cũng được ưu
tiên.
Do trong vòng 100 năm qua, khoa học chậm được đưa vào các chương trình giáo dục phổ
thông bậc tiểu học, nên mục đích ban đầu là nhằm duy trì yếu tố quyết định của nội dung và
các phương tiện của việc dạy và học. Vào những năm 1990, ở nhiều nước, KH&CN đã được
nhận thấy là cần có vị trí xứng đáng trong chương trình phổ thông từ lớp đầu tiên đến lớp cuối
cùng. Để điều chỉnh bổ sung KH&CN vào chương trình giảng dạy, nội dung học được liệt kê
theo các tuyến dọc, trải dài cho tất cả các năm học phổ thông, vẫn mang tinh thần khái niệm
mạnh mẽ đặc trưng cho sự chuẩn bị kiến thức khoa học của nhóm học sinh xuất sắc khi
chúng thuần túy là sự quan tâm và mục đích của khoa học trong trường phổ thông. Khoa học,
ở khía cạnh hàn lâm trong ý nghĩa của nó, dường như có khả năng phục vụ cho việc tạo ra các
loại hàng hóa hay mục đích khác nhau mà tất cả học sinh hiện đại cần có được khi học
KH&CN. Những mạch nội dung này chắc chắn cho ta cảm nhận rằng thứ tự học đã diễn ra và
7
đối với nhiều giáo viên dạy KH&CN ở phổ thông trung học, các nhánh này cũng giống như
những nghiên cứu chuyên môn của từng người. Mặt khác, chúng cũng là thách thức lớn đối
với nhiều giáo viên tiểu học có cơ sở kiến thức khoa học ít hơn nhiều.
Đối với nhiều sinh viên bằng chứng là những mạch nội dung dài này giống như những
nấc thang có độ khó tăng dần, không phân biệt mức độ quan tâm hay sự liên quan. Bằng
chứng ở nhiều nước cho thấy rằng hiện có ít học sinh hơn trước đây kiên trì trèo lên các nấc
thang khoa học này với lòng say mê nhiệt thành. Đạt được sự cân bằng đúng đắn giữa
những mục đích của các sinh viên có đủ say mê để theo đuổi các sự nghiệp KH&CN và
mang lại cho tất cả sinh viên sự quan tâm đối với hoa học và công nghệ, và lượng tri thức
KH&CN đủ để đánh giá được tầm quan trọng của KH&CN trong xã hội, có lẽ là vấn đề
giáo dục KH&CN chính mà tất cả các nước hiện đang phải đối mặt. Đó là sự cân bằng giữa

2 điểm liên quan trong giáo dục KH&CN. Thứ nhất bản thân thế giới của Khoa học là một
doanh nghiệp chuyên gia. Thứ hai là vô số khía cạnh của đời sống và suy nghĩ hiện đại
trong đó KH&CN đóng vai trò hay có thể có vai trò là nhân tố quyết định hay nhân tố kiểm
soát. Mỗi nước sẽ giải quyết sự cân bằng này theo một cách khác nhau phụ thuộc vào các tỷ
lệ duy trì sinh viên, các nguồn lực có được và các nhu cầu xã hội của mình, nhưng giải pháp
của nó là đặc biệt quan trọng đối với các nước ở tất cả các giai đoạn phát triển.
Từ năm 1980, Douglas Robert (Canada) đã đưa ra một cách tiếp cận mới cho vấn đề này
khi ông tập trung vào ý tưởng cho rằng có nhiều mục đích giáo dục đa dạng mà khoa học
trong phổ thông có thể tham gia một cách hữu ích. Ông lập luận rằng các mục đích khác nhau
sẽ đáp ứng một cách tốt nhất theo nội dung học đặc biệt, gắn liền với các kinh nghiệm giảng
dạy, học tập và đánh giá phù hợp. Robert cho rằng cả giáo viên và học sinh sẽ bị nhầm lẫn về
khoa học, nếu có quá nhiều mục đích được thử nghiệm trong cùng một thời điểm. Do vậy,
ông đã gợi ý một ý tưởng mới cho rằng các mục đích khác nhau có thể được tập trung ở các
giai đoạn phổ thông khác nhau - một sơ đồ chương trình theo các năm học phổ thông theo
chiều ngang chứ không theo chiều dọc đã được đa số tán thành trong những năm của thập kỷ
1990. Kết quả theo gợi ý của ông là các nhóm học sinh nhất định, đặc biệt là trong những
năm cuối của bậc phổ thông, khi mà những toan tính về tương lai và những mối quan tâm
phân tán, có thể được đáp ứng tốt hơn bằng các khóa học khác nhau về KH&CN.
Sự sáng suốt trong những đánh giá của Robert trở nên rõ ràng khi danh sách các mục
đích cho chương trình giảng dạy khoa học phổ thông được kiểm tra. Trong đó, mục đích
thường gặp nhất là trang bị cho những người trẻ tuổi có thể tham gia vào các vấn đề kinh tế-
xã hội lớn hiện nay (sự nóng lên toàn cầu, sinh sản vô tính, sử dụng tế bào phôi gốc, phân
hủy chất thải độc hại, v.v.) tạo ra cảm giác tốt trong những năm học bắt buộc sau này của
giáo dục phổ thông trung học. Mục đích này không cần rõ rệt lắm trong những năm đầu phổ
thông so với những mục đích cảm nhận khoa học là những phương tiện kích thích sự tò mò
và ngưỡng mộ vẻ đẹp, sự kỳ diệu và sự tò mò về thế giới tự nhiên - những mục đích quan
8
trọng và vô hình hơn sẽ tạo ra nền móng cho những học sinh nhỏ tuổi để là cơ sở cho những
năm học sau này. Khuyến khích việc đặt ra các câu hỏi về các hiện tượng tự nhiên theo
cách này trở thành cơ sở dựa vào đó để học những vấn đề nào là cơ thể tìm hiểu bằng khoa

học và việc tìm hiểu này bao gồm những gì.
Khuyến nghị
A.1. Với vị trí ưu tiên hàng đầu, các nhà hoạch định chính sách cần cân nhắc đâu là
những mục đích giáo dục mà giáo dục KH&CN có thể mang lại chi học sinh một cách tốt
nhất khi họ chuyển qua các giai đoạn học tập.
Khi các mục tiêu cụ thể này được nhận diện và xác định, những người xây dựng chương
trình cần phải hợp tác làm việc với các giáo viên để chọn ra các nội dung, và các phương
pháp giảng dạy và học tập, và các hình thức đánh giá phù hợp nhất để có thể đạt được mục
tiêu ở mỗi giai đoạn học tập.
Ở một số giai đoạn trong các năm phổ thông trung học, các nghiên cứu chuẩn bị quan
trọng về KH&CN cho tiếp tục học ở bậc đại học cần có như một học phần lựa chọn cùng
với các khóa để đáp ứng được mục đích kiến thức KH&CN mà mọi học sinh cần có khi kết
thúc bậc phổ thông.
Kỳ vọng
Quan điểm về những sự quan tâm của việc học và học sinh theo chiều ngang tạo ra một
cảm giác cụ thể nhất định cho các giáo viên ở những năm học đầu của bậc phổ thông, và có
triển vọng tăng cường mối quan tâm đến khoa học cho các học sinh.
Việc học KH&CN không nên liên tục gắn liền với một mục đích đơn nhất, và do vậy học
sinh có thể cảm thấy sự nhiệt tình mới thông qua các mục đích khác của nó.
Những yêu cầu
Các giáo viên khoa học phổ thông trung học cần được giúp đỡ trong việc thay đổi khái
niệm để cấu trúc lại chương trình giảng dạy khoa học, với sự thay đổi nội dung từ khoa học
hàn lâm chuyển sang khoa học trong ứng dụng vào thế giới thực của học sinh, nhưng bù lại,
họ sẽ nhận được sự tán thưởng của học sinh. Những tài liệu hỗ trợ cũng cần được phát triển
để dạy học theo những phương hướng mới này. Sự đánh giá dựa vào bối cảnh để củng cố
sự chú ý mới cũng phải được nghiên cứu phát triển cùng với các kỹ năng của giáo viên sử
dụng chúng một cách chính thức trong công việc giảng dạy của họ.
9
2. Vấn đề thứ hai (B): Sự tiếp cận và công bằng trong giáo dục khoa học
Thông tin cơ sở

Hiểu rõ các mục đích của giáo dục KH&CN có thể là bước khởi đầu để giải quyết các
thách thức trong tuyên bố Perth và đồng thời là bước thứ hai nhằm đảm bảo chương trình
giảng dạy mang tính “mở” đối với tất cả học sinh trong việc được học về KH&CN và đảm
bảo tính công bằng.
Ở nhiều nước, vẫn còn có những hạn chế, ngăn cản nhiều sinh viên được hưởng nền giáo
dục về khoa học có chất lượng. Trong một số trường hợp, đó là một phần của vấn đề chung
về khả năng được hưởng sự giáo dục và tính công bằng trong giáo dục, nhưng trong các
trường hợp khác vấn đề này lại liên quan đến sự không bình đẳng trong tiếp cận giáo dục
đối với một số nhóm người cụ thể hoặc các vấn đề công bằng nhạy cảm khác. Tại một số
nước, nơi mà giáo dục tiểu học ở mức phổ cập cho tất cả mọi người thì các nhà hoạch định
chính sách phải hướng sự chú ý đến các nguồn lực và hỗ trợ cho các giáo viên sơ cấp này để
họ có thể đưa KH&CN cơ bản vào chương trình giảng dạy tiểu học. Có nhiều quan điểm và
thực tiễn KH&CN có lợi mà các học sinh trẻ tuổi có thể truyền đạt lại cho gia đình và là
hành trang cuộc sống cho họ. Một ví dụ cho thấy giáo viên chú trọng được hỗ trợ có thể giải
quyết những hạn chế quan trọng về cơ sở vật chất trong giảng dạy khoa học được tìm thấy
trong cuốn sách ‘Một chiếc bút chì cũng chia sẻ’ do một số giáo viên tiểu học ở nông thôn
của Nam Phi biên soạn. Tại một số nước, các điều kiện và truyền thống xã hội lại thường
tác động theo hướng không tạo điều kiện cho các trẻ gái được hưởng cấp giáo dục quan
trọng này. Các nhà hoạch định chính sách cần hỗ trợ cho các gia đình nhằm giúp các trẻ gái
được tham gia đầy đủ vào chương trình giáo dục tiểu học.
Diễn đàn Khoa học Toàn cầu của OECD chỉ ra rằng số trẻ em gái được học trung học đã
tăng lên nhưng không phải trong các lĩnh vực KH&CN. Dữ liệu từ dự án ROSE cho thấy có
sự khác biệt về những mối quan tâm giữa các trẻ gái và trai trong giáo dục khoa học ở cả
các nước phát triển và đang phát triển. Trong cả hai trường hợp, nội dung chương trình
giảng dạy và tính sư phạm vẫn còn nghiêng về những mối quan tâm của trẻ trai, vì vậy hoàn
toàn hạn chế đối với trẻ gái. Tại các nước giàu có hơn, sau 20 năm thực hiện Cuộc vận động
Trẻ em gái và KH&CN (GASAT), trong nhiều mặt, tính công bằng vẫn là một vấn đề liên
quan đến giáo dục KH&CN. Sau những năm theo học bắt buộc, sự lựa chọn trong chương
trình giảng dạy vẫn còn hạn chế trẻ gái tiếp tục thực hiện các nghiên cứu khoa học, ví dụ
thời gian dành cho nghiên cứu ngôn ngữ nước ngoài và khoa học nhân văn có thể cản trở

việc tiếp tục nghiên cứu khoa học tự nhiên và do vậy những lựa chọn của trẻ gái đối với
giáo dục và nghề nghiệp bị hạn chế nghiêm trọng.
Giáo dục KH&CN với những mong đợi truyền thống về nội dung và phương pháp sư
phạm lại thường bỏ qua những khác biệt về văn hoá của một số nhóm dân tộc thiểu số trong
10
giáo dục ở trường học. Khác biệt về sử dụng ngôn ngữ của các nhóm này so với các nhóm
khác có ảnh hưởng nhiều hơn có thể dẫn đến việc ngôn ngữ khoa học ở trường học lại là
nguồn gốc của sự bất lợi. Cần phải chú ý đến những nét đặc thù của các cách mô tả và diễn
đạt trong khoa học nhằm hỗ trợ cho sự tiếp cận với giáo dục của các sinh viên thuộc các
nhóm này.
Nói chung, các chính sách của chính phủ thường làm cho bất lợi trong giáo dục trở nên
tồi tệ hơn về mặt địa lý hoặc do khuyến khích các trường học tư. Rất nhiều lớp học về
KH&CN thường do các giáo viên không có đủ kiến thức cơ bản về các lĩnh vực đó giảng
dạy. Thiếu kỹ năng, tri thức khoa học và sự tin cậy vào đội ngũ giáo viên này đã khiến số
sinh viên đáng được hưởng sự giáo dục về KH&CN giảm đi. Thay vì tập trung vào các
nguồn lực dành cho phát triển nghề nghiệp nhằm khắc phục về mặt lâu dài những hạn chế
của giáo viên, các nguồn lực này thường được đầu tư vào các chương trình ngắn hạn, mang
lại lợi ích lớn hơn cho các giáo viên KH&CN và các trường mà các chương trình này tập
trung vào. Tính công bằng không được giải quyết và vì vậy hệ thống giáo dục càng làm tồi
tệ hơn sự thuận lợi mà các sinh viên từ có điều kiện sinh tế xã hội tốt hơn mang lại.
Sự không hòa hợp về văn hóa
Các khác biệt về văn hóa là một trường hợp khác khi có các rào cản về sự tiếp cận và
tính công bằng trong giáo dục. Hiện nay, có một cơ quan chuyên nghiên cứu về các vấn đề
đi kèm liên quan đến sự tham gia của các sinh viên bản địa vào giáo dục KH&CN. Đáng
chú ý là ở một số nước châu Phi và các nước khác như New Zealand, Canađa, Hoa Kỳ,
Ôxtrâylia và NaUy, các sinh viên bản địa ít thành công hơn so với các sinh viên từ các nền
tảng xã hội có ưu thế hơn. Đáng tiếc là gia đình truyền thống của các sinh viên bản địa này
lại là kho tri thức lớn về thế giới tự nhiên qua những quan sát và thử nghiệm qua nhiều thế
hệ. Tri thức này và các giá trị kèm theo nó thường được thể hiện theo những cách rất khác
với việc sử dụng chúng trong khoa học hiện đại. Tri thức còn thu được theo các cách rất

khác với bối cảnh giảng dạy ở trường. Theo đó, giảng dạy khoa học hiện đại- nguồn tri
thức duy nhất về thế giới tự nhiên lại có thể mâu thuẫn với tri thức và các giá trị vốn có ý
nghĩa rất quan trọng đối với các nhóm văn hóa bản địa. Khi sự khác biệt này khi không
được hiểu đúng thì nó sẽ là rào cản thực sự đối với các sinh viên bản địa.
Khuyến nghị
B1. Các nhà hoạch định chính sách phải cân nhắc trong phạm vi tài trợ có thể, làm thế
nào để làm tăng số sinh viên đã được giáo dục về KH&CN trở thành các giáo viên khoa học
có năng lực.
Thời gian học tập có chất lượng về khoa học cho dù ít nhưng vẫn tốt hơn so với những
thiệt hại do giáo viên về khoa học thiếu trang bị kiến thức gây ra. Nhằm đạt được mục tiêu
về tiếp cận và công bằng trong giáo dục KH&CN , cần ưu tiên phát triển nghề nghiệp nhằm
11
tăng hàm lượng tri thức và tăng sự tin tưởng vào đội ngũ giáo viên KH&CN còn non trẻ
này..
Hiệp hội Giáo viên Khoa học gồm những người đại diện cho các giáo viên KH&CN
hiểu biết sâu sắc và có kinh nghiệm về các vấn đề hiện nay về tiếp cận giáo dục KH&CN.
Hiệp hội này sẽ có trách nhiệm thực sự, nhằm đảm bảo các thành viên được trang bị kiến
thức phải loại bỏ những trở ngại tiềm ẩn trong quá trình giảng dạy có thể hạn chế cơ hội tiếp
cận với giáo dục và có thể loại trừ một số nhóm sinh viên.
Kỳ vọng
Cần có những tiến bộ thực sự nhằm hướng tới giáo dục KH&CN có chất lượng về mọi
mặt. Cho đến nay, khả năng của sinh viên trong việc xây dựng KH&CN quốc gia cần được
nhận thức đầy đủ. Số sinh viên được tiếp cận với giảng dạy và học tập có chất lượng về
khoa học đã tăng lên. Giáo viên có năng lực và tự tin thực hiện giáo dục có chất lượng về
KH&CN cũng nhiều hơn.
Các yêu cầu
Một cam kết quan trọng về chất lượng của việc học tập về KH&CN là tiêu chí đầu tiên
trong quá trình phân bổ nguồn lực và các chương trình nhằm vào mở rộng giáo dục. Sự
chấp nhập của Hiệp hội Giáo viên Khoa học về vai trò của tổ chức này trong cải thiện khả
năng tiếp cận đối với sinh viên đối với giáo dục KH&CN.

B.2 Các nhà hoạch định chính sách phải xem xét lại sự tham gia của trẻ gái và trai vào
giáo dục KH&CN; theo đuổi thực hiện các hành động làm giảm bớt các nhân tố rõ ràng và
ngầm ngầm gây bất lợi cho sự tiếp cận của những trẻ em gái đối với các lĩnh vực KH&CN
như sự quan tâm và nghề nghiệp liên quan đến KH&CN .
Kỳ vọng
“Một nửa bị lãng quên” trong lĩnh vực KH&CN gồm trẻ em gái và phụ nữ lần đầu tiên
được ghi nhận vào những năm 1980. Mặc dù đã đạt được những tiến bộ nhưng vẫn còn có
những cơ hội thực sự khác ở hầu hết các nước nhằm đưa một nửa nhân loại vào các lĩnh
vực lớn cần nhiều nỗ lực của con người. Giáo dục KH&CN khuyến khích và thu hút cả trẻ
gái và trai, mang lại những lợi ích to lớn cho bất kỳ một quốc gia nào.
Các yêu cầu
Cần có một nghiên cứu về những tình trạng rõ ràng và không rõ ràng, trong đó thể hiện
sự phân biệt đối xử đối với trẻ em gái trong việc tiếp cận với giáo dục KH&CN. Cần có
những thay đổi về điều kiện cơ cấu nhằm tăng sự công bằng về giới, cần tiếp tục phát triển
ngành nghề để tạo ra các nhà xây dựng chương trình giảng dạy và giáo viên biết được cách
làm thế nào để xóa đi sự mất công bằng về giới.
12
B.3. Các nhà ra chính sách cần cân nhắc các giải pháp giải quyết những bất lợi về văn
hóa mà một số nhóm sinh viên sẽ phải trải qua trong giáo dục KH&CN. Ví dụ, khoa học
hiện đại có thể được giảng dạy là một công cụ tri thức chung, có tác động mạnh đến sự hiểu
biết và vận hành thế giới tự nhiên, nhưng đó cũng là nguồn quan trọng và là các cách thức
thể hiện sự hiểu biết về thiên nhiên đã được thừa nhận và đánh giá.
Kỳ vọng
Sự công nhận về văn hóa có thể giúp các sinh viên bản địa tham gia vào khoa học hiện
đại mà không cảm thấy bị bỏ rơi bởi đặc điểm văn hóa của họ.
Các yêu cầu
Nhiều giáo viên về khoa học sẽ cần phải nâng cao chuyên môn nhằm hiểu và tôn trọng
tri thức bản địa. Các chiến lược trong dạy và học của giáo viên cũng cần mở rộng hơn để
đánh giá một cách lạc quan lợi ích đối với các sinh viên bản địa.
13

3. Vấn đề thứ ba (C): Sự quan tâm về khoa học
Thông tin cơ sở
Kể từ 2000, liên tục có nhiều nghiên cứu cho thấy rõ ràng có cuộc khủng hoảng đáng báo
động liên quan đến sự quan tâm của học sinh đối với khoa học, hay nghề nghiệp trong
tương lai, hoặc mối quan tâm thực chất có tiếp tục sau khi ra trường. Gần đây, danh sách
các nước quan tâm đến vấn đề này đã nhiều hơn, nhất là các nước phát triển. Việc thiếu
quan tâm đến vấn đề học khoa học do nhiều nguyên nhân, trong đó có cả các nguyên nhân
xã hội sau khi ra trường. Ví dụ, không chỉ không biết gì về các triển vọng nghề nghiệp trong
lĩnh vực KH&CN, mà nhiều phụ huynh còn cảm thấy xa lạ trước các lĩnh vực nghề nghiệp
KH&CN. Đây là những hình ảnh mang ý nghĩa tiêu cực và cả tích cực ảnh hưởng đến thúc
đẩy khoa học nhờ vào truyền thông đại chúng. Có những bằng chứng cho thấy ngay trong
thời gian học về các môn khoa học trong nhà trường, các học sinh cũng phải trải qua tình
trạng bất ổn (qua các dự án quốc tế như ROSE, TIMSS, PISA; và một số nghiên cứu quốc
gia khác). Các nhà hoạch định chính sách giáo dục phải ngay lập tức giải quyết vấn đề ít
tuyển dụng đối với nhiều sinh viên được đào tạo về KH&CN. Đây là một vấn đề lớn mà các
nhà giáo dục về khoa học có những hy vọng về giải pháp.
Các nghiên cứu quốc tế cho thấy có sự thiếu sự liên quan gây khó hiểu giữa thành tích của
học sinh trong lĩnh vực khoa học và sự quan tâm của họ đối với lĩnh vực này. Một nghiên cứu
quốc gia quy mô lớn cho thấy học sinh từ lớp 6 đến 9 ngày càng ít quan tâm đến hầu hết các
môn học, riêng lĩnh vực khoa học và toán học còn bị cho là thiếu giá trị thực chất.
Dưới đây là những đặc điểm chung của học sinh trong các lớp học về khoa học, sự quan
tâm đến khoa học chỉ ở mức thấp, các học sinh ở độ tuổi 15 so sánh khoa học với các lĩnh
vực khác:
- Giảng dạy khoa học phần lớn mang tính chất truyền thụ
Với một học sinh, học về khoa học chỉ đơn giản là một vấn đề giống như một miếng bọt
xốp và thấm dần kiến thức được truyền tải từ giáo viên hoặc từ một quyển sách. Tri thức
khoa học là giáo điều và chuẩn xác. Không có sự chuyển đổi sắc thái nào trong khoa học.
- Nội dung của khoa học giảng dạy trong nhà trường mang tính trừu tượng khiến khoa
học không được quan tâm.
Quá nhiều vấn đề được giảng dạy trong lĩnh vực khoa học không hề được quan tâm bởi

nó không liên quan đến cuộc sống hàng ngày. Khoa học qua các bộ phim và truyền thông
đại chúng thường thu hút hơn, nhưng đó không phải là khía cạnh khoa học mà chúng ta
học ở nhà trường. Có những chủ đề khoa học có thể rất thú vị, nhưng không có trong
chương trình giảng dạy trong nhà trường.
14
- Học về khoa học là tương đối khó, với cả các học sinh thành công và không thành
công.
Khoa học khó hơn một số chủ đề khác, và nhất là khi so sánh với các chủ đề khác ban có
thể lựa chọn một chủ đề vào những năm cuối ở nhà trường.
- Vì lý do đó, nên hiện nay có nhiều sinh viên khi nghĩ đến việc học ở trung học đã nói:
Tại sao tôi lại phải tiếp tục nghiên cứu các vấn đề về khoa học trong khi có nhiều vấn đề
khác hấp dẫn, có tính tương tác và ít khó hơn để nghiên cứu.
Hơn nữa, hiện nay có bằng chứng cho thấy học sinh đang đưa ra các quyết định
không lựa chọn khoa học ở những năm cuối tiểu học, cho dù còn rất lâu nữa các
trường mới đưa ra tư vấn về nghề nghiệp.
Nhằm nhấn mạnh những vấn đề gây xáo trộn này, năm 2006, Dự án PISA đã bổ
sung hai vấn đề gây ảnh hưởng của khoa học, đó là sự quan tâm của cá nhân đến khoa
học và sự ủng hộ cho khoa học trong tuyên bố mục tiêu của dự án về trình độ hiểu biết
khoa học, đồng thời đưa ra các mục nhằm đo lường hai mức độ trên (xem Cơ sở khung
PISA 2006, OECD). Đây là một nỗ lực có cân nhắc nhằm chỉ ra rằng mức quan tâm
của cá nhân và xã hội đối với khoa học chính là từ các kết quả mong đợi từ việc giảng
dạy khoa học trong nhà trường. Tháng 12/2007, các kết quả ở cấp quốc tế và quốc gia
của dự án ở hơn 50 nước sẽ giúp chúng ta hiểu hơn về vấn đề này.
Cuốn sách Giáo dục Khoa học cho cuộc sống hàng này của Aikenhead (2005) đã
đối chiếu thuật ngữ “Khoa học trong nhà trường theo kiểu truyền thống” với một
thuật ngữ mà tác giả đưa ra là “Khoa học trong nhà trường theo chủ nghĩa nhân văn”.
Đặc điểm thiếu tính nhân văn của thuật ngữ thứ nhất trái ngược với sự thừa nhận rõ
ràng về khoa học của thuật ngữ thứ hai cho rằng khoa học là một công trình vĩ đại của
nhân loại trong lịch sử khai hóa. Mỗi khái niệm và nguyên tắc trong các cuốn sách về
khoa học được ghi nhận là kết quả của các sự kiện lớn của nhân loại. Trong thuật ngữ

thứ nhất, động lực là yếu tố giáo viên giỏi, còn trong thuật ngữ thứ hai, giáo viên chỉ là
phụ trợ bởi nội dung được đưa ra về thực chất đã là sự thúc đẩy. Khoa học, khi được
ứng dụng trong xã hội dưới dạng các ý tưởng hoặc công nghệ thì khi đó nó không đơn
giản chỉ là một giải pháp công nghệ mà trở thành một tác nhân thay đổi đối với xã hội
và đời sống con người. Giảng dạy khoa học giống như kể một câu chuyện là một
phương pháp sư phạm mới trong một số chương trình giảng dạy về khoa học hiện nay.
Các câu chuyện có nhân vật, cốt truyện và cách giải quyết chính là cách chung để giáo
dục thanh thiếu niên, nhưng gần như lại bị bỏ qua trong giảng dạy khoa học ở trường.
Trong một cuốn sách khác Thực tiễn dựa trên bằng chứng, tác giả Aikenhead lập luận
rằng: giảng dạy khoa học ở trường khi áp dụng các đặc điểm của khoa học theo chủ
15
nghĩa nhân văn thì sẽ có những phản hồi tích cực liên quan đến nhận thức và sự tác
động từ phía học sinh.
Khuyến nghị
C.1 Các nhà ra chính sách phải đưa vấn đề sự quan tâm của cá nhân và xã hội đối
với khoa học ra tham khảo để từ đó đưa ra các quyết định về chương trình giảng dạy
trong giáo dục KH&CN, bao gồm nội dung, phương pháp sư phạm và đánh giá.
Trong những năm đầu, những cơ hội phát triển tính ham hiểu biết và sáng tạo tự
nhiên của học sinh mà giáo dục về KH&CN mang lại cần phải là trọng tâm của những
dự định trong chương trình giảng dạy. Trong những năm trung học, vai trò của
KH&CN trong thế giới sinh viên sau khi ra trường sẽ giữ vai trò thúc đẩy mạnh mẽ.
Song song với những quyết định về sự quan tâm và khoa học của chương trình
giảng dạy này, các hoạt động truyền thông cho học sinh và phụ huynh của chúng về
những triển vọng hấp dẫn của sự nghiệp trên cơ sở khoa học cần được phát triển trong
các trường học và trong xã hội.
Kỳ vọng
Thêm nhiều học sinh sẽ phát triển sự quan tâm tới khoa học, và nhiều học sinh sẽ
cân nhắc việc theo đuổi sự nghiệp KH&CN.
Những yêu cầu
Việc huấn luyện các giáo viên khoa học cần được bắt đầu để giảm sự thiếu hụt các

câu chuyện khoa học trong học sinh. Phát triển chuyên môn của các giáo viên
KH&CN cần phải là ưu tiên để sao cho có thể sử dụng được các bối cảnh thế giới thực
tế trong giảng dạy để tối ưu những kết quả học tập.
Cần phát triển các hình thức đánh giá từng phần và đánh giá tổng kết khuyến khích
nhận thức kèm theo tác động của KH&CN.
16
4. Vấn đề thứ tư (D): Công nghệ có liên quan thế nào với giáo dục khoa học
Thông tin cơ sở
Để cho phù hợp với sự công nhận UNESCO/ICASE trước đây vào năm 1994 về tầm
quan trọng của mối liên kết giữa KH&CN trong xã hội, bản Tuyên ngôn Perth đã lặp lại
mối quan hệ này. Đây là một sự điều chỉnh quan trọng đối với việc tách biệt giữa KH&CN
vốn có trong các chương trình giảng dạy quốc gia diễn ra ở những năm 1990. Trong các
chương trình giảng dạy này, tiêu đề Technology (Công nghệ) được sử dụng để diễn đạt cho
sự công nhận mới, như thiết kế, giải quyết và nhận dạng vấn đề, được coi là đặc điểm thực
hành của các môn học như Craft and Design (thủ công và thiết kế), Woodwork (nghề làm
các đồ gỗ), Metalwork (nghệ thuật bằng kim loại), Home Economics (Kinh tế gia đình),
Industrial Arts (Mỹ thuật công nghiệp), ... Khả năng mà máy tính có thể chuyển hóa các
môn học thực hành này lại càng biện minh rằng, các đặc điểm thực hành này cần được xuất
hiện như một Lĩnh vực Học hỏi then chốt mới. Theo khía cạnh này, môn học mới
Technology (Công nghệ) đã là một lĩnh vực hoàn toàn tách rời khỏi Science (Khoa học) và
các giáo viên dạy môn khoa học thường không phải là giáo viên của môn này. Tuy nhiên, ý
nghĩa phổ biến của từ Công nghệ, như là những ứng dụng của Khoa học lại hoàn toàn thích
hợp với lĩnh vực của các giáo viên giảng dạy khoa học. Đây chính là điều mà “Giáo dục
KH&CN” muốn đề cập đến.
Tuy nhiên, việc gọi môn học mới này bằng từ ngữ “Công nghệ” lại là điều bất hợp lý với
những phát triển diễn ra trong giáo dục khoa học. Vào cuối những năm 1980, các nhà giáo
dục khoa học đổi mới đã phát triển các tài liệu giúp cho các giáo viên khoa học có thể đưa
vào giảng dạy cả các ứng dụng của khoa học dưới dạng các công nghệ. Các dự án như
Science and Technology in Society (SATIS), PLON (về Vật lý), LORST, Salters Science, vì
vậy đã cung cấp các giáo viên bằng cách làm cầu nối giữa việc giảng dạy và học tập khoa

học với các xã hội hiện đại mà học sinh đang sống. Sự chuyển biến này trong giáo dục khoa
học hướng đến mối liên kết giữa khoa học và các ứng dụng công nghệ của nó đã trở nên
mạnh mẽ đến mức trở thành phong trào mang tên STS (Khoa học-Công nghệ-Xã hội).
Phong trào STS đã làm thức tỉnh lại các giáo viên khoa học quay trở về với thực tế rằng, các
khái niệm mà họ giảng dạy trong khoa học tồn tại dựa vào thực tế rằng, chúng là những mối
liên kết mạnh mẽ giữa các hiện tượng tự nhiên mà ban đầu tưởng như hoàn toàn khác biệt.
Các dự án STS phát triển hơn đã sử dụng khẩu hiệu “Những khái niệm trong ngữ cảnh”
(Concepts in Contexts) để diễn đạt một chiến lược giảng dạy và học tập mạnh mẽ. Điều đó
công nhận rằng, ý nghĩa của các khái niệm này trong giáo dục khoa học sẽ được tiếp thu ở
một mức độ sâu hơn nếu vai trò của chúng được làm nổi bật qua các ngữ cảnh tự nhiên
quen thuộc. Ngược lại, sự tin tưởng và hiểu biết của học sinh với những ngữ cảnh thường
ngày quen thuộc này sẽ được củng cố bằng sự hiểu biết dựa trên khái niệm của họ.
17
Sự chỉ định một số môn học thực hành trước đây như “Công nghệ” trong các chương
trình giảng dạy quốc gia mới nổi lên đã dẫn phong trào này đến chỗ tạm dừng một cách
không mong đợi. Ngay lập tức nó đã xóa đi định hướng STS mà giáo dục khoa học trong
trường học đã hướng đến một cách đầy hứa hẹn. Không có cầu nối Công nghệ đến với Xã
hội, thành phần Khoa học của bộ ba này đã quay trở lại là sự nhấn mạnh đến các khái niệm
khoa học, mà không có ngữ cảnh ứng dụng để mang lại cho chúng ý nghĩa thực tế cho học
sinh dễ hiểu. Hơn nữa, những cải cách mà quốc gia áp dụng đối với tất cả các năm học phổ
thông đã khiến cho nội dung trừu tượng về các bộ môn nhất định đã trở thành những gì
được dạy về khoa học trong trường học ở mọi cấp.
Đến cuối những năm 1990, thất bại của các chương trình giảng dạy mới này trong việc
thu hút học sinh lấy khoa học là sự nghiệp của mình hay quan tâm đến khoa học suốt đời đã
bắt đầu bộc lộ. Việc giảng dạy khoa học theo khái niệm phần lớn là ở mức độ thông tin
nông cạn đã được xem xét lại, do các giáo viên đã phải rất nỗ lực để có thể đảm đương được
những danh sách dài các nội dung khoa học được đặt ra cho từng năm học trong các chương
trình giảng dạy mới trên. Ở đây có một sự mâu thuẫn không ngừng giữa việc học theo khái
niệm với yêu cầu về độ sâu ở mức độ là phải trở thành kiến thức vững mạnh với việc đảm
bảo chương trình học một cách trọn vẹn, dù là với mức độ học tập nông cạn, mà những

đánh giá khoa học thường có khuynh hướng yêu cầu.
Sau năm 2000, một báo cáo được công bố ở Anh và xứ Wales cuối năm 1998 đã khuyến
nghị về việc giảm nội dung chi tiết nhằm làm sâu thêm mức độ học tập và đã yêu cầu tái
liên kết giữa KH&CN như một cách thức quan trọng để cải thiện mối quan tâm của học
sinh, tính xác thực của khoa học và ý nghĩa khái niệm của nó. Sự nổi lên trong những năm
này của các lĩnh vực khoa học lý thú mới với các tiêu đề như Công nghệ gen, Công nghệ
sinh học, Công nghệ nano và Công nghệ vật liệu đã làm nổi bật sự vô nghĩa trong các quyết
định giáo dục tách rời KH&CN thành những lĩnh vực khác nhau trong giảng dạy tại các
trường học.
Khuyến nghị
Các nhà hoạch định chính sách cần đảm bảo rằng giáo dục khoa học được xúc tiến
hướng tới một thế giới thực (như đã thực hiện ở một số nước), theo cách tiếp cận “dựa trên
ngữ cảnh” trong giảng dạy và học tập khoa học ở mọi cấp thuộc các chương trình giảng dạy
trong các trường phổ thông.
Cần nhấn mạnh rằng phong trào này sẽ tiếp tục được xây dựng dựa trên nền tảng cơ sở
khái niệm khoa học, nhưng với những ích lợi bổ sung thêm từ sự học hỏi ở mức độ sâu hơn
do việc học tập theo khái niệm sẽ được nắm vững tới mức có thể áp dụng trong những tình
huống mới lạ.

×