Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Định nghĩa tri thức, khoa học, công nghệp.DOC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (138.17 KB, 20 trang )

1. Định nghĩa tri thức, khoa học, công nghệ
a) Tri thức:
•Tri

thức là các thơng tin, các tài liệu, các cơ sở lý luận, các kỹ năng

khác nhau, đạt được bởi một tổ chức hay một cá nhân thông qua các trải
nghiệm thực tế hay thông qua sự giáo dục đào tạo; các hiểu biết về lý thuyết
hay thực tế về một đối tượng, một vấn đề, có thể lý giải được về nó; là những
gì đã biết, đã được hiểu biết trong một lĩnh vực cụ thể hay toàn bộ, trong tổng
thể; là các cơ sở, các thông tin, tài liệu, các hiểu biết hoặc những thứ tương tự
có được bằng kinh nghiệm thực tế hoặc do những tình huống, hoàn cảnh cụ
thể. Những tranh cãi về mặt triết học nhìn chung bắt đầu với phát biểu của
Plato: tri thức như là "justified true belief". Tuy nhiên khơng có một định
nghĩa chính xác nào về tri thức hiện nay được mọi người chấp nhận, có thể
bao qt được tồn bộ, vẫn còn nhiều học thuyết, các lý luận khác nhau về tri
thức

•Tri

thức giành được thơng qua các q trình nhận thức phức tạp: quá

trình tri giác quá trình học tập, tiếp thu, quá trình giao tiếp quá trình tranh
luận, quá trình lý luận hay kết hợp các q trình này

•Tri


thức có 2 dạng tồn tại chính là tri thức ẩn và tri thức hiện

Tri thức hiện là những tri thức được giải thích và mã hóa dưới dạng



văn bản, tài liệu, âm thanh, phim, ảnh,… thơng qua ngơn ngữ có lời hoặc
khơng lời, ngun tắc hệ thống, chương trình máy tính, chuẩn mực hay các
phương tiện khác. Đây là những tri thức đã được thể hiện ra ngoài và dễ dàng
chuyển giao, thường được tiếp nhận qua hệ thống giáo dục và đào tạo chính
quy
•Tri

thức ẩn là những tri thức thu được từ sự trải nghiệm thực tế, dạng tri

thức này thường ẩn trong mỗi cá nhân và rất khó “mã hóa” và chuyển giao,
1


thường bao gồm: niềm tin, giá trị, kinh nghiệm, bí quyết, kỹ năng... VD:
Trong bóng đá, các cầu thủ chuyên nghiệp có khả năng cảm nhận bóng rất tốt.
Đây là một dạng tri thức ẩn, nó nằm trong mỗi cầu thủ. Nó khơng thể “mã
hóa” thành văn bản, khơng thể chuyển giao, mà người ta chỉ có thể có bằng
cách tự mình luyện tập.


b)Khoa học:
Khoa học (trong tiếng Latin scientia, có nghĩa là "kiến thức" hoặc
"hiểu biết") là các nỗ lực thực hiện phát minh, và tăng lượng tri thức hiểu biết
của con người về cách thức hoạt động của thế giới vật chất xung quanh.
Thông qua các phương pháp kiểm soát, nhà khoa học sử dụng cách quan sát
các dấu hiệu biểu hiện mang tính vật chất và bất thường của tự nhiên nhằm
thu thập dữ liệu, phân tích thong tin để giải thích cách thức hoạt động, tồn tại
của sự vật hiện tượng. Một trong những cách thức đó đó là phương pháp thử
nghiệm nhằm mơ phỏng hiện tượng tự nhiên dưới điều kiện kiểm soát được

và các ý tưởng thử nghiệm. Tri thức trong khoa học là tồn bộ lượng thơng tin
mà các nghiên cứu đã tích lũy được. Định nghĩa về khoa học được chấp nhận
phổ biến đó là khoa học là tri thức tích cực đã được hệ thống hóa.
Khoa học thuần túy là các môn học bao gồm các phương diện triết lý,
tôn giáo, khoa học, tín ngưỡng, xã hội học, nhân chủng học, chính trị học,
luận lý học, đạo đức học, tâm lý học, phân tâm học, thần kinh bệnh học, ngôn
ngữ học, tơn giáo học huyền bí học.
Khoa học ứng dụng là khoa học chính xác sử dụng các kiến thức thuộc
một hay nhiều lĩnh vực của khoa học tự nhiên và khoa học xã hội để giải
quyết những vấn đề thực tế. Nó có liên hệ mật thiết hoặc đồng nhất với kỹ
nghệ. Khoa học ứng dụng có thể sử dụng để phát triển công nghệ

2


c) Công nghệ:
Công nghệ (hay công nghệ học hoặc kỹ thuật học) có nhiều hơn một
định nghĩa. Một trong số đó là phát triển và ứng dụng của các dụng cụ, máy
móc, ngun liệu và quy trình để giúp đỡ giải quyết những vấn đề của con
người. Với tư cách là hoạt động con người, công nghệ diễn ra trước khi có
khoa học và kỹ nghệ . Nó thể hiện kiến thức của con người trong giải quyết
các vấn đề thực tế để tạo ra các dụng cụ, máy móc, nguyên liệu hoặc quy trình
tiêu chuẩn . Việc tiêu chuẩn hóa như vậy là đặc thù chủ yếu của cơng nghệ.
Khái niệm về kỹ thuật Kỹ thuật được hiểu là bao gồm toàn bộ những phương
tiện lao động và nhưng phương pháp tạo ra cơ sở vật chất.
Cơng nghệ (có nguồn gốc từ technologia, hay τεχνολογια, trong tiếng
Hy lạp ; techne có nghĩa là thủ cơng và logia có nghĩa là "châm ngôn") là một
thuật ngữ rộng ám chỉ đến các công cụ và mưu mẹo của con người. Tuỳ vào
từng ngữ cảnh mà thuật ngữ cơng nghệ có thể được hiểu:
•cơng

•các

cụ hoặc máy móc giúp con người giải quyết các vấn đề;

kỹ thuật bao gồm các phương pháp, vật liệu, cơng cụ và các tiến

trình để giải quyết một vấn đề;
•Các

sản phẩm được tạo ra phải hàng loạt và giống nhau

d) Mối quan hệ giữa khoa học, kỹ nghệ và công nghệ:
Khoa học nghiên cứu các sự kiện tự nhiên. Kỹ nghệ là ứng dụng của các
kiến thức khoa học để phát triển sản phẩm. Công nghệ là việc sử dụng các sản
phẩm đã kỹ nghệ hóa.
Ví dụ: Chuyển động của các điện tử (êlêctrơn) sinh ra dịng điện, đây là
một yếu tố hay khái niệm trong khoa học vật lý. Khi dòng điện truyền qua
một chất bán dẫn như silic (Si) hay gecmani (Ge) thì cơ chế này được biết

3


như là điện tử học. Việc sản xuất các thiết bị điện tử sử dụng các khái niệm
của điện tử học được hiểu như là kỹ nghệ điện tử. Máy tính được phát triển sử
dụng cơng nghệ điện tử. Việc sử dụng máy tính để lưu trữ thơng tin số hóa
cũng như việc biến đổi và gửi các thơng tin này từ một điểm đến một điểm
khác bằng các thiết bị liên lạc viễn thơng một cách an tồn là cơng nghệ thơng
tin.
Thuật ngữ cơng nghệ vì vậy thơng thường được đặc trưng bởi các phát
minh và cải tiến sử dụng các nguyên lý và quy trình đã được khoa học phát

hiện ra gần đây nhất. Tuy nhiên, thậm chí cả phát minh cổ nhất như bánh xe
cũng là một minh họa cho công nghệ.
Một định nghĩa khác - được sử dụng trong kinh tế học- xem công nghệ
như là trạng thái hiện tại của các kiến thức của chúng ta trong việc kết hợp
các nguồn lực để sản xuất các sản phẩm mong muốn (và kiến thức của chúng
ta về việc sản xuất như thế nào). Như vậy chúng ta có thể thấy các thay đổi
cơng nghệ khi kiến thức kỹ thuật của chúng ta tăng lên

2.Vai trò của tri thức khoa học công nghệ với sự phát triển
kinh tế thế giới
a) Tri thức khoa học công nghệ là tiềm năng tạo ra những phát hiện có
giá trị kinh tế to lớn và quan trọng trong đời sống thưc tiễn
Nó diễn ra trong lĩnh vực khoa học cơ bản gồm tốn học, vật lí học, hố
học, sinh vật học. Khoa học cơ bản đã tạo cơ sở lí thuyết cho các khoa học
khác, cho kỹ thuật phát triển và là nền móng của tri thức. Ngồi khoa học cơ
bản ra, cuộc cách mạng khoa học – kinh tế đã và đang nghiên cứu, phát minh
ra nhiều ngành kho

4


‘Tôi mới, như khoa học vũ trụ và khoa học du hành vũ trụ, những ngành
mới, như điều khiển học v.v… Hiện nay, các nhà khoa học đang tập trung đi
sâu nghiên cứu, giải quyết những yêu cầu bức thiết nhằm đáp ứng cuộc sống
của con người trên các phương hướng sau đây: phương hướng tự động hoá
nhằm tự động hoá và thay đổi cơ bản những điều kiện lao động của con người
và nâng cao năng suất lao động; tìm tịi những nguồn năng lượng mới, những
vật liệu mới, những công cụ mới; cuộc “cách mạng xanh” trong nông nghiệp;
chinh phục vũ trụ để phục vụ cho cuộc sống trên Trái đất…
Trải qua một nửa thế kỉ, cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật lần thứ hai

của nhân loại đã thu được những thành tựu to lớn và kì diệu.
Trước hết, trong lĩnh vực khoa học cơ bản, con người đã thu được
những thành tựu hết sức to lớn, đánh dấu những bước nhảy vọt chưa từng có
trong các ngành tốn học, vật lí học, hóa học, sinh vật học. Các nhà khoa học
đã có những phát minh vơ cùng quan trọng, như sóng điện từ, trường điện từ,
tia rơnghen và hiện tượng phóng xạ, sự phân chia của nguyên tử, bản chất hạt
sóng của ánh sáng, khởi thảo thuyết lượng tử và thuyết tương đối học, tìm ra
những định luật và định lí mới về tốn học, lí học, hố học Với những phát
minh lớn về lí thuyết hạt nhân, về sóng điện từ, trường điện từ, hiện tượng
phóng xạ…, vật lí học đã góp phần quan trọng trong việc sản xuất ra những
công cụ mới, vật liệu mới, nguồn năng lượng nguyên tử và những phương
tiện giao thông vận tải, thông tin liên lạc hết sức hiện đại.
Cuộc cách mạng trong sinh vật học đã dẫn đến cuộc “cách mạng xanh”
trong nông nghiệp và sự ra đời của Phỏng sinh học và công nghệ sinh học,
bao gồm cơng nghệ sinh hố, y và dược sinh hố, công nghệ sinh vật chế biến
thực phẩm, công nghệ sinh học chống ô nhiễm và bảo vệ môi trường.
Đặc điểm nổi bật của cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật hiện nay là
cuộc cách mạng khoa học và cách mạng kỹ thuật gắn bó chặt chẽ với nhau,
5


hầu như tất cả những khuynh hướng chủ yếu của khoa học cơ bản hiện nay
đều gắn liền với lĩnh vực này hay lĩnh vực khác của kỹ thuật và sản xuất như
khoa vật lí hạt nhân và năng lượng nguyên tử, môn điều khiển học và tự động
học, môn phỏng sinh học v.v…
Thứ hai, các nhà khoa học đã có những phát minh lớn về những cơng cụ
sản xuất mới, trong đó có ý nghĩa to lớn nhất là sự ra đời của máy tính, máy
tự động và hệ thống máy tự động.
Con người thông minh nhất trong 1 phút cũng chỉ giải được một số phép
tính, nhưng ngày nay, với máy tính hệ hiện đại nhất, con người có thể giải

được hàng chục triệu phép tính trong một giây. Máy tính làm thơ, m
b) Tác động trực tiếp của các cuộc cách mạng khoa học công nghệ tới
nền kinh tế thế giới
Mọi nền kinh tế đều có các lĩnh vực sản xuất, lưu thông và tiêu dùng.
Các lĩnh vực đó hợp thành một hệ thống thống nhất, có sự tác động qua lại,
trong đó lĩnh vực sản xuất đóng vai trị quan trọng nhất. Do đó, đánh giá trình
độ phát triển của một nền kinh tế, trước hết phải căn cứ vào trình độ phát triển
của lĩnh vực sản xuất, trong đó yếu tố có tính cách mạng nhất là công cụ sản
xuất.
Mọi công cụ sản xuất đều có ba bộ phận: động lực, truyền lực và cơng
tác
- Bộ phận cơng tác (cịn gọi là bộ phận chấp hành hay tác động) trực tiếp
tác động lên đối tượng lao động để làm ra sản phẩm.
- Bộ phận truyền lực truyền năng lượng từ nguồn động lực đến bộ phận
công tác. Ở công cụ sản xuất thủ công, nguồn động lực là do sức cơ bắp của
người lao động, cịn bàn tay trực tiếp làm bộ phận cơng tác chuyển động (thí
6


dụ: cái kim khâu tay). Nếu bộ phận công tác giao cho máy thực hiện - gọi là
máy công tác, thì ta có cơng cụ nửa cơ khí (thí dụ: cái máy khâu đạp chân).
- Khi nguồn động lực cũng do máy cung cấp thì đó là cơng cụ cơ khí (thí
dụ: cái máy khâu chạy bằng điện). Trong cơng cụ thủ cơng và cơ khí, việc
điều khiển cơng cụ sản xuất hoạt động đều do bộ óc con người đảm nhận.
Trong bộ "Tư bản", C.Mác đã phân tích rất cụ thể vai trị của từng bộ
phận nói trên trong công cụ sản xuất và chứng minh rằng, cuộc cách mạng
công nghiệp thế kỷ XVIII đã bắt đầu khi bộ phận công tác, vốn đã bàn tay
người thao tác trong công cụ thủ công, giao cho máy thực hiện, nhờ đó mà
năng suất lao động tăng vọt, mặc dù nguồn động lực vẫn là sức người (công
cụ loại này lần đầu tiên xuất hiện ở máy kéo sợi vào năm 1735). Còn máy hơi

nước, tuy được phát minh từ cuối thế kỷ XVII nhưng sau gần một thế kỷ vẫn
không dẫn đến cuộc cách mạng nào trong công nghiệp. Tuy vậy, sau khi có
máy cơng tác, máy hơi nước đã phát huy tác dụng rất to lớn, thúc đẩy cuộc
cách mạng công nghiệp phát triển mạnh mẽ, thông qua việc cung cấp nguồn
động lực cho các công xưởng tư bản chủ nghĩa cơ khí hố. (Vì lý do này,
nhiều người đã cho rằng cuộc cách mạng công nghiệp được bắt đầu là nhờ có
máy hơi nước. Điều này khơng thật chính xác).
Như vậy, đặc trưng cơ bản của nền kinh tế nông nghiệp và nền kinh tế
công nghiệp trước công xưởng là cơng cụ sản xuất thủ cơng, cịn của nền kinh
tế cơng nghiệp cơng xưởng - sau này nói gọn là kinh tế công nghiệp - là công
cụ sản xuất cơ khí hay thường gọi là máy móc.
Từ khi ra đời cho đến khoảng giữa thế kỷ XX, sau gần 200 năm, cơng
cụ cơ khí khơng ngừng được cải tiến và hồn thiện, được nâng lên trình độ tự
động dựa trên các thành tựu chủ yếu của vật lý học cổ điển. Việc điều khiển
nhiều khâu trong công cụ cơ khí đã được tự động hóa ở mức thấp đưa vào
những cơ cấu kỹ thuật cơ - điện vĩ mơ. Sự tự động hố này được gọi là tự
7


động hố cứng vì nó kém tính linh hoạt và khó thực hiện trong tồn bộ một
đây chuyền sản xuất. Hơn nữa, khi một dây chuyền đã được thiết kế cho việc
sản xuất một loại sản phẩm nào đó, nếu muốn thay đổi kích cỡ, mẫu mã, kiểu
dáng ... thì rất khó khăn, tốn kém và mất nhiều thời gian. Vì vậy, việc tự động
hố này tuy có đem lại sự tăng năng suất lao động, nhưng chưa đưa. đến một
cuộc cách mạng trong sản xuất công nghiệp và do đó, nó chỉ được coi là bộ
phận phát triển của cơ khí hóa. Đây được coi là cuộc cách mạng khoa học kỹ
thuật lần thứ nhất và những thành tựu nổi bật nó mang lại là:
Năm 1733 John Kay đã phát minh ra "thoi bay". Phát minh này đã làm
người thợ dệt không phải lao thoi bằng tay và năng suất lao động lại tăng gấp
đôi.

Năm 1765 James Hagreaves đã chế được chiếc xa kéo sợi kéo được 8
cọc sợi một lúc. Ơng lấy tên con mình là Jenny để đặt cho máy đó.
Năm 1769, Richard Arkrwight đã cải tiến việc kéo sợi không phải bằng
tay mà bằng súc vật, sau này còn được kéo bằng sức nước.
Năm 1785, phát minh quan trọng trong ngành dệt là máy dệt vải của linh
mục Edmund Cartwright. Máy này đã tăng năng suất dệt lên tới 40 lần.
Phát minh trong ngành dệt cũng tác động sang các ngành khác. Lúc bấy giờ,
các nhà máy dệt đều phải đặt gần sông để lợi dụng sức nước chảy, điều đó bất
tiện rất nhiều mặt. Năm 1784, James Watt phụ tá thí nghiệm của trường Đại
học Glasgow (Scotland) đã phát minh ra máy hơi nước. Nhờ phát minh này,
nhà máy dệt có thể đặt bất cứ nơi nào. Khơng những thế phát minh này cịn có
thể coi là mốc mở đầu q trình cơ giới hố.
Ngành luyện kim cũng có những bước tiến lớn. Năm 1784 Henry Cort
đã tìm ra cách luyện sắt "puddling". Mặc dù phương pháp của Henry Cort đã
luyện được sắt có chất lượng hơn nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu về
8


độ bền của máy móc. Năm 1885, Henry Bessemer đã phát minh ra lị cao có
khả năng luyện gang lỏng thành thép. Phát minh này đã đáp ứng được về yêu
cầu cao về số lượng và chất lượng thép hồi đó.
Cách mạng cũng diễn ra trong ngành giao thơng vận tải. Năm 1804,
chiếc đầu máy xe lửa đầu tiên chạy bằng hơi nước đã ra đời. Đến năm 1829,
vận tốc xe lửa đã lên tới 14 dặm/giờ. Thành công này đã làm bùng nổ hệ
thống đường sắt ở châu Âu và châu Mĩ.
Năm 1807, Robert Fulton đã chế ra tàu thuỷ chạy bằng hơi nước thay
thế cho những mái chèo hay những cánh buồm
Trong những năm 1939-1945, trước nhu cầu cấp bách trên nhiều mặt
của cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai, trong đó có việc điều khiển từ xa và
tự động các đạn pháo cao xạ, các tên lửa..., các nhà khoa học ở cả hai phía đã

phải đi sâu khai thác vật lý học hiện đại để đáp ứng nhu cầu đó. Vật lý học
hiện đại là ngành khoa học được hình thành trong 30 năm đầu của thế kỷ XX,
khi nghiên cứu thế giới vi mô - nguyên tử, đã tạo ra một cuộc cách mạng
trong các ngành khoa học tự nhiên, và trong nhiều năm tiếp theo là cuộc cách
mạng trong các công nghệ ứng dụng những thành tựu của các khoa học ấy
(công nghệ năng lượng hạt nhân, công nghệ vật liệu mới, công nghệ thơng tin,
cơng nghệ tự động hố, cơng nghệ sinh học...) , đem lại những biến đổi to lớn,
sâu sắc trong sản xuất và đời sống con người. Đó là cuộc cách mạng khoa học
- công nghệ của thế kỷ XX tạo ra cơ sở vật chất - kỹ thuật của một nền kinh tế
phát triển cao hơn hẳn nền kinh tế công nghiệp, được gọi với những tên khác
nhau: kinh tế sau cơng nghiệp, kinh tế số hóa, kinh tế thông tin, kinh tế tri
thức. Ở nước ta, tên gọi sau cùng được dùng phổ biến trên các sách báo (trong
bài viết này, chúng tơi chưa bình luận về tên gọi đó). Khó có thể kể hết mọi
thành tựu của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ, nhưng thành tựu vừa có
tính cơ bản, vừa có tính tổng hợp của nó là máy điều khiển tự động có khả

9


năng làm những cơng việc trí óc trong chức năng điều khiển của con người.
Đây được coi là cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật lần hai với những thành
quả như sau:
Đặc điểm nổi bật của cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật hiện nay là
cuộc cách mạng khoa học và cách mạng kỹ thuật gắn bó chặt chẽ với nhau,
hầu như tất cả những khuynh hướng chủ yếu của khoa học cơ bản hiện nay
đều gắn liền với lĩnh vực này hay lĩnh vực khác của kỹ thuật và sản xuất như
khoa vật lí hạt nhân và năng lượng nguyên tử, môn điều khiển học và tự động
học, môn phỏng sinh học v.v…
Con người thông minh nhất trong 1 phút cũng chỉ giải được một số phép
tính, nhưng ngày nay, với máy tính hệ hiện đại nhất, con người có thể giải

được hàng chục triệu phép tính trong một giây. Máy tính làm thơ, máy tính
sáng tác nhạc, máy tính xem số tử vi v.v… Ngày nay, máy tính được coi như
“trung tâm thần kinh” kỹ thuật, thay con người nắm tồn bộ q trình sản xuất
liên tục, kể cả chức năng điều khiển. Máy tự động và hệ thống máy tự động,
sau khi máy tính ra đời, dẫn tới tự động hố q trình sản xuất, nghĩa là máy
tự động không chỉ “làm việc” thay con người, mà cịn có thể “nghĩ” và “giải
quyết” cơng việc thay con người.
Các nhà khoa học còn sáng chế ra “người máy” (rôbôt) và ngày nay
rôbôt đã đảm nhiệm những công việc mà con người không thể làm được hoặc
không nên làm: rơbơt trèo tường, lau cửa sổ ở những tồ nhà cao trọc trời,
rôbôt lặn sâu xuống đại dương tới 6 – 7 nghìn mét, rơbơt làm việc trong các
nhà máy điện nguyên tử ở những bộ phận dễ bị nhiễm xạ…
Ngồi ra, người ta cịn sáng chế ra hàng loạt những cơng cụ mới có tính
năng hết sức hiện đại nhằm phục vụ cho sản xuất trong tất cả các ngành công
nghiệp và xây dựng.

10


Trong tình hình nguồn năng lượng thiên nhiên (than, dầu mỏ…) đang
vơi cạn dần và trở nên khan hiếm một cách đáng lo ngại (sinh hoạt của con
người càng nâng cao thì nhu cầu năng lượng càng tăng lên với một nhịp độ
đáng sợ. Chỉ mười năm trở lại đây, nhu cầu năng lượng trên thế giới đã tăng
hơn 2 lần, trong đó tiêu thụ năng lượng điện tăng hơn 3,6 lần) thì con người
đã tìm ra những nguồn năng lượng mới hết sức phong phú, vô tận: năng lượng
nguyên tử, năng lượng nhiệt hạch, năng lượng mặt trời, năng lượng thuỷ
triều… Trong những nguồn năng lượng kể trên, năng lượng nguyên tử và
năng lượng mặt trời đang dần dần được con người sử dụng một cách phổ
biến, và trong một tương lai khơng xa, nó sẽ thay thế dần ngành nhiệt điện và
thuỷ điện.

Sáng chế ra những vật liệu mới trong tình hình vật liệu tự nhiên đang
cạn kiệt dần trong thiên nhiên.
Từ rong biển, người ta có thể chế tạo ra khoảng 40 loại công nghệ phẩm
tiêu dùng hàng ngày. Đã có thể sản xuất ra những thực phẩm, như thịt gà, thịt
lợn, thịt bò và nhiều thức ăn hàng ngày một cách hoàn toàn nhân tạo. Con
người hiện nay mặc quần áo phần lớn bằng vải sợi nhân tạo.
Trong những vật liệu mới mà con người sáng chế ra những năm gần
đây, chất pôlome (chất dẻo) đang giữ một vị trí rất quan trọng trong đời sống
hàng ngày, cũng như trong tất cả mọi ngành công nghiệp. Có nhiều chất dẻo
nhẹ hơn nhơm 2 lần, nhưng về độ bền chúng lại hơn hẳn nhiều loại thép và có
thể sử dụng để chế tạo vỏ xe tăng, máy bay, các động cơ tên lửa và con tàu vũ
trụ.
Cuộc “cách mạng xanh” trong nông nghiệp. Do tác động tổng hợp của
các ngành khoa học, đặc biệt là sinh vật học và hố học, nơng nghiệp đang
tiến những bước nhẩy vọt nhờ cơ khí hố, điện khí hố, hố học hoá, thuỷ lợi
hoá với những biện pháp lai tạo giống, chống sâu bệnh v.v… Nhờ cuộc “cách
11


mạng xanh” này, con người đã tìm ra phương hướng để có thể khắc phục
được nạn đói ăn, thiếu thực phẩm kéo dài từ bao thế kỉ.
Con người đã đạt được những tiến bộ thần kì trong các lĩnh vực giao
thông vận tải và thông tin liên lạc. Trên không, đã xuất hiện những máy bay
hành khách siêu âm khổng lồ (“TU – 186”, “Côngcoocđơ”, “Bôing 176”
v.v…). Các tàu hoả ngày nay đã đạt tốc độ chạy nhanh tới 300 km/giờ và tới
đích đúng giờ tuyệt đối. Trên mặt biển, con người đã đóng những con tàu chở
dầu 1 triệu tấn v.v… Nhờ các hệ thống vệ tinh nhân tạo, lồi người đã có
những phương tiện thơng tin liên lạc và phát sóng truyền hình hết sức hiện
đại.
Từ khoảng giữa những năm 70, CMKH - KT bắt đầu có những đặc điểm

mới. Đó là cuộc cách mạng chủ yếu về cơng nghệ với sự ra đời của máy tính
điện tử thế hệ mới được sử dụng trong mọi hoạt động kinh tế và đời sống xã
hội, về vật liệu mới, về những dạng năng lượng mới và công nghệ sinh học,
về phát triển tin học. Việc áp dụng những công nghệ hoàn toàn mới đã tạo
điều kiện cho sản xuất phát triển theo chiều sâu, giảm hẳn tiêu hao năng
lượng và nguyên liệu, giảm tác hại cho môi trường, nâng cao chất lượng sản
phẩm và dịch vụ, thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của sản xuất. Trong giai
đoạn trước, máy móc thay thế lao động cơ bắp; trong giai đoạn cách mạng tin
học, máy tính làm nhiều chức năng của lao động trí óc. Một đặc điểm nổi bật
của cuộc CMKH - KT ở giai đoạn này là cuộc cách mạng đó diễn ra trên cơ
sở những thành tựu của khoa học hiện đại, trên cơ sở kết hợp rất chặt chẽ
khoa học và kĩ thuật, khoa học và sản xuất vật chất. Song song với việc đi sâu
vào từng khoa học riêng lẻ là sự xuất hiện của những lí thuyết ngày càng bao
trùm hơn, của càng nhiều khoa học cụ thể khác nhau, cho phép sử dụng các
thành tựu của khoa học này phục vụ khoa học kia, dù các ngành khoa học có
khi rất xa nhau. Cho nên ngày nay, sản xuất chịu ảnh hưởng không phải là của
những ngành khoa học riêng biệt nữa. Các thành quả của sản xuất là sản phẩm
12


của một phạm vi nghiên cứu rộng lớn, và ngày càng rộng lớn hơn, bao trùm
không chỉ các ngành khoa học tự nhiên, kĩ thuật và cơng nghệ, mà cịn cả các
ngành khoa học xã hội nữa: kinh tế học, quản lí sản xuất, quản lí xã hội, xã
hội học, tâm lí học xã hội, mĩ học sản xuất, dự báo tiến bộ xã hội và khoa học
kĩ thuật
. Các máy điều khiển tự động đã mở ra hai công nghệ mới, có quan hệ
mật thiết với nhau, xâm nhập lẫn nhau, ứng dụng rộng rãi không chỉ trong
lĩnh vực kinh tế, mà hầu hết trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, đó là
cơng nghệ tự động hố và công nghệ thông tin
Trong lĩnh vực sản xuất, với các máy điều khiển tự động, người ta có thể

thực hiện tự động hoá ở từng máy và cả dây chuyền sản xuất, với tính linh
hoạt, độ chính xác và năng suất lao động rất cao, nhờ dựa vào các cơ cấu kỹ
thuật điện tử (vi mô). Sự tự động hoá này được gọi là tự động hoá mềm, cho
phép tạo ra những dây chuyền, trên đó có thể thay đổi dễ dàng các sản phẩm
khi cần, có kích cỡ, mẫu mã, hình dáng... khác nhau. Ngồi ra, cịn có các hệ
thống chuyên gia - một hình thức đơn giản của trí tuệ nhân tạo - được sử dụng
để chẩn đốn nhanh chóng, chuẩn xác và sửa chữa kịp thời các sự cố kỹ thuật
phức tạp xuất hiện trong quá trình sản xuất. Nói chung, với máy điều khiển tự
động, người ta cịn có thể thực hiện tự động hố đối với rất nhiều công việc
khác nhau trong tổ chức và quản lý sản xuất, góp phần làm cho việc tự động
hoá sản xuất đem lại một bước nhảy vọt về năng suất lao động. Việc tự động
hoá sản xuất phải được thực hiện trên cơ sở của nền kinh tế cơng nghiệp cơ
khí hố phát triển cao. Nếu cơng nghệ tự động hoá đem lại năng suất lao động
cao trong lĩnh vực sản xuất vật chất, thì cơng nghệ thơng tin, trong đó máy
điều khiển tự động quan trọng nhất là máy tính điện tử nối mạng quốc gia và
quốc tế, có thể đem lại năng suất và chất lượng lao động cao trong các quá
trình sản xuất phi vật chất, nói chung là trong cơng tác quản lý mọi hoạt động
của xã hội; ngồi ra nó cịn có tác dụng trong việc nâng cao trình độ dân trí,
13


cải thiện đời sống. (Cần lưu ý là công nghệ thơng tin, thơng qua các máy tính
điện tử và cơng nghệ vi xử lý, là một trong những cơ sở để tạo ra các máy
công cụ điều khiển số, cao hơn là các hệ thống tự động thiết kế, chế tạo CAD
- CAM đã góp phần làm cho cơng nghệ tự động hố ngày càng hồn thiện).
Tuy có vai trị cũng rất to lớn, nhưng công nghệ thông tin không đòi hỏi vốn
đầu tư quá lớn như khi thực hiện cơ khí hố và nhất là tự động hố mềm nền
kinh tế. Chính vì có đặc điểm này, nên cơng nghệ thông tin được áp dụng
rộng rãi ở mọi nền kinh tế nông nghiệp cũng như công nghiệp, chậm phát
triển cũng như phát triển; tất nhiên, nền kinh tế càng phát triển, hiệu quả càng

cao.
Ở các nước tư bản chủ nghĩa, công nghệ thông tin được khai thác ở mức
rất cao trong mọi lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội... Đặc biệt, trong các lĩnh
vực tài chính ngân hàng, thương mại, việc áp dụng công nghệ này đã đem lại
nhiều hiệu quả và lợi nhuận kếch sù. ở Mỹ có những thanh niên chỉ với một
máy tính nối mạng Internet, có những tri thức cần thiết và đầu óc sáng tạo, đã
trở thành tỷ phú trong một thời gian ngắn. Chủ nghĩa tư bản lợi đụng tính chất
đặc biệt của tiền tệ và dựa trên những hệ thống máy tính ngày càng tinh xảo
đã tạo lập được một hệ thống tài chính - tiền tệ có vị trí độc lập, tách rời với
hệ thống sản xuất, và các nhà tư bản tài chính đã kiếm lời trên hệ thống này;
có những nhà tỷ phú sử dụng nó như một quyền lực có thể làm đảo lộn kinh tế
tiền tệ thế giới.
Đặc điểm, tình hình nói trên đã làm cho một số người ngộ nhận rằng
công nghệ thông tin là nhân tố quyết định nhất đối với sự chuyển địch kính tế
cơng nghiệp sang kinh tế tri thức. Điều đó trái với quan điểm của chủ nghĩa
duy vật lịch sử cho rằng của cải vật chất phải do các quá trình sản xuất tạo ra;
sản xuất là cơ sở của đời sống xã hội, là động lực phát triển kinh tế. Cơng
nghệ thơng tin góp phần tự động hố cơng tác quản lý các hoạt động trong xã
hội và có đóng góp to lớn trong việc nâng cao năng suất lao động xã hội,
14


nhưng khơng thay thế được q trình sản xuất vật chất - ở đó cơng nghệ tự
động hố mềm là yếu tố quyết định nhất. Và cũng do xác định khơng đúng vị
trí và vai trị của cơng nghệ thơng tin, nhiều người đã tuyệt đối hố vai trị của
tri thức, lẫn lộn tri thức với thông tin, đưa ra những quan niệm như "sự sản
sinh, phổ cập và sử dụng thơng tin giữ vai trị quyết định nhất đối với sự phát
triển kinh tế, tạo ra của cải nâng cao chất lượng cuộc sống", lợi thế so sánh
của một quốc gia giờ đây là trí tuệ, vốn và tài nguyên bị đẩy lùi xuống hàng
thứ yếu', "thông tin là nguồn lực, nguồn tài nguyên của xã hội"... Đề cao vai

trị của trí thức ở thời nào cũng đúng, và nếu nói theo lối ẩn dụ, "tri thức là cái
gì cao quý nhất, quyết định nhất" thì cũng được. Nhưng nếu coi đó là một
quan điểm triết học thì khơng đúng. Quả thật, cuộc cách mạng khoa học công nghệ thế kỷ XX - khác hẳn với cuộc cách mạng công nghiệp thế kỷ
XVIII, được xuất phát chủ yếu từ kinh nghiệm, từ kỹ thuật - là thành tựu tuyệt
vời của trí tuệ con người, được kết tinh trong một khối lượng đồ sộ các tri
thức dựa trên nền tảng của các tri thức rất trừu tượng của vật lý học và toán
học. Sự ra đời của máy điều khiển tự động - trong đó máy tính là quan trọng
và phổ biến nhất, có thể làm được một số cơng việc trí óc - chủ yếu là do có
sự kết hợp hai loại tri thức đó. Sau khi có máy tính và hệ thống thơng tin liên
lạc hiện đại, tri thức của nhân loại càng tăng lên nhanh chóng, và khi đó
người ta nói đến một sự bùng nổ tri thức. Nhưng cần lưu ý là, trong khối
lượng tri thức to lớn đó, đa phần là tri thức cơng nghệ - tri thức phát triển trên
nền tảng của các tri thức khoa học cơ bản được hình thành trong nửa đầu của
thế kỷ XX. Muốn có tri thức cơng nghệ, một mặt, phải có tri thức khoa học cơ
bản, và mặt khác, không thể thiếu được những kinh nghiệm, những thủ thuật
chun mơn. Có một thực tế, nhưng ít khi được chú ý, lâu nay trong việc
chuyển giao công nghệ các sản phẩm trong các liên doanh với nước ngồi,
khơng bao giờ có sự chuyển giao 100%. ở các sản phẩm đó, tỷ lệ nội địa hố
tuy ngày càng nâng cao, nhưng có một số tỷ lệ phần trăm bao gồm những bí
mật cơng nghệ bị giữ lại. Những bí mật này, nếu tự chúng ta khơng tìm ra
15


được thì các sản phẩm do nước ta sản xuất, khơng thể nào có chất lượng cao
và khó có thể cạnh tranh được với nước ngồi.
Tóm lại, nếu cơ sở kỹ thuật của nền kinh tế công nghiệp là công cụ cơ
khí, thì của nền kinh tế tri thức là máy điều khiển tự động, với hai công nghệ
cơ bản là cơng nghệ tự động hố và cơng nghệ thơng tin cho phép tự động hố
cả các q trình sản xuất vật chất và phi vật chất. Thực hiện hai cơng nghệ
này là nội dung chính của việc hiện đại hố nền kinh tế, trong đó cơng nghệ tự

động hố sản xuất vật chất là cơ bản.
Nền kinh tế tri thức chỉ mới ở giai đoạn đầu Trên thế giới chưa có nước
nào đã có nền kinh tế tri thức với nội dung đầy đủ là thực hiện rộng rãi việc tự
động hố sản xuất và tin học hố tồn xã hội. Cơng nghệ tự động hố và cơng
nghệ thơng tin, do tác dụng to lớn của chúng trong việc nâng cao năng suất
lao động cá nhân và xã hội, đã đem lại những biến đổi sâu sắc trong cơ cấu
kinh tế, cơ cấu lao động, trong phong cách và nếp sống của con người và tất
nhiên ảnh hưởng đến cả thượng tầng kiến trúc của xã hội. Do đó, việc hiện đại
hố nền kinh tế khơng đơn thuần chỉ là vấn đề kinh tế - kỹ thuật, mà còn là
vấn đề chính trị - xã hội, và vì vậy, việc thực hiện nó sẽ khơng đơn giản và chỉ
có thuận chiều. Những vấn đề về hiện đại hoá cần được theo dõi và nghiên
cứu trên cơ sở quan điểm duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, đề
phịng ảnh hưởng của các quan điểm khơng đúng đắn của phương Tây hiện
đang rất phổ biến qua các phương tiện thông tin đại chúng và qua mạng
Internet.
Các nước phát triển hiện đang ráo riết mở rộng việc tin học hố trong
tồn xã hội cịn việc tự động hố sản xuất đang được thực hiện bằng hai con
đường: thứ nhất là "tái cơng nghiệp hố", tức là áp dụng các cơng nghệ cao để
hiện đại hố nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế của các ngành công nghiệp vốn

16


đã được cơ khí hố ở trình độ cao; thứ hai là tạo ra ngay những ngành cơng
nghiệp mới có trình độ hiện đại.
Ở các nước chậm và đang phát triển, do cơng nghệ thơng tin địi hỏi
tương đối ít vốn đầu tư, lại có thể áp đụng được ngay để cải tiến cơng tác
quản lý, nâng cao trình độ dân trí, cải thiện đời sống - những động lực quan
trọng để phát triển kinh tế - nên nó cũng rất được quan tâm khai thác, tuy mức
độ không được cao như ở các nước phát triển.

Nước ta tiến lên từ một nền kinh tế nông nghiệp thủ công, theo đường
lối cơng nghiệp hố, hiện đại hố mà. Đảng ta đã chỉ ra, nhằm xây dựng đất
nước cơ bản trở thành nước công nghiệp sau khoảng 20 năm nữa. Thực hiện
cơng nghiệp hố, có nghĩa là phải chuyển cho được nền sản xuất thủ cơng lên
cơ khí - tức là thực hiện cuộc cách mạng công nghiệp mà các nước phát triển
trước đây đã tiến hành trong gần 200 năm - đồng thời phải tranh thủ hiện đại
hoá từng bộ phận trong sản xuất, thực hiện một số bộ phận trong nội dung
cuộc cách mạng khoa học - công nghệ và cần tận dụng lợi thế về khả năng tri
thức của nhân dân để phát triển công nghệ thông tin nhằm, một mặt, tăng
năng suất, chất lượng lao động, cải thiện đời sống, mặt khác, tranh thủ xuất
khẩu phần mềm để góp phần tích luỹ vốn.

3. Vai trị của khoa học kỹ thuật công nghệ với nền kinh tế
Việt Nam
Tại Hội nghị tồn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII và Đại hội VIII, Đảng ta
đã chỉ rõ nguy cơ tụt hậu về kinh tế là một trong 4 nguy cơ của đất nước. Các
nước công nghiệp phát triển, các nước công nghiệp mới đều nhận thức rằng
tụt hậu về kinh tế đối với một quốc gia chính là do tụt hậu về phát triển
KH&CN, vì các nước này đều xác định rằng CNH phải dựa vào KH&CN.
Đây chính là quá trình vận dụng các thành tựu KH&CN để bảo đảm năng

17


suất, chất lượng và hiệu quả, bảo đảm chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
tăng nhanh các ngành sản xuất có hàm lượng KH&CN cao.
Ngày nay, nền kinh tế thế giới đang có xu hướng tồn cầu hóa. Có nhiều
nhân tố thúc đẩy tiến trình đó như: Sự phát triển của lực lượng sản xuất đã
vượt ra khỏi phạm vi của một nước và trở thành nhân tố quốc tế hóa; sự phát
triển của nền kinh tế thị trường; sự hình thành khu vực mậu dịch tự do; sự

xuất hiện của các công ty đa quốc gia; bước nhảy vọt của công nghệ thông tin
v.v... Chúng ta đang đứng trước nhu cầu hội nhập và hội nhập bình đẳng với
các nước, đã có những bước tiến cơ bản ban đầu trong quá trình hội nhập.
Tháng 7/1995, chúng ta đã là thành viên của ASEAN, tháng 10-1998 chúng ta
gia nhập APEC và tới đây sẽ gia nhập AFTA và WTO. Điều đó địi hỏi
KH&CN phải chuẩn bị lực lượng và đất nước phải có một tiềm lực KH&CN
và một năng lực nội sinh vững chắc, đủ mạnh để tham gia bình đẳng vào q
trình hội nhập đó và để khơng bị phụ thuộc vào nước ngoài.
Chúng ta tiến hành CNH, HĐH trong những điều kiện khác với nhiều
nước trong khu vực và trên thế giới. Đó là: Thu nhập bình quân đầu người ở
mức thấp, 80% dân số sống ở địa bàn nông thôn, dự trữ tài nguyên và lao
động rẻ cũng khơng cịn là lợi thế so sánh đáng kể, đồng thời tiềm năng trí tuệ
của đất nước cũng khơng phải dồi dào và cịn nhiều hạn chế. Trong khi đó,
nếu muốn phấn đấu cơ bản trở thành một nước cơng nghiệp vào năm 2020 thì
trong nhiều năm tốc độ tăng trưởng phải duy trì ở mức cao, đồng thời với việc
bảo đảm tăng trưởng kinh tế là sự bảo đảm phát triển bền vững và bảo đảm
công bằng xã hội. Đây thực sự là những thách thức lớn để giữ vững định
hướng XHCN trong quá trình phát triển.
Vì vậy, toàn Đảng, toàn dân phải dốc mọi sức lực vật chất, tinh thần, trí
tuệ, phát huy cao độ mọi năng lực nội sinh và tiềm năng của các thành phần
kinh tế để giải phóng và phát triển lực lượng sản xuất, thực hiện từng bước

18


tăng trưởng kinh tế gắn với tiến bộ và công bằng xã hội, đồng thời tranh thủ
tối đa môi trường quốc tế thuận lợi để vượt qua những khó khăn thử thách
trước mắt, phải có cách đi khơn ngoan để tránh tối đa những hậu quả tiêu cực
mà các nước đi trước đã trải qua. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 khóa VII
đã chỉ rõ: Từ nay đến năm 2000, chúng ta lấy nhập cơng nghệ là chính, đi

thẳng vào cơng nghệ hiện đại. Đó là những cơng nghệ tiến tiến và công nghệ
cao dựa vào thành tựu mới nhất của khoa học hiện đại như công nghệ thông
tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu, công nghệ gia cơng chính xác
trong chế tạo máy và tự động hóa. Các cơng nghệ này có tác dụng làm chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tạo ra nhiều ngành cơng nghiệp mới có hàm
lượng KH&CN và giá trị gia tăng cao, được sử dụng để xây dựng các kết cấu
hạ tầng quan trọng nhất và để phát triển các sản phẩm xuất khẩu mũi nhọn có
năng lực cạnh tranh trên thị trường quốc tế, tạo ra tăng trưởng nhanh về kinh
tế, tạo ra việc làm những ngành nghề mới xuất phát từ KH&CN, góp phần
nâng cao đời sống của nhân dân và từng bước hình thành năng lực cơng nghệ
của quốc gia.
Trong những năm qua, thành tựu đạt được trong một số ngành kinh tế,
đặc biệt là bưu chính viễn thơng, dầu khí, xây dựng, giao thơng v.v.. đã chứng
tỏ rằng chủ trương lấy nhập cơng nghệ là chính là hoàn toàn đúng. Tuy nhiên,
trong khi chú ý ưu tiên phát triển các ngành công nghệ cao, cần chú ý phát
triển các công nghệ truyền thống và công nghệ thích hợp một cách hài hịa để
tạo ra tính đa dạng về công nghệ và giải quyết việc làm. Do đó, cần lưu ý kết
hợp nhập cơng nghệ, thích nghi công nghệ với việc đẩy mạnh nghiên cứu
triển khai ở trong nước, để tạo ra năng lực nội sinh, tiến tới làm chủ công
nghệ, sáng tạo ra công nghệ của chính bản thân mình.
Sắp tới, nhiệm vụ quan trọng của KH&CN là tập trung thực hiện tốt
Nghị quyết Trung ương 6 (lần 1) khóa VIII về thực hiện CNH, HĐH nơng
nghiệp và nơng thơn. Bộ Chính trị đã có chỉ thị để ban cán sự Đảng các bộ,
19


ngành ở Trung ương và địa phương xây dựng chương trình hành động thực
hiện Nghị quyết. Vì vậy, địa bàn quan trọng để các nhà khoa học thể hiện tài
năng của mình trong những năm trước mắt chính là khu vực nông thôn thông
qua việc áp dụng các thành tựu KH&CN vào sản xuất và đời sống một cách

rộng rãi. Do đó Bộ KH,CN&MT cần có kế hoạch huy động lực lượng cán bộ
KH&CN ở các viện nghiên cứu, trường đại học, doanh nghiệp và tổ chức thực
hiện tốt chương trình hành động đã được xây dựng, trong đó cần có sự quan
tâm thích đáng theo sự phân cơng của Chính phủ đối với 1000/1715 xã nghèo
đói thuộc địa bàn các tỉnh khác nhau trong cả nước.

20



×