Triết học phật giáo
I. Thế giới quan Phật giáo.
Thế giới quan Phật giáo chịu ảnh hởng của hai luận điểm, thể hiện qua 4 luận
thuyết cơ bản: thuyết vô thờng, thuyết vô ngã, thuyết nhân quả, thuyết nhân
duyên khởi.
1. Thuyết vô th ờng.
Vô thờng là không thờng còn, là chuyển biến thay đổi. Luật vô thờng chi
phối vũ trụ, vạn vật, thân và tâm ta. Sự vật luôn luôn biến đổi không có gì là th-
ờng trụ, bất biến. Với ngũ quan thô thiển của ta, ta lầm tởng sự vật là yên tĩnh,
là bất động nhng thật ra là nó luôn luôn ở thể động, nó chuyển biến không
ngừng. Sự chuyển biến ấy diễn ra dới hai hình thức.
a) Một là Sátna( Kshana ) vô thờng: là một sự chuyển biến rất nhanh, trong
một thời gian hết sức ngắn, ngắn hơn cả một nháy mắt, một hơi thở, một niệm,
một sự chuyển biến vừa khởi lên đã chấm dứt. Phật dùng danh từ Satna để chỉ
một khoảng thời gian hết sức ngắn.
b) Hai là: Nhất kỳ vô thờng. Là sự chuyển biến trong từng giai đoạn. Sự vô
thờng thứ nhất là trạng thái chuyển biến nhanh chóng, liên tiếp, ngắn ngủi, th-
ờng là ta không nhận ra mà kết quả là gây ra sự vô thờng thứ hai. Nhất kỳ vô th-
ờng là trạng thái chuyển biến rõ rệt, kết thúc một trạng thái cũ, chuyển sang
một trạng thái mới. Vạn vật trong vũ trụ đều tuân theo luật: Thành - Trụ - Hoại -
Không.
Vạn vật đợc cấu thành, trụ một thời gian, sau đó chuyển đến diệt, thành, hoại,
không.
Các sinh vật đều tuân theo luật: Sinh, trụ, di, diệt.
Một hành tinh, một ngôi sao có thời kỳ vũ trụ kéo dài hàng triệu năm, một
cây có thể trụ hàng ngàn năm, một sinh vật có thể trụ đợc hàng trăm năm, bông
hoa phù dung chỉ trụ trong một ngày - sớm nở, chiều tàn. Xung quanh ta sự vật
chuyển biến không ngừng. Theo luật vô thờng, không phải khi sinh ra mới gọi
1
là sinh, khi vạn vật diệt mới gọi là diệt mà từng phút, từng dây, từng Satna, vạn
vật sống để mà chết và chết để mà sống. Sống, chết tiếp diễn liên tục với nhau
bất tận nh một vòng tròn.
Không những thân ta chuyển biến không ngừng mà tâm ta cũng không ngừng
chuyển biến. Nh dòng nớc thác, nh bọt bể, trong Satna này, trong tâm ta nổi lên
một ý niệm thiện, chỉ trong Satna sau, trong tâm ta đã có thể khơi lên một ý
niệm ác. Tâm ta luôn luôn chuyển biến nh thế Phật gọi là tâm phan duyên.
Trong kinh Thủ năng Nghiệm quyển một Phật gọi cái tâm phan duyên ấy là cái
tâm biết cái này, nghĩ cái khác, cái tâm vọng động do duyên với tiền trần mà có,
theo cách trần mà luôn luôn thay đổi, chuyển biến mà không Satna nào ngừng.
Không những tâm, thân ta chuyển biến mà các hình thái xã hội theo thời gian
cũng chuyển biến: Xã hội công xã nguyên thuỷ --> Xã hội chiếm hữu nô lệ -->
Xã hội phong kiến --> Xã hội t bản --> Xã hội XHCN. Đó là quy luật xã hội và
cũng không phù hợp với thuyết vô thờng của Đạo Phật.
Thuyết vô thờng là một trong những thuyết cơ bản trong giáo lý Phật, là cơ sở
của lý luận cho phơng thức sống, cho triết lý sống của những con ngời tu dỡng
theo giáo lý phật.
Trong thế gian có những ngời không biết lý vô thờng của Phật, có những
nhận thức sai lầm về sự vật là thờng còn, là không thay đổi, không chuyển biến.
Nhận thức sai lầm nh thế phật giáo gọi là ảo giác hay huyễn giác. Vì nhận thức
thân ta là thờng còn nên nảy ra ảo giác muốn kéo dài sự sống để hởng thụ, để
thoả mãn mọi dục vọng. Khi luật vô thờng tác động đến bản thân thì sinh ra
phiền não đau khổ.
Ngợc lại, nếu thấu lý vô thờng một cách nông cạn, cho chết là hết, đời ngời
ngắn ngủi, phải mau mau tận hởng những thú vui vật chất, phải sống gấp, sống
vội. Cuộc sống nh thế là sống trụy lạc, sa đọa trong vũng bùn của ngũ dục, sống
phiền não đau khổ trớc sự chuyển biến của sự vật, trớc sự sinh- trụ, dị diệt, trớc
sự thành, trụ hoại không nó diễn ra hàng ngày.
2. Thuyết vô ngã.
2
Từ thuyết vô thờng. Phật nói sang vô ngã. Vô ngã là không có cái ta. Thực ra
làm gì cũng có cái ta trờng tồn, vĩnh cữu vì cái ta nó biến đổi không ngừng, biến
chuyển từng phút, từng giờ, từng Satna.
Một câu hỏi đợc đặt ra vậy cái ta ở giây phút nào là cái ta chân thực, cái ta
bất biến ? Cái ta mà Phật nói trong thuyết vô ngã gồm có hai phần:
Cái ta sinh tức thân.
Cái ta tâm lý tức tâm.
Theo kinh Trung Quốc Ahàm, cái ta sinh lý chỉ là kết hợp của bốn yếu tố của
bốn đại là: địa , thuỷ, hoả , phong.
Địa đại là cái đặc cứng nh tóc, răng, móng chân, móng tay, da , thịt, các
cơ, xơng, tủy, tim gan, thận,...
Thủy đại là những chất lỏng nh mật ở trong gan, máu, mồ hôi, bạch
huyết, nớc mắt,...
Hoả đại là những rung động của cơ thể nh hơi thở, chất hơi ở trong dạ
dầy, ở ruột.
Những thứ đó không phải là ta, ta không phải là nhng thứ đó, những thứ đó
không thuộc về ta.
Cái mà ta gọi là cái ta sinh lý chỉ là một khoảng không gian giới hạn bởi sự
kết hợp của da thịt, cũng nh cái mà ta gọi là túp lều chỉ khoảng không gian giới
hạn bởi gỗ, tranh, bùn để trát vách mà thôi.
Tứ đại ( địa, thuỷ, hoả, phong) nêu trên thoáng là của ngoại cảnh, thoáng là
của ta. Vậy thực sự nó là của ai ? Vả lại khi bốn yếu tố này rời nhau trở về thể
của nó thì không có gì ở lại để có thể gọi là cái ta đợc nữa. Cho nên cái mà ra
gọi là cái ta sinh lý chỉ là một giả tởng, một nhất hợp sinh lý mà thôi.
Còn cái ta tâm lý gồm : thụ, tởng, hành, thức. Bốn ấm này cùng với sắc ấm
che lấp trí tuệ làm cho ta không nhận thấy đợc cái ta chân thực cái ta Phật tính,
cái chân ngã của chúng ta. Cái chân lý gồm những nhận thức, cảm giác, suy t-
ởng, là sự kết hợp của thất tỉnh: Hỷ, nộ, ai, lạc, ái , nỗ, dục.
3
Thuyết vô ngã làm cho ngời ta không còn ai tin là có một linh hồn vĩnh cửu,
tồn tại kiếp này sang kiếp khác, đời này qua đời khác. Sự tin có một linh hồn
dẫn dắt đến sự cúng tế linh hồn là hành động của sự mê tín.
Quan niệm có một linh hồn bất tử, một cái ta vĩnh cửu là nguồn gốc sinh ra
những tình cảm, những t tởng ích kỷ, những tham dục vô bờ của những kẻ dựa
vào sức mạnh phi nghĩa để làm lợi cho mình, tức là cho cái ta mà họ coi là th-
ờng còn, bất biến. Còn đối với những ngời bị hà hiếp, bị bóc lột thì sự mê tín có
cái ta vĩnh cửu dẫn đến t tởng tiêu cực, chán đời phó mặc cho số mệnh, hy vọng
làm lại cuộc đời ở kiếp sau.
Hai thuyết vô thờng, vô ngã là hai thuyết cơ bản trong giáo lý Phật. Chấp ngã
chấp có cái ta thờng còn là nguồn gốc của vô minh mà vô minh là đầu mối của
luân hồi sinh tử sinh ra đau khổ cho con ngời. Căn cứ trên hai thuyết vô thờng
và vô ngã Phật đã xây dựng cho đệ tử một phơng thức sống, một triết lý sống
lấy vị tha làm lý tởng cao cả cho cuộc sống của mình, hay nói một cách khác
một cuộc sống một ngời vì mọi ngời, mọi ngời vì một ngời.
3. Thuyết Lý nhân duyên sinh.
Với lý nhân duyên sinh Phật muốn nói tới một định lý. Theo định lý ấy sự vật
vạn vật phát triển trên thế gian đều do các nhân duyên hội họp mà thành, sự vật,
vạn pháp sẽ kiến diệt khi nhân duyên tan rã.
Nhân là năng lực phát sinh, duyên là lực hỗ trợ cho nhân phát sinh. Nh cây
lúa thì hạt lúa là nhân, nớc, ánh sáng mặt trời, công cày bừa gieo trồng là
duyên. Nhân duyên đó hội họp sinh ra cây lúa. Tất cả mọi hiện tợng đều nơng
nhau mà hành động. Nói nơng nhau có nghĩa là sự vật tác động, kết hợp, chi
phối, ảnh hởng lẫn nhau mà thành. Đó là nhân duyên. Nói về thứ nhân duyên
trong kinh Phật có câu:
Nhợc sử hữu, tắc bỉ hữu.
Nhợc sử sinh, tắc bỉ sinh.
Nhợc thử vô, tắc bỉ vô.
Nhợc thử diệt, tắc bỉ diệt.
Có nghĩa là:
4
Cái này có thì cái kia có.
Cái này sinh thì cái kia sinh.
Cái này không thì cái kia không.
Cái này diệt, thì cái kia diệt.
Tất cả các pháp đều sinh, diệt và tồn tại trong sự liên hệ mật thiết với nhau,
không một pháp nào có thể tồn tại độc lập tuyệt đối.
Sự vật chỉ có một cách giả tạo, một cách vô thờng.
. Nhân duyên hội họp thì sự vật là có .
. Nhân duyên tan dã thì sự vật là Không .
Ngời thế gian không tu dỡng tởng lầm sự vật, vạn pháp là thực có, là vĩnh
viễn nên bám giữ vào các pháp vào sự vật ( sinh mệnh, danh vọng, tiền tài...).
Nhng thực ra các pháp là vô thờng, là chuyển biến và khi tan dã thì ngời thế
gian thơng tiếc, đau khổ.
Thế giới vũ trụ, vạn pháp đều cấu thành bởi hệ thống nhân duyên trùng trùng
điệp điệp. Các pháp không có thực thể, chỉ vì nhân duyên hoà hợp mà có, một
cáh giả hợp mà sinh ra. Bởi thế tìm kiếm đến cùng cũng không thấy vạn pháp
có thủy và xét đến muôn đời cũng không thấy vạn pháp có chung . Vạn
pháp là vô thủy, cái nguyên nhân đầu tiên của các pháp hay cái chung cùng của
sự vật.
Lý nhân duyên cho chúng ta thấy sự vật hình thành là do nhân duyên hoà
hợp, sự vật là h giả, là giả hợp không có tính tồn tại. Nh vậy con ngời làm chủ
đời mình, làm chủ vận mệnh của mình.
Cuộc sống của con ngời có tơi đẹp hạnh phúc hay phiền não đau khổ là đều
do nhân duyên mà con ngời tạo ra. Với nhận thức nh vậy, con ngời tìm đợc một
phơng thức sống, một cách sống cho ra sống, sống vì hạnh phúc của mọi ngời,
sống an lạc, tự tại, giải thoát.
4. Thuyết nhân duyên quả báo hay thuyết nhân quả.
Thuyết nhân duyên quả báo gọi là thuyết nhân quả là một trong những thuyết
cơ bản của giáo lý Phật. Phật chủ trơng không bao giờ tự nhiên mà có, mà sinh
ra và cũng cho rằng không một thần quyền nào hay một đấng thiêng liêng nào
5
tạo ra sự vật. Sự vật sinh ra là có nhân nguyên nhân. Cái nguyên nhân một mình
cũng không tạo ra đợc sự vật mà phải có đủ duyên thì mới tạo ra quả đợc.
Ngời ta nói rằng: Trồng đậu đợc đậu.
Trồng da đợc da.
Nhng Phật nhấn mạnh: Quả có thể khác nhân sinh ra nó. Quả có thể hơn
nhân nếu gặp đủ duyên tốt, trái lại có thể kém nhân nếu gặp duyên xấu. Nhân
gặp đủ duyên thì sẽ biến thành quả, quả sinh ra nếu hội đủ duyên lại có thể biến
thành nhân rồi để sinh ra quả khác.
Sự vật là một chuỗi nhân quả, là một tràng nhân quả nối tiếp nhau, ảnh hởng
lẫn nhau không bao giờ đứt quãng, không bao giờ ngừng.
Trong nhân lại có mầm mống của quả sau này nhng quả không nhất định
phải đúng nh nhân vì duyên có thể mang lại sự biến đổi cho quả - Đó là thuyết
Bất định pháp trong luật nhân quả.
Sự vật là bất định, ngời tu hành căn cứ vào thuyết này mà tu dỡng và tiến tới
trên con đờng giải thoát về nhân. Suy rộng ra theo giáo lý Phật thì mỗi ý nghĩ
của tâm ta, mỗi hành động của thân ta, mỗi lời nói của chúng ta cũng là những
hạt nhân của chúng ta gieo hàng ngày. Những hạt nhân khi gặp đủ duyên sẽ nảy
nở thành quả.
Theo danh từ Phật học, những hạt nhân này gọi là nghiệp. Gieo nhân tức là
gây nghiệp: ý nghiệp, thân nghiệp, khẩu nghiệp. Kết quả đền đáp những hành
động nói trên phật gọi là nghiệp báo. Thời gian giữa gieo nhân và hái quả có thể
dài ngắn khác nhau. Vì vậy có nhân quả đồng thời: Tức là nhân quả nối liền
nhau, vừa tạo nhân, quả liền phát sinh không phải đợi một thời gian sau mới
thành thục. Lại có nhân quả dị thời: Tức là nhân tạo ra đời trớc, đời sau mới kết
thành quả.
Ngời nào gieo nhân, ngời ấy hái quả, không một hành động nào, thiện hay
ác, dù nhỏ đến đâu, dù ta khôn khéo bng bít, giấu giếm đến mức nào cũng
không thể thoát khỏi cán cân nhân quả. Ngời học Phật, tu Phật chân chính thấm
nhuần thuyết nhân quả phải là ngời có đạo lý, không thể nào khác đợc.
6
Với những luận thuyết cơ bản nh trên đã hình thành nên thề giới quan phật
giáo. Phật quan niệm các hiện tợng trong vũ trụ luôn luôn biến chuyển không
ngừng theo quy luật nhân duyên. Một hiện tợng phát sinh không phải là do một
nhân mà do nhiều nhân và duyên. Nhân không phải tự mà có mà do nhiều nhân
duyên đã có từ trớc. Nh vậy một hiện tợng có liên quan đến tất cả các hiện tợng
trong vũ trụ.
Kinh Hoa Nghiêm có ghi:
Nhất tức đa.
Đa tức nhất.
Nhất tức nhất thiết.
Nhất thiết tức nhất.
Có nghĩa là:
Một tức là nhiều.
Nhiều tức là một.
Một là tất cả.
Tất cả là một.
Tóm lại thế giới quan Phật giáo là thế giới quan nhân duyên. Tất cả sự vật có
danh có tớng, có thể nhận thức đợc, ý niệm đợc. Cảm giác đợc hay dùng ngôn
ngữ luận bàn, đợc đều đợc Phật gọi là pháp. Các pháp đều thuộc một giới gọi là
Pháp giới. Bản tính của pháp giới là các pháp duyên khởi ra nhau. Tính ấy là
tính của pháp giới nên gọi là pháp giới tính. Do pháp giới tính là bản tính của
các pháp nên gọi là chân, vì vậy pháp giới tính còn gọi là chân nh tính.
Giác ngộ đợc chân nh tính thì gọi là tự giác, nhng thế thì cha nhận thức đầy
đủ, sâu sắc về pháp giới tính vì vậy các nhà tu hành giác ngộ đợc bản lai tự tính
còn phải vận dụng pháp giới tính vào nhiều trờng hợp khác để thấy đợc cái
dụng to lớn của pháp giới tính.
Nh vậy, ngời tu hành chỉ khi nào công hạnh giác tha đợc viên mãn lúc đó mới
chứng thực đợc toàn thể, toàn dụng của pháp giới tính. Nói một cách khác là
chứng đợc toàn thể của sự vật gồm cả ba vẻ: thể, tởng, dụng, chứng đợc pháp
thân.
7
II. Nhận thức luận Phật giáo.
1. Bản chất, đối t ợng của nhận thức luận.
Bản chất của nhận thức luận Phật giáo là quá trình khai sáng trí tuệ. Còn đối
tợng của nhận thức luận là vạn vật, là mọi hiện tợng, là cả vũ trụ.
Vạn vật là vô thuỷ vô chung, không có sự vật đầu tiên và không có sự vật
cuối cùng. Mọi vật đều liên quan mật thiết đến nhau. Toàn thể dù lớn đến đâu
nếu không có quan hệ với hạt bụi thì cũng không thành lập đợc. Để diễn đạt ý
trên, một thiền s đã dùng hai câu thơ:
Càn khôn tận thị mao đầu thợng.
Nhật nguyệt bao hàm giới trí trung.
Có nghĩa là:
Trời đất rút lại đầu lông nhỏ xíu.
Nhật nguyệt nằm trong hạt cải mòng.
Nh vậy đạo Phật không phân biệt vật chất và tinh thần vì đó chỉ là hai trạng
thái của tâm, của năng lợng khi ở thể tiềm tàng.
Sau khi đã tìm hiểu về sự vật, hiện tợng chúng ta sẽ tìm hiểu cái tâm trong
đạo Phật để thấy đợc quan niệm của đạo Phật về tâm và vật.
Thông thờng ngời ta cho rằng đạo Phật là duy tâm vì trong kinh phật có câu
Nhất thiết duy tâm tạo . Nhng chữ duy tâm ở đây không phải là duy tâm
trong triết học Tây Phơng nên ta không thể nhận định nh trên. Chữ tâm trong
đạo Phật có nghĩa là một năng lợng, nó làm bản thể cho tất cả mọi hiện tợng
tâm lý, cho mọi hiện hành. Bản thể là cái chất, là cội gốc của vạn vật. Khi ta
phân tích, chia chẻ một vật đến một phần tử nhỏ nhiệm nhất, đến phần cuối
cùng thì phần tử ấy là bản thể mà ở đây cũng có vật có chất nên đâu đâu cũng
thấy có bản thể, vì vậy tâm cũng lại là to lớn vô biên.
Những tình cảm, ý thức phát sinh phải nơng vào hiện tợng sinh lý, vật lý. Nói
nơng nhau để phát sinh chứ không phải các hiện tợng sinh lý, vật lý sinh ra các
hiện tợng tâm lý.
Hiểu nh vậy thì thấy rõ không phải tâm sinh vật hay vật sinh tâm. Những
hiện tợng sinh lý vật lý và những hiện tợng tâm lý ấy chỉ tơng sinh tơng thành.
8
2. Quy trình, con đ ờng và ph ơng pháp nhận thức.
Sự nhận thức phát triển theo hai con đờng t trào: Hờng nội và hớng ngoại.
Phật giáo thờng quan tâm đến t trào hớng nội tức là mỗi ngời tự chiêm nghiệm
suy nghĩ của bản thân. Có hai phơng pháp để nhận thức là :
. Tiệm ngộ : là sự giác ngộ, nhận thức một các dần dần, có tính chất là trí
hữu s.
. Đốn ngộ : là sự giác ngộ bột phát, bùng nổ có tính chất là trí vô s .
Với hai phơng pháp ấy sự nhận thức Phật giáo đợc chia làm hai gia đoạn:
Giai đoạn một là từ tuỳ giác đến thể nhập. Nhận thức bắt đầu từ cảm giác và
phụ thuộc vào cảm giác đa lại. Kết quả là con ngời biết đợc cái tiếp xúc giữa thế
giới khách quan và giác quan của con ngời và từ sự tiếp xúc này tạo nên yếu tố
thọ trong ngũ uẩn. Theo nhà Phật nói chữ thọ ở đây là sự tiếp xúc của sáu căn
với sáu trần tạo nên yếu tố thọ. Căn cứ ở đây là những khả năng nhận thức của
các giác quan. Trần là loại kích thích từ thế giới bên ngoài. Nếu kích thích tơng
ứng với các căn thì con ngời có cảm giác. Sáu căn là : nhăn, nhỉ, tù, thiệt, thân,
ý. Sáu trần là: sắc, thanh, hơng, vị, xúc, pháp. Thọ, cho chúng ta nhận biết đ-
ợc những hiện tợng riêng lẻ, những cái bề ngoài, ngẫu nhiên. Trong một số tr-
ờng hợp khác gọi đó là kinh nghiệm. Từ những tri thức cảm tính kinh nghiệm
nêu trên, con ngời sẽ đi sâu để nhập vào bản thể của sự vật để biết đợc cái bên
trong, bản chất đó là tri thức định lý.
Giai đoạn hai sự nhận thức đi từ cái tâm tại đến cái tâm siêu thể. Từ kết quả
của giai đoạn trớc , con ngời bắt đợc cái tâm tính của những sự vật hữu hình tái
thế và đặc biệt là cái tâm ở trong mỗi con ngời và nâng lên để nắm đợc cái tâm
siêu thoát, cái tâm trung.
Để đạt đợc sự nhận thức đó thì có nhiều phơng pháp song hai phơng pháp
sau: Tam học và Tam huệ là chủ yếu.
Tam học là giới, định, tuệ.
. Giới: Gồm có nhứng phơng tiện để thay đổi lối suy nghĩ, lối sinh hoạt
hàng ngày của con ngời sống theo đạo, thích hợp với đạo là luôn hớng về thiện.
9
. Định: là đình chỉ mọi t tởng xấu, ý nghĩ xấu và còn là tập trung t tởng suy
nghĩ để làm mọi việc yên lành.
. Tuệ: là trí tụê sáng suốt, đã thấu đợc lý vô thờng, vô ngã, do đó chỉ nghĩ
đến làm việc thiện, mu lợi cho chúng sinh.
. Tam huệ: là văn, tu, t.
Văn: là nghe pháp phật, hiểu rõ ý nghĩa, quan niệm đợc bản tính thanh tịnh,
sáng suốt của mình, do đó mà có một lòng tin vững chắc nơi Phật pháp.
T : là suy nghĩ về các pháp Phật đã nghe đợc, học đợc đi đến giác ngộ bản lai
t tính của mình.
Tu: là nơng theo trí tuệ, bắt đầu trực nhận đợc bản tính chân nh, mà tụ tập gột
rửa những thói quen mà lầm từ nhiều kiếp để lại đi đến nhập với một pháp giới
tính.
Các phơng pháp trên đã phá tan các kiến chấp sai lầm chấp ngã, chấp pháp để
đi đến trung đạo và nhận rõ trung đạo là chẳng có, chẳng không. Với nhận thức
nh thế, ngời tu hành sẽ đợc sống trong sự giải thoát, sinh tử luân hồi sẽ không
còn nữa.
III. Nhân sinh quan Phật giáo.
Từ một vũ trụ quan căn cứ trên những thuyết nhân duyên sinh, thuyết sự vật
duyên khởi đi đến nhận thức là vô thủy, vô chung, từ những thuyết vô thờng, vô
ngã bây giờ chúng ta sẽ tìm hiểu về những quan niệm của Đạo Phật về vấn đề
nhân sinh quan. ở đây chúng ta sẽ lần lợt trả lời các câu hỏi:
Con ngời là gì ? Từ đâu mà sinh ra? Chết rồi đi đâu ?
Vị trí của con ngời trong Đạo Phật.
Quan niệm của Phật về các vấn đề:bình đẳng, tự do, dân chủ....
Có phải cuộc sống chỉ toàn là đau khổ ? và vấn đề giải thoát trong Đạo
Phật là gì ?
Trớc khi trả lời các câu hỏi trên chúng ta sẽ tìm hiểu và phân tích Tứ diệu đế
vì đây là giáo lý kinh điển của Phật giáo bao quát toàn bộ các vấn đề trên.
1. Tứ diệu đế:
10