Tải bản đầy đủ (.docx) (35 trang)

Tiểu luận môn dịch vụ công ( tl7 )

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (157.53 KB, 35 trang )

Trang 1
TIỂU LUẬN
MÔN: DỊCH VỤ CÔNG
Đề tài: “Xã hội hóa dịch vụ y tế tại TPHCM - thực trạng và
giải pháp”.
LỜI NÓI ĐẦU
Trong tất cả các chính sách phát triển đất nước thì chính sách xã hội hóa dịch vụ
công cộng được xem chính sách mang tầm quan trọng chiến lược hành đầu của Đảng và
Nhà nước ta. Trong chính sách xã hội hóa dịch vụ công nói chung thì chính sách xã hội
hóa y tế là chính sách được đưa vào một trong ba chính sách đi đầu của đất nước đó là
giáo dục, y tế, văn hóa. Vì đây là chính sách phát triển đất nước trong thời kỳ mới – thời
kỳ hội nhập nâng cao đời sống nhân dân cải thiện dịch vụ công cộng xã hội.
Thực trạng xã hội hóa dịch vụ y tế hiện nay đang còn nhiều bất cập, cần có những
phương hướng giải pháp đưa ra để nâng cao chất lượng của ngành mà chính sách của
Đảng và Nhà nước là phương hướng giải quyết hàng đầu cho những tồ tại này. Tuy nhiên,
những chính sách của Đảng và Nhà nước đưa ra đã phù hợp và sát với thực tiễn hay chưa?
Có mang lại hiệu quả hay không? Có được người dân và toàn thể xã hội ủng hộ hay
không? đó lại là một chuyện, một vấn đề khác. Chính vì lẽ đó, chúng tôi xin viết về đề
tài “Xã hội hóa dịch vụ y tế – thực trạng và giải pháp” nhằm tìm hiểu và đưa ra những
nhận xét đúng đắn hơn, một cách nhìn sâu rộng hơn. Nhằm góp phần vào công cuộc xây
dựng và bảo vệ tổ quốc nói chung, chính sách phát triển y tế nói riêng và cụ thể hơn nữa
là chính sách xã hội hóa dịch vụ y tế trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh. Và nhất là góp
phần vào mục tiêu phát triển đất nước, xây dựng một tổ quốc xã hội chủ nghĩa dân giàu
nước mạnh xã hội công bằng dân chủ văn minh – một xã hội mà mọi người sống trong ấm
no, hạnh phúc, đời sống được nâng cao nhất là trong việc chăm sóc sức khỏe.
Đây không phải là một đề tài mới mẻ, tuy nhiên có nhiều vấn đề khó khăn trong
lúc giải quyết, bên cạnh đó xã hội luôn luôn vận động và phát triển nên chính sách cũng
như ngành y tế luôn thay đổi vì vậy khi phân tích không thể bỏ qua sai sót, kính mong
quý giảng viên và bạn đọc có những đóng góp để cho bài viết được hoàn thiện hơn. Xin
chân thành cảm ơn!
Trang 2


NỘI DUNG CHÍNH
Trải qua các giai đoạn lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng xã hội chủ
nghĩa, thống nhất đất nước và phát triển kinh tế xã hội, ngành Y tế đã có những đóng góp
to lớn trong sự nghiệp chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân.
Từ sau thời kỳ "Đổi mới", hệ thống y tế Việt Nam đã có nhiều thay đổi: nhiều cơ
sở điều trị thiếu kinh phí, quy định thu một phần viện phí, xoá bỏ bao cấp ở tuyến xã, hệ
thống cung ứng chăm sóc y tế được đa dạng hóa với thành phần cung ứng thuốc và dịch
vụ y tế tư nhân “Pháp lệnh hành nghề Y Dược tư nhân” đã được ban hành năm 1993.
Nhà nước cũng đã đưa ra các quy định về miễn giảm phí cho các đối tượng chính sách:
người nghèo, người có công với nước, bà mẹ Việt Nam anh hùng Ngày 21/8/1997
Chính phủ đã có “Nghị quyết 90/CP về phương hướng, chủ trương xã hội hoá các hoạt
động văn hoá, giáo dục và y tế; Nghị định số 73/1999/NĐ-CP về chính sách khuyến khích
xã hội hoá đối với các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hoá thể thao”. Ngày 22
tháng 1 năm 2002, Ban Chấp hành trung ương Đảng đã ra chỉ thị số 06-CT/TW về củng
cố và hoàn thiện mạng lưới y tế cơ sở. Trong đó chỉ thị có nêu rõ trách nhiệm của các
ngành, đoàn thể trong việc huy động xã hội tham gia xây dựng, củng cố và hoàn thiện
mạng lưới y tế cơ sở.
Thực tiễn thực hiện chủ trương xã hội hoá sự nghiệp chính sách bảo vệ sức khỏe
nhân dân trong nhiều năm qua đã thu được nhiều kết quả nhất định. Đó là huy động các
nguồn lực tài chính cho y tế, là đa dạng hoá các loại hình dịch vụ chăm sóc sức khoẻ, đặc
biệt là phát huy tính chủ động, sáng tạo của các địa phương, các ngành, các đoàn thể xã
hội và toàn thể nhân dân tham gia vào nhiệm vụ chăm lo sức khoẻ. Yếu tố con người là
then chốt đã được đưa lên hàng đầu.
Tuy nhiên, hoạt động của y tế cơ sở ở nhiều nơi, nhiều lúc còn chưa được như
mong muốn. Nhu cầu và yêu cầu của người dân chưa được đáp ứng, đặc biệt đối với
người nghèo và người dân ở các vùng sâu và vùng xa. Sự phân hoá giầu nghèo nhanh
chóng đã giảm khả năng tiếp cận với các dịch vụ y tế của người nghèo. Ngoài nguyên
nhân về đầu tư kinh phí cho hạ tầng và trang thiết bị, có lúc, có nơi nhận thức chưa đúng,
Trang 3
chưa đầy đủ bản chất và nội dung của xã hội hoá trong công tác chỉ đạo, điều hành chăm

sóc sức khoẻ cho nhân dân. Vẫn còn một bộ phận nhân dân và lãnh đạo hiểu xã hội hóa y
tế đơn giản chỉ là sự huy động đóng góp của nhân dân thông qua các chính sách về thu
một phần viện phí và bảo hiểm y tế. Không ít nơi hiểu xã hội hoá là thu tiền sử dụng máy
móc, thiết bị y tế đắt tiền, máy đặc trị ("máy xã hội hoá"), là thu tiền giường bệnh
("giường bệnh xã hội hoá"), là tư nhân hoá các dịch vụ y tế
Việc nghiên cứu thực trạng và xây dựng mô hình huy động xã hội cho y tế nhằm
đảm bảo công bằng và hiệu quả trong chăm sóc sức khỏe là điều cần thiết.
I. NHẬN BIẾT VẤN ĐỀ
Từ khi giải phóng đất nước năm 1975 đến nay, đất nước ta đang gặp nhiều khó
khăn trên tất cả các lĩnh vực kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng. Trong đó có vấn đề về y
tế, đặc biệt là chính sách xã hội hóa dịch vụ y tế trong toàn lãnh thổ.
Nhận biết vấn đề và phản ứng kịp thời là một trong những phẩm chất quan trọng
hàng đầu của mọi quốc gia, mọi tổ chức và mọi cơ thể sống trong cuộc đấu tranh để sinh
tồn và phát triển. Thế nhưng, trên thực tế, không phải chủ thể nào cũng có được phẩm
chất quan trọng đó. Vẫn thường xẩy ra những trường hợp sau đây:
- Không nhận biết vấn đề đang phát sinh;
- Nhận biết vấn đề quá chậm;
- Hiểu sai vấn đề.
Trường hợp thứ nhất là không phát hiện ra con bệnh; trường hợp thứ hai là phát
hiện ra con bệnh quá muộn; trường hợp thứ ba là chẩn đoán sai bệnh. Hậu quả của các
trường hợp này, có lẽ, đã rõ và ai cũng biết.
Việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật là một trong những cách phản ứng của
Nhà nước đối với những vấn đề đặt ra trong cuộc sống. "Làm luật phần nào đó cũng
giống như bốc thuốc, phải hiểu đúng bệnh mới bốc đúng thuốc" (Vũ Mão –Tạp chí Cộng
sản số 8-1995., 5-6.)
Tuy nhiên, đến nay chúng ta vẫn chưa có được một cơ chế và một hệ thống các
tiêu chí tương đối phát triển và khoa học để nhận biết các vấn đề đang phát sinh trong
cuộc sống. Hiện nay, chúng ta nhận biết các vấn đề chủ yếu thông qua các số liệu thống
kê (bỏ qua sự băn khoăn về mức độ chính xác của các số liệu này), báo cáo tổng kết của
Trang 4

các cơ quan chức năng, báo cáo giám sát thanh tra bộ giáo y tế và ý kiến cử tri, dư luận xã
hội, thông tin trên các phương tiện truyền thông đại chúng, khiếu nại và tố cáo của công
dân, cũng như của phản ánh của bệnh nhân v.v Liên quan đến vấn đề này, chúng tôi cho
rằng các buổi thảo luận của bộ y tế tại Hội trường về tình hình thực hiện nhiệm vụ năm
trước và phương hướng, nhiệm vụ năm sau của đất nước mà cụ thể là thực hiện nhiệm vụ
xã hội hóa dịch vụ y tế là diễn đàn quan trọng hàng đầu để nhận biết các vấn đề đang
được đặt ra đối với chúng ta. Tuy nhiên, cách thảo luận hiện nay vẫn còn tương đối dàn
trải. Có lẽ, cần thảo luận tập trung hơn để làm rõ các vấn đề của đất nước.
Sau khi đã làm rõ các vấn đề cũng cần có những công đoạn xử lý tiếp theo nữa mới
biến được việc thảo luận của Bộ Y tế tại Hội trường thành một mắt xích có nghĩa trong
quy trình ban hành các quyết định, chính sách của Nhà nước ta trong vấn đề y tế.
Trong bước đầu tiên của công đoạn phân tích chính sách, khả năng phân biệt giữa
hiện tượng và vấn đề là rất quan trọng. Trên thực tế, điều dễ thấy là các hiện tượng - các
biểu hiện bề ngoài của vấn đề, chứ không phải vấn đề. Ví dụ, nhiều bệnh viện mở ra sao
lại không có bệnh nhân mà có một số trường lại có quá nhiều người bệnh đến khám, đó
chỉ là hiện tượng của vấn đề còn cụ thể là chất lượng khám chữa bệnh cũng như cơ sở vật
chất trang thiết bị của các bệnh viện mới là vấn đề chính. Một ví dụ nữa là tôm, cá chết
hàng loạt trên các sông, hồ chỉ là hiện tượng, còn ô nhiễm nước, có thể, mới là vấn đề.
Tương tự, đầu tư trong nước rất thấp chỉ là hiện tượng. Vấn đề chính ở đây, theo chúng
tôi, có thể, là vấn đề về lòng tin (sự lo lắng khi khám bệnh tại các bệnh viện không có uy
tín hay mới mở, sợ phải đóng viện phí cao mà được khám, chữa bệnh đã đúng chuẩn
chưa?). Ngoài ra, cũng có thể còn có một số vấn đề khác như nền kinh tế nước ta phát
triển còn chậm, nhân dân còn nghèo, thị trường vốn không phát triển; kỹ năng đào tạo còn
hạn chế; hệ thống thông tin không phát triển Nếu giải pháp chúng ta đưa ra không nhằm
vào việc giải quyết vấn đề nói trên, thì khó lòng thúc đẩy được sự phát triển của ngành Y
tế.
Xây dựng một chính sách xã hội hóa dịch vụ y tế hướng trọng tâm vào việc giải
quyết các vấn đề đang đặt ra đối với đất nước nói chung và ngành Y tế nói riêng trong quá
trình phát triển là cách làm thiết thực và hiệu quả.
Trang 5

II. PHÂN TÍCH VẤN ĐỀ
Trong kinh tế - chính trị học, xã hội hoá được hiểu là chuyển cái riêng thành cái
chung, cái cá thể thành cái xã hội; xã hội hoá (ruộng đất) là quá trình chuyển tư hữu thành
công hữu; xã hội hoá (lao động) là quá trình từ hợp tác giản đơn lên trình độ hợp tác có
phân công, chuyên môn hoá trên phạm vi toàn xã hội. Trong xã hội học và tâm lý, giáo
dục học, xã hội hoá là quá trình con người cá thể tiếp nhận các tri thức, chuẩn mực và giá
trị để trở thành một thành viên đầy đủ của xã hội, tức là quá trình chuyển hoá hệ thống tự
nhiên - sinh vật thành hệ thống xã hội - văn hoá để trở thành con người xã hội.
Xã hội hóa là vận động và tổ chức sự tham gia rộng rãi của nhân dân, của toàn xã
hội vào hoạt động cung cấp dịch vụ công nhằm từng bước nâng cao mức hưởng thụ về
dịch vụ của nhân dân.
Xã hội hóa dịch vụ y tế là tổ chức vận động sự tham gia của các tổ chức đoàn thể
trong xã hội cũng như các nhà đầu tư vào việc cung cấp dịch vụ y tế dẻ từng bước nâng
cao dịch vụ này góp phần phục vụ mức hưởng thụ dịc vụ và nâng cao sức khỏe cho nhân
dân.
1. Cơ sở pháp lý cho việc xã hội hóa ngành y tế
Một số văn bản chủ yếu liên quan đến chủ trương xã hội hóa y tế:
- Đối với y tế ngoài công lập, ngoài các lĩnh vực thuế, đăng ký kinh doanh, các quy
chế chuyên môn y, dược… việc quản lý nhà nước về y tế tư nhân có pháp lệnh hành nghề
y dược tư nhân và các văn bản hướng dẫn thực hiện.
- Xã hội hóa y tế thực hiện theo Nghị quyết 90/NĐ-CP năm 1997, Nghị quyết
05/NQ-CP năm 2005, Nghị định 53/2006/NĐ-CP năm 2006 (thay thế Nghị định
73/1999/NĐ-CP năm 1999)
- Quyền tự chủ, chịu trách nhiệm theo Nghị định 43/2006-NĐ-CP năm 2006.
- Chỉ thị 06/CT-TW của Ban Bí thư TW về tăng cường mạng lưới y tế cơ sở
- Các văn bản chuyên biệt được nêu theo từng vấn đề.
2. Thực trạng y tế
Từ khi thực hiện đường lối đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng, với nỗ lực to lớn
của toàn dân tộc, nước ta đã phát triển toàn diện trên tất cả các lĩnh vực, trong đó có
ngành y tế. Sau nhiều năm thực hiện Chiến lược phát triển ngành y tế, y tế nước ta đã

Trang 6
từng buớc phát triển rõ rệt về quy mô, đa dạng về loại hình khám chữa bệnh cũng như các
bệnh viện mọc lên rất nhiều, nhất là bệnh viện tư nhân và các phòng khám tư phát triển
rất mạnh mẽ. các bệnh viện không những càng nhiều về chủng loại và các loại hình khám
chữa bệnh cũng được chú ý đến nhất là chất lượng ngày càng nâng cao. Đội ngũ y, bác sĩ
ngày càng nhiều và có trình độ cao, chuyên môn sâu. Nhờ có khoa học công nghệ mà
dụng cụ khám, chữa bệnh hiện đại góp phần nâng cao trong công tác của ngành y tế và
cũng nhờ vậy mà ngành y tế đã đật được những thành tựu rất to lớn trong nhiều năm qua.
Tuy nhiên, chiến lược xã hội hóa dịch vụ y tế cũng bộc lộ nhiều hạn chế và yếu
kém: chất lượng khám chữa bệnh nhìn chung còn thấp, chưa theo kịp đòi hỏi nhu cầu phát
triển kinh tế xã hội của đất nước cũng như những đòi hỏi của người dân; cơ chế quản lý
của Nhà nước đối với hệ thống y tế và sự quản lý của các bệnh viện còn nhiều bất hợp lý
kéo dài, chưa tạo ra động lực đủ mạnh để phát huy năng lực sáng tạo và sự tự chịu trách
nhiệm của đội ngũ y, bác sĩ. Các bệnh viện mọc lên rất nhiều nhưng chất lượng quá kém
so với nhu cầu, khoa học công nghệ không được đầu tư, đội ngũ y, bác sĩ tay nghề chưa
cao, phòng bệnh quá chật hẹp, cơ sở vật chất quá tồi tàn, mà trong khi đó lượng người có
nhu cầu khám chữa bệnh và ở lại bệnh viện để điều trị lại quá đông. Khi nhu cầu của
người dân tăng cũng là lúc mà các dịch vụ ăn theo như các phòng khám tư nhân, các hiệu
thuốc ngày càng nhiều nhưng chất lượng thì rất kém, chưa kể đến nhân dân phải dùng
thuốc kém chất lượng, thuốc giả,… mà cụ thể rất rõ ngay tại thành phố Hồ Chí Minh.
Chính vì vậy, việc xã hội hóa dịch vụ y tế là một vấn đề cần phải quan tâm theo
sát, quản lý, kiểm tra giám sát chặt chẽ để ngành y tế cả nước nói chung và thành phố Hồ
Chí Minh nói riêng để có một bước phát triển đầy bền vững và chất lượng.
Hiện nay, ngành y tế đang có nhiều chuyển đổi để đáp ứng được yêu cầu bảo vệ,
chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa. Từ cơ chế quản lý y tế mang nặng dấu ấn của thời bao cấp đang được chuyển
sang cơ chế tự chủ cung ứng dịch vụ công ích, có đủ quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về
thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính. Đẩy mạnh chủ trương xã hội
hóa nhằm huy động mọi nguồn lực để đầu tư cho y tế, tạo điều kiện cho ngành y tế phát
triển nhanh hơn và chất lượng cao hơn. Gia nhập WTO vừa là thách thức cũng vừa là cơ

hội cho ngành y tế, vừa phát triển và vừa hội nhập. Do đó đã có những hạn chế trong lĩnh
Trang 7
vực quản lý, chính sách, chất lượng khám chứa bệnh, bảo hiểm y tế, thủ tục hành chính về
đầu tư, cơ chế chuyển đổi từ cơ sở công lập thành cơ sở ngoài công lập… và đòi hỏi
ngành y tế và những ngành có liên quan phải nổ lực nhiều hơn, cùng phối hợp thật nhịp
nhàng mới theo kịp sự phát triển.
Nội dung giám sát được sắp xếp thành ba nhóm vấn đề: Y tế công lập, Y tế ngoài
công lập và cuối cùng là những khó khăn, vướng mắc.
2.1. Y tế công lập
Hiện nay, trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh các bệnh viện công lập cũng như
dân lập phát triển rất mạnh, nhưng đáng chú ý đầu tiên là các bệnh viện công lập. trên
thực tế ta thấy, bệnh viện công là những bệnh viện lớn và rất được mọi người tin tưởng và
timg đến. không chỉ được khám và chữa trị chuẩn mà sự phục vụ cũng rất tận tình và chu
đáo. Cũng vì những ưu điểm này mà bệnh viện công đã thu hút rất đông bệnh nhân đến
đây, điều đó đã làm cho sự ùn tắc tại các bệnh viện, số bệnh nhân thì đông mà không đủ
phương tiện, cơ sở vật chất đáp ứng cho nhu cầu của bệnh nhân. Tình trang hai bệnh nhân
phải nằm trên một giường bệnh là chuyện bình thường, chưa kể đến ngoài hành lang cũng
phải trải chiếu để ở lại điều trị. Cũng do số lượng đông đúc mà xẩy ra tình trạng “thiếu
thầy”, một bác sĩ phải điều trị chăm sóc cho rất nhiều bệnh nhân nên đã kéo theo tình
trạng kém chất lượng trong các bệnh viện công.
Cũng vì những điều này đã đưa ra những câu hỏi là làm sao để đáp ứng tốt hơn cho
dịch vụ y tế, làm sao cho người dân khỏi chụi cảnh mệt nhọc khi vào bệnh viện, có cần
phải xã hội hóa y tế công hay không? Đó cũng là những câu hỏi mà đang có rất nhiều dư
luận khác nhau. Tuy nhiên, hiện nay chúng ta đã xã hội hóa một phần dịch vụ y tế công.
Một số bệnh viện đã cổ phần hóa cho tư nhân đầu tư vào, cho các cán bộ công nhân viên
chức góp vốn để đầu tư.
* Mô hình dịch vụ y tế trong Bệnh viện công:
Từ năm 1989 trở về trước, ngân sách nhà nước cung cấp gần như toàn bộ nguồn tài
chính cho hoạt động của các cơ sở y tế công lập, người bệnh được khám, chữa bệnh
không phải trả tiền. Nhưng do nguồn ngân sách nhà nước còn hạn hẹp, không đảm bảo

được nhu cầu chi tối thiểu của ngành y tế, cơ sở vật chất xuống cấp, trang thiết bị chuyên
môn lạc hậu, chất lượng khám, chữa bệnh giảm sút, đời sống cán bộ công chức còn nhiều
Trang 8
khó khăn. Trước tình hình đó, Ủy ban nhân dân Thành phố có công văn số 6212/UB-
NCVX ngày 29 tháng 12 năm 1994 về việc giải quyết khó khăn đời sống cho nhân viên y
tế và Liên sở Y tế - Tài chính – Lao động Thương binh và Xã hội có công văn số 1077/LS
ngày 10 tháng 7 năm 1995 hướng dẫn việc tổ chức các hoạt động dịch vụ y tế trong các
cơ sở khám chữa bệnh của ngành y tế Thành phố. Các đơn vị trực thuộc của ngành Y tế
thành phố đã triển khai thực hiện nhiều loại hình dịch vụ y tế có hiệu quả như sau:
- Mô hình Phòng khám, chữa bệnh ngoài giờ: Tất cả các cơ sở y tế từ tuyến Thành
phố đến Quận/Huyện đều tổ chức các hoạt động dịch vụ y tế ngoài giờ hành chính, nhằm
đáp ứng kịp thời nhu cầu khám chữa bệnh cho nhân dân đồng thời giải quyết khó khăn
đời sống cho cán bộ viên chức y tế. Trước khi tổ chức đơn vị phải xây dựng phương án
hoạt động gởi Sở Y tế; các hoạt động dịch vụ y tế không được ảnh hưởng đến việc hoàn
thành các nhiệm vụ chính trị được giao; các hoạt động dịch vụ phải đảm bảo các tiêu
chuẩn về chất lượng, kỹ thuật theo tiêu chuẩn chung của ngành y tế.
- Mô hình giường dịch vụ: Được thực hiện ở nhiều bệnh viện, bệnh nhân được
chăm sóc, điều trị về chuyên môn theo giá viện phí qui định của nhà nước, nhưng nếu có
sử dụng dịch vụ giường bệnh theo yêu cầu phải chi trả cho bệnh viện theo giá thỏa thuận.
Toàn bộ số tiền thu được của các giường bệnh theo thỏa thuận này đều được nộp vào
nguồn thu một phần viện phí chung của bệnh viện và sử dụng theo qui định của nhà nước.
Số giường bệnh theo giá thỏa thuận không được chiếm quá 30% số giường bệnh trong chỉ
tiêu kế hoạch được giao. Cũng chính vì vậy mà giường dịch vụ cho người dân không đáp
ứng đầy đủ khiến cho những người muốn mình được phục vụ tốt hơn cũng không được
thực hiện.
- Mô hình dịch vụ sinh, phẫu thuật theo yêu cầu: Bệnh nhân chọn Bác sĩ theo ý
muốn để được hưởng sự chăm sóc của các Bác sĩ giỏi chuyên môn và không phải chờ đợi
lâu, tiền dịch vụ thu của bệnh nhân được trích 1 phần để bồi dưỡng cho bác sĩ được chọn
hoặc cho ê kíp phẫu thuật.
- Mô hình huy động vốn nội bộ để mua máy móc, trang thiết bị: Vay vốn của cán

bộ công chức, quỹ phúc lợi tập thể của đơn vị mua sắm máy móc, trang thiết bị chuyên
môn kỹ thuật hiện đại được thực hiện ở nhiều Bệnh viện của thành phố và tại các Trung
tâm Y tế Quận/Huyện trước khi thực hiện, đơn vị phải lập dự án gởi Sở Y tế trình Ủy ban
Trang 9
Nhân dân Thành phố phê duyệt và tùy theo giá trị mua sắm đơn vị phải đảm bảo thực hiện
đúng thủ tục qui trình treo qui định.
* Một số nguyên tắc chung:
- Giá thu dịch vụ y tế do Giám đốc đơn vị tự quyết định trên cơ sở đảm bảo đầy đủ
các chi phí và có tích lũy.
- Tổng số nguồn thu của các mô hình nêu trên (trừ giường thỏa thuận) được phân
bố như sau:
+ Chi phí tiền thuốc, hóa chất, vật tư tiêu hao, nguyên vật liệu…
+ Chi phí sửa chữa, bảo trì máy móc, trang thiết bị.
+ Chi phí cho hoạt động dịch vụ như: trả công người lao động, chi phí quản lý, văn
phòng phẩm, điện, nước…
+ Trích khấu hao tài sản để hoàn vốn (hoặc lập quỹ phát triển sự nghiệp).
+ Trả lãi suất theo tỷ lệ vốn góp.
+ Nộp đầy đủ các khoản thuế theo qui định hiện hành.
+ Phần thu nhập còn lại: Đối với đơn vị đã thực hiện Nghị định 10/CP thì trích
100% bổ sung vào kinh phí hoạt động. Đối với đơn vị chưa thực hiện Nghị định 10/CP thì
trích 35% bổ sung kinh phí hoạt động và trích 65% bổ sung quỹ khen thưởng, phúc lợi.
- Về quản lý tài chính: đơn vị phải mở đầy đủ sổ sách kế toán để theo dõi khoản
thu này; hạch toán và báo cáo theo qui định; lập đầy đủ chứng từ để kiểm tra, đối chiếu
khi cần; nộp đầy đủ các khoản thuế theo qui định.
* Công tác tài chính trong bệnh viện công:
Nguồn tài chính phục vụ cho hoạt động chi thường xuyên sự nghiệp y tế gồm:
- Nguồn ngân sách nhà nước cấp (trong đó kể cả nguồn viện trợ không hoàn lại)
cho chi thường xuyên.
- Nguồn thu sự nghiệp y tế gồm thu một phần viện phí (kể cả thu Bảo hiểm y tế),
thu phí và lệ phí (y tế dự phòng, vệ sinh môi trường, kiểm nghiệm dược phẩn), học phí

của Trung tâm Đào tạo & Bồi dưỡng Cán bộ Y tế.
- Nguồn thu khác gồm: Thu tiền nhượng máu của Bệnh viện Truyền máu và Huyết
học, nguồn thu tài trợ của tổ chức, cá nhân, nguồn thu sản xuất, cung ứng dịch vụ bổ sung
cho hoạt động của đơn vị.
Trang 10
Tuy nhiên những nguồn thu này chưa đáp ứng được chi trả lương cho cán bộ, nhân
viên trong bệnh viện và tu sửa cở sở vật chất. nó chỉ mới một phần nào góp phần vào
trong công cuộc cải thiện bệnh viện, như vậy thì chưa đáp ứng đầy đủ cho dịch vụ y tế mà
cần phải xã hội hóa hơn nữa để có được dịch vụ tốt hơn cho y tế.
- Đối với Nguồn ngân sách nhà nước cấp:
Nguồn ngân sách nhà nước cấp cho các cơ sở y tế phục vụ cho công tác khám chữa
bệnh, phòng bệnh. Nguồn ngân sách nhà nước cấp (không kể kinh phí mua thẻ bảo hiểm y
tế cho người nghèo) cho ngành y tế ngày càng tăng (năm 2004: 518 tỉ; năm 2005: 651 tỉ,
kế hoạch năm 2006: 720 tỉ); Ngân sách nhà nước cấp cho ngành y tế chiếm khoảng 25% -
30% tổng chi cho công tác khám chữa bệnh
Ngân sách nhà nước chi cho y tế bình quân từ năm 2004 đến năm 2006 khoảng
90.000đ/đầu dân/năm đến 115.000đ/đầu dân/năm (tính trên 6.062.933 dân số theo số liệu
của Cục Thống kê TP) so với năm 1999 – 2000 là 61.000đ/đầu dân/năm.
Về định mức giường bệnh nội trú và phòng bệnh được Ủy ban nhân dân thành phố
giao cho ngành y tế năm 2006 như sau: Tuyến Thành phố: 30 triệu/giường/năm; tuyến
Quận/Huyện: 23,7 triệu/giường/năm. Định mức chi cho phòng bệnh bình quân 13.000
đồng/đầu dân/năm.
- Đối với Nguồn thu sự nghiệp:
Nguồn thu một phần viện phí (kể cả Bảo hiểm y tế): vẫn chiếm tỉ trọng lớn và là
nguồn thu chủ yếu của đơn vị, bình quân cả giai đoạn từ năm 2001 – 2005 chiếm khoảng
60% - 65% trên tổng chi thường xuyên và có xu hướng ngày càng tăng.
Chính sách thu một phần viện phí theo Nghị định 95/CP ngày 27 tháng 8 năm 1994
của Chính phủ đã góp phần quan trọng trong việc bổ sung nguồn kinh phí hoạt động cho
các bệnh viện (năm 2004 thu được 1.114 tỉ đồng; năm 2005 thu được 1.300 tỉ đồng và kế
hoạch năm 2006 là 1.350 tỉ đồng), giúp các Bệnh viện chủ động nguồn tài chính, giảm bớt

phụ thuộc vào ngân sách nhà nước.
Giá thu viện phí theo qui định của Thông tư số 14/TTLB ngày 30 tháng 9 năm
1995 của Liên bộ ban hành từ năm 1995 đến nay đã quá lạc hậu, không còn phù hợp với
thực tế, lại được lấy làm căn cứ để cơ quan bảo hiểm xã hội thanh toán chi phí khám chữa
Trang 11
bệnh cho người có thẻ BHYT dẫn đến tình trạng các cơ sở y tế bội chi ngày càng tăng và
đã ảnh hưởng đến nguồn tài chính của đơn vị.
Ngày 26 tháng 1 năm 2006 Liên bộ Y tế - Tài chính – Lao động Thương binh và
Xã hội ban hành tạm thời khoảng 1.000 biểu giá kèm theo Thông tư số 03/2006/TTLT bổ
sung cho Thông tư liên bộ số 14/TTLB. Sở Y tế đã phối hợp với các Sở ngành có liên
quan trình Ủy ban nhân dân Thành phố chấp thuận theo khung giá trần tối đa và đang tổ
chức xét duyệt biểu giá thu 1 phần viện phí cho từng đơn vị trực thuộc theo qui định phân
tuyến chuyên môn kỹ thuật.
Tại Nghị định số 03/CP; Nghị định số 204/CP và Nghị định 118/CP của Chính phủ
qui định đối với ngành y tế sử dụng tối thiểu 35% số viện phí sau khi trừ thuốc, máu, dịch
truyền, hóa chất để thực hiện lương tăng thêm và Thông tư số 02 của Bộ Tài chính qui
định sử dụng từ nguồn 35% số thu viện phí để chi cho phụ cấp ưu đãi ngành là chưa hợp
lý do giá thu viện phí chưa kết cấu các khoản chi này mà mới chỉ thu 1 phần chi phí trực
tiếp sử dụng cho người bệnh. Do hiện nay chỉ mới thu một phần viện phí nên mức thu
chưa được tính đủ và số thu chưa được bù đắp chi phí mà Bệnh viện đã chi cho người
bệnh, cụ thể mức thu chỉ được tính 1 số chi phí trực tiếp để thực hiện dịch vụ như hóa
chất, test, kít xét nghiệm, phim X quang, vật tư tiêu hao, điện, nước, chưa cho phép thu
tiền lương, khấu hao tài sản cố định, chi phí quản lý… Và số thu viện phí thực chất không
phải tăng thu cho ngành y tế mà toàn bộ số thu này được sử dụng trực tiếp lại cho người
bệnh thông qua việc mua thuốc, máu, hóa chất, dịch truyền, vật tư tiêu hao y tế, trả chi phí
điện, nước, dụng cụ vệ sinh.
Số tiền viện phí thu được chủ yếu là tiền thuốc, máu, dịch truyền, vật tư tiêu hao
của người bệnh sử dụng, chiếm khoảng 60 – 70% tổng số thu viện phí, nếu phải sử dụng
35% số thu để chi lương tăng thêm, mà khoản chi này ngày càng tăng (vì nhà nước tăng
lương tối thiểu hàng năm) thì Bệnh viện sẽ không còn kinh phí để chi trả cho các hoạt

động phục vụ bệnh nhân, sẽ ảnh hưởng đến chất lượng điều trị người bệnh và đơn vị sẽ
tiếp tục xuống cấp, tụt hậu do không có ngân sách để hoạt động.
Nguồn thu viện phí và lệ phí, học phí chiếm khoảng 1% tổng số chi thường xuyên ,
Trang 12
- Đối với nguồn thu khác:
Từ nguồn thu nhượng máu, nguồn thu sản xuất, cung ứng dịch vụ bổ sung cho kinh
phí hoạt động chiếm khoảng 4% tổng chi thường xuyên.
* Việc khám, chữa bệnh cho người nghèo và Cơ chế huy động nguồn lực xã hội
tham gia chăm sóc sức khỏe, bảo trợ cho người nghèo.
Từ năm 1999, Sở Y tế Thành phố đã tham mưu Ủy ban nhân dân Thành phố mua
thẻ bảo hiểm y tế cho người nghèo theo Thông tư 05/1999/TTLT hướng dẫn thực hiện
khám chữa bệnh miễn nộp 1 phần viện phí đối với người thuộc diện nghèo. Đến năm
2002, thực hiện Quyết định số 139/2002/QĐ-TTg ngày 15 tháng 10 năm 2002 của Chính
phủ về việc khám, chữa bệnh cho người nghèo, Sở Y tế đã tích cực phối hợp với các Sở
ngành có liên quan Ủy ban nhân dân Thành phố ban hành Quyết định số 5313/QĐ-UB
ngày 5 tháng 12 năm 2003 công nhân Ban Quản lý khám bệnh, chữa bệnh cho người
nghèo Thành phố Hồ Chí Minh. Việc tổ chức triển khai khám chữa bệnh cho người nghèo
tại Thành phố rất tốt, cơ quan bảo hiểm xã hội đã chi trả chi phí khám chữa bệnh cho đối
tượng này ngày càng tăng nhưng đồng thời hàng năm các cơ sở y tế của Thành phố cũng
phải chi từ nguồn kinh phí hoạt động hạn hẹp của mình cho việc miễn, giảm viện phí cho
đối tượng người nghèo qua các năm như sau:
Mức chi từ nguồn ngân sách để mua thẻ BHYT cho người nghèo hiện nay là quá
thấp, năm 2005 trở về trước là 50.000đ/người/năm; năm 2006 là 60.000đ/người/năm.
Mức chi này chỉ phù hợp với các tỉnh miền núi vì chi phí khám, chữa bệnh còn thấp.
Riêng tại Thành phố Hồ Chí Minh thực hiện chính sách khám chữa bệnh cho người nghèo
theo hình thức bảo hiểm y tế luôn bị bội chi do quyền lợi của người có thẻ BHYT mở
rộng, trong đó có việc người nghèo được thanh toán một số dịch vụ kỹ thuật cao, chi phí
lớn. Mặt khác, các bệnh viện tuyến Quận/Huyện cũng được nâng cấp về kỹ thuật chuyên
môn, làm tăng chất lượng nên người nghèo được phục vụ tốt hơn.
Năm Số thẻ BHYT Số tiền mua Chi phí KCB Bội chi quỹ Miễn giảm VP

Trang 13
thẻ BHYT cho người
nghèo
KCB.NN tại BV
2003 273.134 thẻ 13,656 tỉ 32,515 tỉ 18.859 tỉ 32,681 tỉ
2004 232.371 thẻ 11,618 tỉ 56,200 tỉ 44,582 tỉ 36 tỉ
2005 269.477 thẻ 13,473 tỉ 63,159 tỉ 49,686 tỉ 39,6 tỉ
2006 270.991 thẻ 16,259 tỉ 27,3 tỉ (6 tháng
đầu năm)
2.2. Y tế ngoài công lập
* Số lượng:
Trên địa bàn thành phố các cơ sở hành nghề y dược tư nhân có số lượng quy mô,
hình thức các loại hình hành nghề ngày càng đa dạng và phong phú. Đối với các cơ sở
quy mô lớn, các bệnh viện tư nhân trong thời gian gần đây phát triển nhanh. Các đơn vị tư
nhân được vay vốn từ nguồn Quỹ Đầu tư thành phố, để đầu tư phát triển cơ sở vật chất và
trang thiết bị hiện đại phục vụ cho việc chẩn đoán và điều trị bệnh. Cho đến hiện nay, có
năm nhà đầu tư nước ngoài tham gia xây dựng thành lập Bệnh viện tại thành phố. Tuy
nhiên, hình thức và quy mô chưa nổi bật, chưa thể hiện sự vượt trội so với các đơn vị tư
nhân trong nước.
* Nhân sự:
Các bệnh viện ngoài công lập đăng ký tại Sở Y tế gồm thành viên của Ban Giám
đốc và các trưởng khoa, là những người đã nghỉ việc nhà nước, nghỉ hưu. Các lao động
khác, Bệnh viện tư nhân tự lập danh sách, đăng ký với phòng Lao động Quận Huyện và
xuất trình khi có đoàn kiểm tra, có thể làm toàn thời gian hoặc bán thời gian, hoặc hợp tác
chuyên môn khoa học kỹ thuật. Các bác sĩ là cán bộ, công chức, muốn tham gia hoạt động
chuyên môn y tế tại các cơ sở y tế tư nhân, phải được sự đồng ý của thủ trưởng cơ quan.
Nhân lực ngành y tế, nhất là những chuyên gia y tế giỏi, lực lượng điều dưỡng hiện nay
chưa đáp ứng đủ so với yêu cầu.
* Chất lượng khám chữa bệnh của cơ sở y tế ngoài công lập:
Các cơ sở y tế ngoài công lập đã đầu tư nhiều thiết bị hiện đại: cộng hưởng từ.

Chụp CT, siêu âm 4D, thực hiện các kỹ thuật cao: thụ tinh trong ống nghiệm… nâng cao
Trang 14
trình độ chẩn đoán và điều trị bệnh. Các bác sĩ bệnh viện công lập mở phòng khám ngoài
giờ đã cung cấp cho người dân dịch vụ y tế tại chỗ, giá cả phù hợp, góp phần giảm tải cho
các cơ sở y tế công lập, tăng thu nhập cho thầy thuốc, tạo tiền đề cho phát triển y tế gia
đình.
Tuy nhiên, một số thầy thuốc đã lợi dụng tình trạng này chạy theo lợi nhuận và
không hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Để khắc phục tình trạng “chân ngoài dài hơn
chân trong”, các cơ sở khám chữa bệnh công lập, ngoài công lập phải có quy chế hoạt
động cơ quan và thực hiện nghiêm túc các quy chế chuyên môn. Mọi biểu hiện sai trái
phải được xử lý nghiêm khắc và đủ sức răn đe.
Nhìn lại những buổi tổng kết những đợt kiểm tra cơ sở y tế ở thành phố Hồ Chí
Minh thì chúng ta thấy thực trạng xã hội hóa y tế đang còn nhiều bất cập xẩy ra nhát là y
tế tư nhân.
Tại buổi tổng kết công tác thanh tra năm 2010 của Sở Y tế TPHCM vào ngày 28
tháng 3 đã ghi nhận với gần 14.000 cơ sở, TPHCM được xếp là địa phương có số lượng
hành nghề y dược tư nhân cao nhất nước. Tuy nhiên, công tác quản lý, thanh kiểm tra còn
nhiều bất cập khiến tình trạng vi phạm ngày càng tăng, ảnh hưởng lớn đến sức khỏe người
dân.
Là một trong những địa bàn tập trung nhiều cơ sở hành nghề y dược của TP nhưng
cả năm 2010, Phòng Y tế quận 1 chỉ thanh kiểm tra được 204 cơ sở, trong đó có 109 cơ sở
khám chữa bệnh. Điều đáng nói, quận 1 có không ít cơ sở hành nghề y học cổ truyền
nhưng số lượng được kiểm tra cũng chỉ 5 cơ sở và không có cơ sở nào bị phát hiện vi
phạm!
Tương tự, ở các quận 2, 7, 11, Thủ Đức , số lượng cơ sở hành nghề y dược tư
nhân được thanh kiểm tra trong năm 2010 cũng rất ít và số cơ sở bị phát hiện sai phạm
cũng đếm trên đầu ngón tay.
Nhiều ý kiến thắc mắc, liệu thanh tra phòng y tế các quận huyện có nghiêm túc
trong thực thi nhiệm vụ? Theo đại diện Phòng Y tế quận Thủ Đức, số lượng kiểm tra và
xử phạt ít do phải cân nhắc chỉ ra được những sai phạm để cơ sở “tâm phục khẩu phục”.

Hơn nữa còn nhiều lĩnh vực khác mà UBND quận yêu cầu phải tham gia nên chưa thể
toàn tâm cho công tác kiểm tra hành nghề y dược tư nhân.
Trang 15
Dược sĩ Trần Thị Thanh Loan, Phó Chánh thanh tra Sở Y tế TPHCM, cho biết
trong năm qua đã kiểm tra được 7.786/13.969 cơ sở (thấp hơn năm 2009 tới 258 cơ sở).
Trong đó riêng hành nghề y, vốn dĩ rất nhức nhối trong việc xảy ra nhiều trường hợp tai
biến dẫn đến tử vong, nhưng số lượng cơ sở được thanh tra cũng giảm tới 4% so với năm
2009.
Ghi nhận cho thấy, đã có không ít trường hợp rủi ro đáng tiếc trong hành nghề tại
các cơ sở y tế tư nhân xảy ra gần đây như vụ cắt nhầm buồng trứng của bệnh nhân Phạm
Thị Xuân tại Bệnh viện Đa khoa Phú Thọ (quận Tân Phú), hay vụ mổ mắt gây mù khiến
bệnh nhân là Việt kiều Huỳnh Hữu Thông đã đâm đơn kiện Bệnh viện Mắt Sài Gòn (quận
1), vụ mổ ruột thừa gây tử vong tại BV Đa khoa Hoàn Mỹ
Hầu như tháng nào, Sở Y tế TPHCM cũng nhận được đơn khiếu nại của người
bệnh hoặc thân nhân của họ liên quan đến những rủi ro khám chữa bệnh tại các cơ sở
hành nghề y tư nhân.
Tuy nhiên, đến khi sự việc xảy ra mới có sự “vào cuộc” của lực lượng thanh tra
chuyên ngành. Tuy rằng số cơ sở bị thanh kiểm tra cả năm mới chỉ đạt 55,7% nhưng đáng
báo động là số vi phạm tăng lên thấy rõ. Cụ thể trong số 2.920 cơ sở hành nghề y bị thanh
tra, phát hiện 688 cơ sở sai phạm (tăng 157 cơ sở so với năm 2009). Hay như thanh tra
4.236 cơ sở hành nghề dược, phát hiện 715 cơ sở sai phạm, tăng 83 cơ sở so với năm
2009.
Đặc biệt lo ngại là phần lớn mỹ phẩm hiện chưa được quản lý chặt chẽ trong quá
trình sản xuất kinh doanh khiến mỹ phẩm giả, không rõ xuất xứ và độc hại tràn lan. Trong
số 18 cơ sở mà Sở Y tế TPHCM thanh tra trong năm qua thì 100% vi phạm.
Dược sĩ Trần Thị Thanh Loan cho biết ngoài những vi phạm thường bắt gặp như
không đảm bảo điều kiện vệ sinh, không có bằng cấp chuyên môn, thuốc không có đăng
ký thì nay “lộ diện” thêm những yếu tố đáng lo lắng như quảng cáo hành nghề ngoài
khả năng chuyên môn, cho người nước ngoài “mượn” chứng chỉ hành nghề, bác sĩ hoạt
động chui.

Theo Phòng Y tế quận 10, mặc dù công tác thanh tra hành nghề y dược tư nhân đã
cơ bản toàn diện nhưng hiện vẫn còn một số lĩnh vực chưa được quy định rõ ràng. Chẳng
Trang 16
hạn như lĩnh vực chăm sóc da mặt, sản xuất - kinh doanh trang thiết bị y tế chưa biết
thuộc quyền quản lý của ai.
Thực tế ghi nhận cho thấy hiện rất nhiều cơ sở chăm sóc da mọc lên như nấm, hoặc
công khai hoặc núp bóng dưới các hình thức mát-xa, y học cổ truyền. Đi kèm với săn sóc
da là sử dụng các loại thuốc, mỹ phẩm, sử dụng máy lazer nhưng lâu nay cơ quan thanh
tra y tế chưa hề “đụng tới”, trong khi những lĩnh vực này ảnh hưởng không nhỏ đến sức
khỏe người dân.
Không chỉ vậy, chiều ngày 11 tháng 4 năm 2011, thanh tra Sở Y tế TP.HCM đã sơ
kết thanh tra các cơ sở hành nghề y dược tư nhân trên địa bàn TP. Đã có 952 cơ sở hành
nghề y dược tư nhân được các đoàn thanh kiểm tra, phát hiện 101 cơ sở vi phạm qui chế
hành nghề. Riêng Q.2 và huyện Hóc Môn không phát hiện cơ sở nào vi phạm!
Những vi phạm chủ yếu về hành nghề dược là đa số nhà thuốc vắng mặt dược sĩ;
còn bán thuốc quá hạn sử dụng, thuốc không có số đăng ký lưu hành của Bộ Y tế; nhà
thuốc hoạt động không phép. Vi phạm hành nghề y, chủ yếu là vi phạm vừa khám bệnh
vừa bán thuốc; còn thuốc quá hạn sử dụng; quảng cáo hành nghề quá chức năng cho phép,
vệ sinh vô trùng chưa tốt; phòng nha khoa chỉ có bác sĩ đứng tên, còn người làm là y sĩ
hoặc bác sĩ mới ra trường chưa có giấy phép hành nghề
Điều đó cho thấy là tình trạng y tế tư nhân tại sao có ít bệnh nhân tìm đến và cũng
là một bài toán khó cho việc xã hội hóa dịch vụ y tế.
2.3. Thực trạng mạng lưới y tế cơ sở
Thực hiện Chỉ thị 06/CT-TW của Ban Bí thư TW về tăng cường mạng lưới y tế cơ
sở, ngành y tế thành phố đã xây dựng và củng cố Trung tâm Y tế Quận/Huyện, Trạm Y tế
Phường/Xã về mọi mặt, trong đó đặc biệt chú ý đến việc đầu tư trang thiết bị và nhân sự.
Theo ước tính, khoảng 80% trường hợp đau ốm sẽ được giải quyết có hiệu quả ngay tại
tuyến cơ sở (quận, huyện, phường, xã, thôn), như vậy giảm được sự quá tải của tuyến
trên, là cơ sở để phát triển dịch vụ y tế gia đình.
Nhiều Trung tâm y tế quận, huyện đã được trang bị các máy móc kỹ thuật cao từ

các nguồn vốn khác nhau: ngân sách, vay vốn kích cầu, hợp tác đầu tư. Tuy nhiên vẫn thu
hút chưa nhiều và chưa đáp ứng nhu cầu của nhân dân.
Trang 17
Ngành Y tế thành phố dũng đang mua sắm trang thiết bị cho trạm y tế phường, xã
theo danh mục của Bộ Y tế ban hành để đến năm 2010 đạt chuẩn quốc gia về trang thiết bị
tại trạm y tế phường, xã.
Hiện nay 100% các trạm y tế phường - xã đã có ít nhất 1 bác sĩ, tuy nhiên việc
tuyển nhân sự cho tuyến y tế cơ sở rất khó khăn vì lương thấp và chưa có chế độ đãi ngộ
tương xứng.
2.4. Tình hình thực hiện Bảo hiểm y tế tại các bệnh viện
Bảo hiểm y tế là một chiến lược an sinh xã hội vì mục tiêu cao nhất của Bảo hiểm
y tế là mọi người khi bị bệnh đều phải được điều trị. Người đăng ký tham gia bảo hiểm y
tế ngày càng gia tăng, các cơ sở y tế đã nỗ lực đáp ứng yêu cầu nhằm góp phần thực hiện
bảo hiểm y tế toàn dân trong tương lai. Tuy nhiên vẫn còn một số các vướng mắc:
- Các quy định ban hành không đồng bộ, thay đổi thường xuyên; chi phí dịch vụ y
tế thực hiện theo thông tư 14 quá thấp dẫn đến chất lượng phục vụ người bệnh chưa cao;
Hệ thống bảo hiểm y tế không bố trí nhân sự giải quyết khâu hành chính, nhân viên y tế
phải kiêm nhiệm; vì vậy người dân ngại khám chữa bệnh bằng bảo hiểm y tế.
- Số lượng thẻ đăng ký bảo hiểm y tế ngày càng tăng nhất là việc thực hiện bảo
hiểm tự nguyện, cộng với tình trạng thiếu hụt nhân sự y tế đã dẫn đến sự quá tải ở hầu hết
các cơ sở khám chữa bệnh.
- Phương thức thanh toán giữa cơ quan bảo hiểm xã hộ và cơ sở khám chữa bệnh
còn chậm, nhiều rủi ro cho bệnh viện, chưa khuyến khích bệnh viện tiết kiệm chỉ tiêu và
người bệnh sử dụng hợp lý các dịch vụ y tế.
3. Chính sách xã hội hóa y tế
Thực trạng của ngành y tế từ trước tơi nay, và chiến lược phát triển y tế là một
chiến lược phát triển đất nước nên Đảng và Nhà nước ta đã được ra các biện pháp chính
sách nhằm xây dựng và phát triển một nền y tế tiên tiến và hiện đại hơn.
Năm 1996, Đại hội VIII của Đảng khẳng định: “Các vấn đề chính sách xã hội đều
giải quyết theo tinh thần xã hội hoá. Nhà nước giữ vai trò nòng cốt đồng thời động viên

mọi người dân, các doanh nghiệp, các tổ chức trong xã hội, các cá nhân và tổ chức nước
ngoài cùng tham gia giải quyết những vấn đề xã hội”. Mặc dù đây là lần đầu tiên thuật
ngữ “xã hội hoá” được ghi trong văn kiện của Đảng, nhưng ngay từ năm 1986, cùng với
Trang 18
sự chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế, việc thực hiện xã hội hoá trong lĩnh vực y tế và các
lĩnh vực văn hoá, xã hội khác đã trở thành một định hướng lớn để đổi mới trong các lĩnh
vực này. Đại hội VI của Đảng đã nêu phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm” và
khẳng định vấn đề chăm sóc, bảo vệ sức khoẻ là trách nhiệm và lợi ích thiết thân của mỗi
công dân. Tiếp theo là các chủ trương “Phát triển các hoạt động y tế bằng khả năng của
Nhà nước và của nhân dân” (1991); “đa dạng hoá các hình thức tổ chức chăm sóc sức
khoẻ, trong đó y tế nhà nước là chủ đạo” (1993).
Để chỉ đạo thực hiện chủ trương xã hội hoá, Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản
quan trong, khẳng định hai mục tiêu lớn của xã hội hoá là huy động các nguồn lực của xã
hội, đồng thời tạo điều kiện để toàn xã hội được thụ hưởng thành quả giáo dục, y tế, văn
hoá, thể dục thể thao ở mức độ ngày càng cao. Theo Nghị quyết số 05/2005/NQ-CP, xã
hội hóa trong lĩnh vực y tế bao gồm những nội dung chủ yếu như sau:
Nhà nước tiếp tục tăng đầu tư cho y tế, trong đó bảo đảm ngân sách cho y tế công
cộng, chăm sóc sức khoẻ cơ bản cho các đối tượng chính sách, người nghèo và trẻ em
dưới 6 tuổi. Ưu tiên đầu tư cho hệ thống y tế dự phòng, y tế cơ sở, đặc biệt là ở vùng sâu,
vùng xa, vùng khó khăn, các bệnh viện nhi, khoa nhi, các chuyên khoa ít có khả năng thu
hút đầu tư. Triển khai đề án đào tạo bác sĩ, dược sĩ đại học cho vùng núi phía Bắc, miền
Trung, Tây Nguyên và đồng bằng sông Cửu Long. Ưu tiên đầu tư phát triển nguồn
nguyên liệu dược và sản xuất thuốc trong nước.
Tăng cường các hoạt động chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân. Vận động mọi
người tham gia chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ cho bản thân, gia đình và cộng đồng.
Khuyến khích các cá nhân, tổ chức trong nước và nước ngoài hoạt động từ thiện, cung
cấp, hỗ trợ các thiết bị y tế và hỗ trợ khám chữa bệnh.
Đẩy nhanh tiến độ phát triển và nâng cao chất lượng bảo hiểm y tế; củng cố và mở
rộng bảo hiểm y tế bắt buộc theo hướng đa dạng hoá các loại hình bảo hiểm y tế đáp ứng
nhu cầu của nhân dân; phát triển mạnh bảo hiểm y tế cộng đồng dựa chủ yếu vào sự đóng

góp của người tham gia bảo hiểm, có sự trợ giúp của Nhà nước và các nguồn tài trợ khác;
khuyến khích các loại hình bảo hiểm y tế tự nguyện. Mở rộng diện các cơ sở y tế đăng ký
khám chữa bệnh theo bảo hiểm y tế. Từng bước thực hiện người đóng bảo hiểm y tế tự
lựa chọn cơ sở khám chữa bệnh phù hợp. Nhà nước quy định chế độ thanh toán bảo hiểm
Trang 19
y tế, đồng thời có chính sách ưu đãi đối với các đối tượng chính sách, trẻ em dưới 6 tuổi,
trợ giúp người nghèo, đồng bào dân tộc ít người, vùng khó khăn.
Đổi mới chế độ viện phí trên cơ sở từng bước tính đúng, tính đủ các chi phí trực
tiếp phục vụ bệnh nhân. Từng bước chuyển đổi việc cấp kinh phí hoạt động thường xuyên
cho các cơ sở khám chữa bệnh sang cấp trực tiếp cho đối tượng thụ hưởng dịch vụ y tế do
Nhà nước cung cấp thông qua hình thức bảo hiểm y tế.
Khuyến khích mở bệnh viện, phòng khám tư nhân, bác sĩ gia đình.
Huy động sự đóng góp của cộng đồng xã hội để phát triển các hoạt động sự
nghiệp, từng bước giảm dần bao cấp từ ngân sách nhà nước (NĐ43-2006).
Những nội dung nêu trên cho thấy, xã hội hoá trong lĩnh vực y tế là chủ trương về
sự chuyển đổi cơ chế quản lý có nội dung đa dạng và phức tạp.
Hưởng ứng chính sách của Đảng và Nhà nước, cũng như để nâng cao năng lực
chuyên môn, đáp ứng nhu cầu được chăm sóc, phục vụ sức khỏe của mọi tầng lớp nhân
dân. Sở Y tế TP.HCM đã xây dựng kế hoạch, chuyển đổi mô hình hoạt động của các đơn
vị sự nghiệp y tế công lập trực thuộc từ năm 2007 đến năm 2020. Ba mô hình chủ yếu để
ngành y tế thành phố tuân theo hoạt động là: 100% vốn sở hữu Nhà nước; y tế tư nhân
trong nước và nước ngoài; mô hình phối hợp công tư (trong đó có việc cổ phần hóa
(CPH) bệnh viện).
Theo quy hoạch chuyển đổi các đơn vị trực thuộc Sở Y tế giai đoạn 2007-2009 cho
mô hình hoạt động 100% vốn chủ sở hữu Nhà nước thì Bệnh viện Phụ sản Từ Dũ, bệnh
viện Mắt, Trung tâm Kiểm dịch y tế Quốc tế sẽ là đơn vị tự chủ toàn phần. Còn bệnh viện
Phong Bến Sắn, bệnh viện Nhân Ái, trung tâm Tuyên truyền và giáo dục sức khỏe sẽ là
những đơn vị mà ngân sách đảm bảo toàn bộ kinh phí hoạt động. Ngoài ra, Sở Y tế TP.
HCM cũng quy hoạch thêm 30 đơn vị tự chủ một phần. Dự kiến đến 2015, Sở y tế cơ bản
ổn định việc quy hoạch mô hình xã hội hóa hoạt động cho các đơn vị trực thuộc theo cơ

chế tự chủ tài chính của Nghị định 43/2006/NĐ-CP. Cũng trong năm 2007 này, Sở Y tế
kiến nghị thí điểm chuyển đổi hoạt động theo hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn Nhà
nước 1 thành viên – phi lợi nhuận cho 1 đơn vị bệnh viện chuyên khoa. Đến năm 2010,
tiếp tục kiến nghị mở rộng chuyển đổi mô hình cho các đơn vị đã quy hoạch.
Trang 20
Đối với mô hình phối hợp công tư, năm 2007 Sở Y tế hoàn thành chuyển đổi mô
hình cổ phần hóa bệnh viện Bình Dân và đăng ký kinh doanh đi vào hoạt động theo cơ
chế doanh nghiệp. Đến năm 2010, cho phép mở rộng thực hiện cổ phần hóa bệnh viện.
Dự kiến năm 2020, Sở Y tế hoàn thành chuyển đổi công ty cổ phần cho các đơn vị theo
quy hoạch của ngành. Và cũng trong năm 2007, Sở Y tế trình đề án thí điểm thành lập
“Công ty cung ứng dịch vụ y tế kỹ thuật cao” cho UBND TP phê duyệt. Nếu được chấp
thuận thì Sở Y tế sẽ tiến hành thực hiện thí điểm cho 2 đơn vị là Khoa bán công của bệnh
viện Mắt và Khu Quốc tế xanh của bệnh viện Nhân Dân 115.
Với mô hình hoạt động 100% vốn sở hữu Nhà nước, chủ trương xã hội hóa nhấn
mạnh đến 2 khía cạnh: Đơn vị sự nghiệp công lập hoạt động tự chủ và công ty trách
nhiệm hữu hạn Nhà nước 1 thành viên – phi lợi nhuận.
Về việc tự chủ tài chính không có nghĩa là Nhà nước sẽ giảm bớt gánh nặng ngân
sách. Ngược lại, ngân sách sẽ ngày càng tăng nhưng chủ yếu tập trung cho việc đầu tư
phát triển và củng cố trong lĩnh vực: y tế dự phòng, y tế cơ sở, đào tạo huấn luyện, an sinh
xã hội. Xã hội hóa nhằm cung cấp dịch vụ y tế với chất lượng tốt hơn, chi phí hợp lý, giá
cả phù hợp để phục vụ người bệnh tốt hơn. Từ đó, xóa bỏ cơ chế xin cho, tăng cường
hình thức tự chịu trách nhiệm của giám đốc quản lý đơn vị đó.
Còn mục tiêu của việc định hình công ty trách nhiệm hữu hạn Nhà nước 1 thành
viên - phi lợi nhuận là giao quyền tự chủ hoàn toàn trong việc sử dụng vốn chủ sở hữu,
thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh và khẳng định vai trò của y tế công trong hoạt động của
ngành. Nếu đạt được bảo hiểm y tế toàn dân thì việc chuyển đổi sang mô hình này là hết
sức cần thiết. Vì lúc đó, người dân không còn bị ảnh hưởng nhiều bởi gánh nặng chi phí
chăm lo cho sức khỏe.
Riêng việc cổ phần hóa bệnh viện trong mô hình phối hợp công tư thì được nhiều
người quan tâm hơn so với các hình thức khác trong chủ trương xã hội hóa hoạt động

ngành y tế. Bởi cổ phần hóa sẽ tạo điều kiện cho ngành y tế công phát triển ngang tầm
khu vực, nắm vai trò chủ đạo trong hệ thống y tế. Từ đó, dễ dàng huy động mọi nguồn lực
xã hội cùng tham gia đầu tư, chăm lo sức khỏe cho nhân dân. Cổ phần hóa sẽ giảm bớt
ngân sách trong lĩnh vực khám chữa bệnh để tăng cường đầu tư cho: Y tế dự phòng, tuyến
y tế cơ sở, đào tạo, các cơ sở khám chữa bệnh mang tính đặc thù phục vụ xã hội (Khu
Trang 21
điều trị Phong Bến Sắn, bệnh viện Nhân Ái, Nhiệt đới, Tâm thần, Phạm Ngọc Thạch, Ung
bướu ). Cổ phần hóa sẽ tạo điều kiện để toàn xã hội, đặc biệt các đối tượng chính sách,
người nghèo được hưởng thụ thành quả y tế ở mức độ ngày càng cao. Thuận lợi của mô
hình này là Nhà nước vẫn giữ vai trò chủ đạo với 60% vốn. Nhờ vào khả năng khám chữa
bệnh tốt hơn, bệnh nhân đến nhiều hơn thì càng dễ thu hút đầu tư, phát triển cạnh tranh
với các nước trong khu vực và quốc tế.
Trong mô hình phối hợp công tư thì còn có hình thức các cơ sở cung ứng dịch vụ
ngoài công lập. Với việc cung ứng dịch vụ y tế kỹ thuật cao, ngành y tế có thêm các cơ sở
khám chữa bệnh hiện đại, ứng dụng khoa học, kỹ thuật tiên tiến từ nguồn vốn huy động
trong xã hội. Người nghèo được hưởng thụ các dịch vụ này thông qua chế độ bảo hiểm y
tế và chế độ miễn giảm viện phí.
Tuy rằng cổ phần hóa có nhiều thiết thực trong cuộc sống và mang lại rất nhiều lợi
ích cho nhân dân, tuy nhiên còn rất nhiều khó khăn đang ở phía trước. Đối với mô hình
hoạt động 100% vốn sở hữu Nhà nước thì khó khăn là bộ máy quản lý còn thiếu kiến
thức, kỹ năng và kinh nghiệm trong việc quản lý bệnh viện theo cơ chế tự chủ. Việc thu
một phần viện phí đủ để trang trải các chi phí trực tiếp cho bệnh nhân, không bảo đảm
cho hoạt động thường xuyên khác. Do dó, các đơn vị tự chủ đẩy mạnh hoạt động xã hội
hóa, bù đắp thiếu hụt từ những khoản thu theo quy định. Nhưng điều này lại ảnh hưởng
đối với bệnh nhân nghèo có bảo hiểm y tế, cận nghèo, diện chính sách Cho nên việc quy
định các cơ sở y tế phải sử dụng nguồn thu một phần viện phí để thực hiện điều chỉnh
tăng lương tối thiểu là chưa hợp lý.
Bài toán khó nhất của việc cổ phần hóa là vấn đề xây dựng giá viện phí đầu vào, cổ
tức và giá trị danh hiệu của đơn vị trong giai đoạn chuyển đổi. Theo Sở Y tế thì hiện nay
chưa có hướng dẫn cách tích giá trị danh hiệu cho đơn vị sự nghiệp y tế công lập khi thực

hiện cổ phần hóa. Còn đối với những công ty cung ứng dịch vụ kỹ thuật cao – phi lợi
nhuận cũng gặp khó khăn. Vì về nguyên tắc kinh doanh phải bảo đảm tái đầu tư và cổ tức
cho các cổ đông, như thế mới khuyến khích đầu tư xã hội. Và hình thức này cũng chưa có
mô hình mẫu để tham khảo.
Cần phát huy quyền tự chủ quyết định trong Nghị định 43 và vận dụng Nghị định
53 để mở rộng bệnh viện cũ và hoặc xây thêm bệnh viện mới ngoài công lập hoặc công ty
Trang 22
cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, dù trước mắt việc cổ phần hóa bệnh viện khó được
Chính phủ chấp nhận nhưng về lâu dài cần phải làm. Vấn đề cổ phần hóa bệnh viện sẽ
làm một số người bệnh lo lắng; nhưng nếu không cổ phần hóa thì bệnh viện cứ thường
xuyên quá tải. Lúc đó sẽ phát sinh thêm một số vấn đề rắc rối như thời gian khám, điều trị
bệnh lâu hơn, người bệnh “chạy chọt”, nhờ vả
4. Mục tiêu
Chính sách xã hội hóa dịch vụ y tế của Đảng và Nhà nước nhằm vào các mục tiêu
như tạo bình đẳng về cơ hội cho mọi công dân trong xã hội không phân biệt giàu nghèo.
Khi Hiến pháp nói công dân có quyền đò hỏi những lợi ích chính đáng, thì điều này
không phải chỉ vì lợi ích của cá nhân và gia đình, mà còn vì và trước hết vì lợi ích của cả
quốc gia. Lợi ích của đầu tư nhành y tế không chỉ mang tính chất nội tác, tức có lợi cho
chính người khám, chữa bệnh mà còn mang tính chất ngoại tác, tức đem lại nhiều lợi ích
khác cho cả xã hội. Nhiều công trình nghiên cứu ứng dụng về lợi ích phát triển y tế đã
chứng minh rằng lợi ích ngoại tác của y tế còn cao hơn lợi ích nội tác rất nhiều. Tình
trạng không được chữa bệnh hay không đủ điều kiện để chữa trị không chỉ gây ra thiệt
thòi cho nhân dân - những người mang trên mình những căn bệnh, mà chắc chắn còn để
lại những hậu quả khó lường sau này cho tương lai quốc gia, nhất là giới trẻ nhỏ - mầm
non của đất nước sau này. Bởi rằng, những đứa trẻ lớn lên trong khỏe mạnh, có điều kiện
tiếp xúc với những điều kiện tốt nhất của cuộc sống chắc hẳn sẽ làm được nhiều việc
trong tương lai. Không như những đứa trẻ này, những trẻ em thiếu dinh dưỡng, không
được tiếp cận dịch vụ y tế sẽ làm cho nòi giống đất nước bị thoái hóa dần và ảnh hưởng
rất lớn đến dời sống kinh tế xã hội của đất nước.
Có thể khẳng định rằng Y tế là một thứ lợi ích công, sản phẩm của nó như một thứ

tài sản công. Đảng và nhà nước ta đã xác định mục tiêu cho việc xã hội hóa y tế là một
mục tiêu quan trọng.
5. Thành tựu đạt được
Nhờ có sự đầu tư, mà chủ yếu là xã hội hóa dịch vụ y tế mà từ năm 2009, nhiều
bệnh nhân, nhất là diện bảo hiểm y tế, không khỏi xúc động khi đến khám chữa bệnh tại
BV Nhân dân 115. Không chỉ có cơ ngơi khang trang hơn, phòng ốc được bố trí phù hợp
hơn mà còn là sự phục vụ ngày càng tận tình của đội ngũ y bác sĩ. Ngay như tại khoa
Trang 23
khám đã xây dựng hẳn một quy trình thăm khám tiện ích bằng “số hóa” từ thủ tục khám
đến nhận thuốc, xét nghiệm lâm sàng.
Cũng nhờ sự xã hội hóa y tế và áp dụng kỹ thuật công nghệ cao mà năm 2010, BV
Nhân dân 115 đã đánh dấu sự tiến bộ trong ghép tạng khi lần đầu tiên đội ngũ Khoa Thận-
Niệu đã tự ghép thận thành công mà không nhờ đến chuyên gia nước ngoài, phẫu thuật
nội soi lồng ngực, hay như đã ứng dụng kỹ thuật Penumbra (hút máu ðông) trong ðiều trị
ðột quỵ rất hoàn hảo mà ngay các nýớc trong khu vực nhý Singapore, Thái Lan, Indonesia
vẫn chýa làm ðýợc.
Với nhiệm vụ là bệnh viện chuyên khoa sâu của khu vực phía Nam, năm qua, bệnh
viện Ung bướu TPHCM cũng không ngừng nỗ lực để phát triển các kỹ thuật điều trị. Từ
việc đầu tư máy xạ trị trong suất liều cao đến máy xạ hình xương và các thiết bị tiên tiến
khác đã giúp bệnh viện điều trị có hiệu quả hơn một số căn bệnh ung thư mà lâu nay vốn
dĩ vô phương cứu chữa như ung thư vú, ung thư vòm hầu họng…
Với sự đầu tư về kỹ thuật cao cùng với tay nghề của đội ngũ y bác sĩ ngày càng
tiến bộ, tỷ lệ bệnh nhân kéo dài sự sống và khỏe mạnh được tăng lên.
Thực hiện nhiệm vụ xây dựng ngành y tế thành phố trở thành trung tâm y tế
chuyên sâu của cả nước, định hướng của ngành y tế thành phố là không ngừng ứng dụng
công nghệ cao trong chăm sóc sức khỏe người dân. Nhiều kỹ thuật cao trong các lĩnh vực
lâm sàng, cận lâm sàng được đưa vào điều trị như phẫu thuật tim hở phức tạp, phẫu thật
tim hở cho trẻ dưới 3,5kg, ghép tạng, tái thông động mạch não bằng Actilyse đường tĩnh
mạch và đường động mạch, vi phẫu u tuyến yên, nội soi cột sống trong điều trị thoát vị
đĩa đệm…

Năm qua cũng đánh dấu sự sôi động trong lĩnh vực dược TP. Ngành y tế TP không
chỉ đảm bảo cung ứng đủ thuốc cho công tác điều trị mà còn ổn định cả thị trường giá cả,
thực hiện một cách triệt để các quy chuẩn. Công nghiệp dược của TP với 22 doanh nghiệp
đạt chuẩn thực hành tốt sản xuất (GMP) cung ứng nhiều loại thuốc có chất lượng tốt, đáp
ứng chủ trương tăng cường sử dụng thuốc sản xuất trong nước của Bộ Y tế.
Bên cạnh đó, mạng lưới lưu thông phân phối thuốc được sắp xếp lại. Sở Y tế TP đã
dẫn đầu cả nước về xây dựng và triển khai kế hoạch chấn chỉnh, tiêu chuẩn hóa hệ thống
phân phối thuốc theo lộ trình của Bộ Y tế và chỉ đạo của UBND TPHCM. Đến tháng 12-
Trang 24
2010, toàn TP đã có 521/739 công ty phân phối thuốc đạt chuẩn thực hành tốt phân phối
(GDP) và 1.535/3.743 nhà thuốc được công nhận thực hành tốt bán lẻ (GPP).
Mặc dù năm 2010 có nhiều biến động về giá cả thị trường dược phẩm, song nhờ
công tác quản lý giá thuốc của Sở Y tế TPHCM được chỉ đạo sát sao nên không để xảy ra
tình trạng tăng giá đột biến.
Đó là những thành tựu mà y tế thành phố Hồ Chí Minh đạt được nhờ sự xã hội hóa
dịch vụ y tế. điều này sẽ góp phần nâng cao dịch vụ công xã hội cũng như nâng cao đời
sống nhân dân và thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển.
6. Nhận xét đánh giá
Chính sách xã hội hóa dịch vụ y tế của Đảng và Nhà nước ta có những đóng góp
rất lớn trong phát triển y tế cũng như phát triển Đất nước. luật khám chữa bệnh sáp được
ban hành đó chính là nền tảng định hướng cho sự phát triển sau này. Nó đã có những quy
định cụ thể cho ngành y tế.
Chính phủ cho mở các bệnh viện công hay tư cũng đều mong muốn nâng cao dịch
vụ và chất lượng khám chữa bệnh cho nhân dân. Tuy nhiên, đôi lúc mục đích lại không
đạt được như ý muốn. chính phủ cho phép mở ra thì cần phải có những chủ trương biện
pháp cụ thể hơn trong việc khám chữa bệnh. sự buông lỏng đã làm cho các bệnh viện, cơ
sở y tế sai phạm rất nhiều, thậm chí là tràn lan, sự thu phí quá cao, chất lượng còn yếu
kém trong khám chữa bệnh và quản lý. Chính sách thì rất tốt nhưng lại hiệu lực còn nhiều
hạn chế.
Sự ảnh hưởng của cơ chế thị trường đã đẩy sự liên kết giữa nhà nước và tư nhân

hay các bệnh viện tư với nhau đã gây ra hiện tượng “thị trường hóa” y tế. đây không phải
là điều xấu vì chính sách của chúng ta cũng là xã hội hóa dịch vụ y tế, tuy nhiên đang còn
nhiều bất cập. sự chi phối của đồng tiền mà bỏ qua mục tiêu của y tế. chính sách của
chính phủ cho liên kết nhằm được đảm bảo về cơ sở vật chất cũng như chất lượng khám
chữa bệnh. nhưng bên cạnh ra chính sách thì sự quản lý không chặt đã làm cho các bệnh
viện không thực hiện đúng quy định.
Gần đây dự án cho cơ chế thị trường tác động vào trong các bệnh viện đã gây ra rất
nhiều dư luận và ý kiến khác nhau. Chính sách của Nhà nước là cho các doanh nghiệp hay
các cá nhân trong nước cũng như nước ngoài vào đầu tư trong các bệnh viện hay nói cụ
Trang 25

×