Tải bản đầy đủ (.doc) (42 trang)

Đề án kiểm toán - Quá trình hình thành và phát triển của kiểm toán nhà nước potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (302.35 KB, 42 trang )

Đề án kiểm toán GVHD: TS.Phan Trung Kiên

Đề án kiểm toán:
Quá trình hình thành và
phát triển của kiểm toán
nhà nước
Hoàng Văn Tùng – Kiểm toán 49B
1
Đề án kiểm toán GVHD: TS.Phan Trung Kiên
Mục lục
MỤC LỤC 2
LỜI MỞ ĐẦU 6
ĐỂ ĐẮP ỨNG NHU CẦU ĐỔI MỚI CƠ CHẾ QUẢN
LÝ KINH TẾ TÀI CHÍNH NHẰM NÂNG CAO CHẤT
LƯỢNG QUẢN LÝ KINH TẾ TRONG NỀN KINH TẾ
QUỐC DÂN, VẤN ĐỀ KIỂM TRA KIỂM SOÁT
CHẤT LƯỢNG LÀM LÀNH MẠNH HÓA CÁC
THÔNG TIN TÀI CHÍNH TRONG NỀN KINH TẾ
QUỐC DÂN LÀ MỘT NHU CẦU CẤP THIẾT. GIÚP
CHO NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG CÓ THỂ ĐỨNG
VỮNG VÀ CÓ THỂ PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN VỀ
MỌI MẶT. NÓ ĐIỀU TIẾT NỀN KINH TẾ ĐI ĐÚNG
HƯỚNG VÀ HẠN CHẾ ĐƯỢC NHỮNG KHỦNG
HOẢNG CÓ THỂ XẢY RA TRONG NỀN KINH TẾ
ĐI ĐÚNG HƯỚNG VÀ HẠN CHẾ ĐƯỢC NHỮNG
KHỦNG HOẢNG CÓ THỂ XẢY RA TRONG NỀN
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG, CHÍNH VÌ VẬY MÀ KIỂM
TOÁN RA ĐỜI NHƯ MỘT SỰ TẤT YẾU. 6
Hoàng Văn Tùng – Kiểm toán 49B
2
Đề án kiểm toán GVHD: TS.Phan Trung Kiên


TRONG ĐIỀU KIỆN NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
VỚI NHIỀU THÀNH PHẦN KINH TẾ ĐANG PHÁT
TRIỂN, SỰ RA ĐỜI CỦA CÁC DOANH NGHIỆP
TRẺ VÀ ĐÀY TRIỂN VỌNG KHIẾN CHO SỰ CẠNH
TRANH GIỮA CÁC DOANH NGHIỆP NGÀY CÀNG
TRỞ NÊN GAY GẮT. CÁC DOANH NGHIỆP CẦN
MỞ RỘNG SẢN XUẤT KINH DOANH, ĐẦU TƯ MỚI
MÁY MÓC, TRANG THIẾT BỊ HIỆN ĐẠI CHO SẢN
XUẤT DO VẬY DOANH NGHIỆP CẦN PHẢI HUY
ĐỘNG VỐN TỪ CÁC NHÀ ĐẦU TƯ BÊN NGOÀI.
CÁC NHÀ ĐẦU TƯ CẦN CÓ NHỮNG TÀI LIỆU TIN
CẬY ĐỂ CÓ SỰ ĐẦU TƯ ĐÚNG ĐẮN, NGOÀI RA;
CÁC CƠ QUAN NHÀ NƯỚC CẦN THÔNG TIN
TRUNG THỰC ĐỂ ĐIỀU TIẾT VĨ MÔ NỀN KINH
TẾ; NGƯỜI LAO ĐỘNG CẦN THÔNG TIN ĐÁNG
TIN CẬY VỀ KẾT QUẢ KINH DOANH, THỰC HIỆN
CHÍNH SÁCH TIỀN LƯƠNG ; KHÁCH HÀNG, NHÀ
CUNG CẤP CẦN HIỂU RÕ THỰC CHẤT KINH
DOANH VÀ TÌNH HÌNH TÀI CHÍNH CỦA DOANH
NGHIỆP ĐỂ CUNG CẤP HÀNG HÓA, DỊCH VỤ.
CHÍNH VÌ VẬY, KIỂM TOÁN NÓI CHUNG VÀ
Hoàng Văn Tùng – Kiểm toán 49B
3
Đề án kiểm toán GVHD: TS.Phan Trung Kiên
KIỂM TOÁN TÀI CHÍNH RA ĐỜI VỚI VAI TRÒ,
CHỨC NĂNG XÁC MINH VÀ TƯ VẤN KHÔNG CHỈ
GIÚP CHO SỰ QUẢN LÝ VĨ MÔ CỦA NHÀ NƯỚC
MÀ CÒN Ý NGHĨA CHI BẢN THÂN DOANH
NGHIỆP VÀ CÁC ĐỐI TƯỢNG QUAN TÂM. NẾU
NHƯ BÁO CÁO TÀI CHÍNH CHỈ CUNG CẤP VÀ

TRÌNH BÀY CHO NGƯỜI ĐỌC THỰC TRẠNG CỦA
DOANH NGHIỆP TẠI MỘT THỜI GIAN NHẤT
ĐỊNH THÌ KIỂM TOÁN CÁC BÁO CÁO TÀI CHÍNH
SẼ GÂY DỰNG LÒNG TIN CHO NGƯỜI SỬ DỤNG
ĐỐI VỚI BÁO CÁO TÀI CHÍNH ĐÓ. 7
CHƯƠNG I: KIỂM TOÁN NHÀ NƯỚC VÀ MÔ
HÌNH TỔ CHỨC BỘ MÁY 8
I. Lịch sử hình thành và phát triển của kiểm toán nhà nước 8
II. Nghiên cứu mô hình tổ chức và cơ chế hoạt động của một số nước trên thế giới – Bài học kinh
nghiệm 10
1.Các mô hình 10
1.1. Mô hình trực thuộc Quốc hội (Liên bang Nga) 10
1.2. Mô hình độc lập với Quốc hội và Chính phủ (Liên bang Đức) 13
1.3. Mô hình trực thuộc Chính phủ (Trung Quốc) 15
2. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam 17
2.1. Tính độc lập của cơ quan KTNN 17
2.2. Mối quan hệ với Chính phủ và Quốc hội 18
2.3. Hình thức Tổ chức 20
CHƯƠNG II: MÔ HÌNH KIỂM TOÁN NHÀ NƯỚC
TẠI VIỆT NAM 21
Hoàng Văn Tùng – Kiểm toán 49B
4
Đề án kiểm toán GVHD: TS.Phan Trung Kiên
I. Quá trình hình thành và phát triển của kiểm toán nhà nước tại Việt Nam 21
II. Mô hình tổ chức kiểm toán Nhà nước tại Việt Nam 27
1. Hình thức tổ chức 27
2. Cơ cấu, chức năng nhiệm vụ của từng bộ phận trong bộ máy 28
2.2. Giai đoạn từ khi có Luật KTNN đến nay 29
3. Phân công, phân cấp trong tổ chức quản lý kiểm toán 33
CHƯƠNG III: ĐÁNH GIÁ VÀ Ý KIẾN NHẰM HOÀN

THIỆN 37
I. Đánh giá 37
II. Một số ý kiến hoàn thiện 38
Hoàng Văn Tùng – Kiểm toán 49B
5
Đề án kiểm toán GVHD: TS.Phan Trung Kiên
LỜI MỞ ĐẦU
Để đắp ứng nhu cầu đổi mới cơ chế quản lý kinh tế tài chính nhằm
nâng cao chất lượng quản lý kinh tế trong nền kinh tế quốc dân, vấn đề kiểm
tra kiểm soát chất lượng làm lành mạnh hóa các thông tin tài chính trong nền
kinh tế quốc dân là một nhu cầu cấp thiết. Giúp cho nền kinh tế thị trường có
thể đứng vững và có thể phát triển toàn diện về mọi mặt. Nó điều tiết nền
kinh tế đi đúng hướng và hạn chế được những khủng hoảng có thể xảy ra
trong nền kinh tế đi đúng hướng và hạn chế được những khủng hoảng có thể
xảy ra trong nền kinh tế thị trường, chính vì vậy mà kiểm toán ra đời như
một sự tất yếu.
Hoàng Văn Tùng – Kiểm toán 49B
6
Đề án kiểm toán GVHD: TS.Phan Trung Kiên
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường với nhiều thành phần kinh tế
đang phát triển, sự ra đời của các doanh nghiệp trẻ và đày triển vọng khiến
cho sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp ngày càng trở nên gay gắt. Các
doanh nghiệp cần mở rộng sản xuất kinh doanh, đầu tư mới máy móc, trang
thiết bị hiện đại cho sản xuất do vậy doanh nghiệp cần phải huy động vốn
từ các nhà đầu tư bên ngoài. Các nhà đầu tư cần có những tài liệu tin cậy để
có sự đầu tư đúng đắn, ngoài ra; các cơ quan Nhà nước cần thông tin trung
thực để điều tiết vĩ mô nền kinh tế; người lao động cần thông tin đáng tin
cậy về kết quả kinh doanh, thực hiện chính sách tiền lương ; khách hàng,
nhà cung cấp cần hiểu rõ thực chất kinh doanh và tình hình tài chính của
doanh nghiệp để cung cấp hàng hóa, dịch vụ. Chính vì vậy, kiểm toán nói

chung và kiểm toán tài chính ra đời với vai trò, chức năng xác minh và tư
vấn không chỉ giúp cho sự quản lý vĩ mô của Nhà nước mà còn ý nghĩa chi
bản thân doanh nghiệp và các đối tượng quan tâm. Nếu như Báo cáo tài
chính chỉ cung cấp và trình bày cho người đọc thực trạng của doanh nghiệp
tại một thời gian nhất định thì kiểm toán các Báo cáo tài chính sẽ gây dựng
lòng tin cho người sử dụng đối với Báo cáo tài chính đó.
Được sự giúp đỡ và sự hướng dẫn tận tình của thầy Phan Trung Kiên,
em đã tiến hành tìm hiểu và chọn đề tài: “Quá trình hình thành và phát
triển của kiểm toán nhà nước”. Bài đề án của em được trình bày với kết
cấu như sau:
Chương I: Kiểm toán nhà nước và mô hình tổ chức bộ máy
Chương II: Thực trạng và mô hình kiểm toán nhà nước tại Việt Nam
Chương III: Đánh giá và ý kiến nhằm hoàn thiện
Hoàng Văn Tùng – Kiểm toán 49B
7
Đề án kiểm toán GVHD: TS.Phan Trung Kiên
Do trình độ và nhận thức còn hạn chế nên bài đề án của em còn nhiều
thiếu sót. Em rất mong nhận được sự đóng góp chỉ bảo của thầy Phan Trung
Kiên để em hoàn thiện hơn nữa đề án này.
CHƯƠNG I: KIỂM TOÁN NHÀ NƯỚC VÀ MÔ HÌNH TỔ CHỨC BỘ
MÁY
I. Lịch sử hình thành và phát triển của kiểm toán nhà nước
Kiểm toán có nguồn gốc từ tiếng Latinh, theo nghĩa của từ "Audit".
Kiểm toán ra đời từ thời La Mã, thế kỷ thứ III trước Công nguyên. Tuy
nhiên, hoạt động kiểm toán chỉ phát triển mạnh mẽ và mang tính phổ biến
trong khoảng vài trăm năm trở lại đây. Ở Đức, từ năm 1714, Vua Phổ là
Friedrich Wilhelm I đã ra Sắc lệnh thành lập Phòng Thẩm kế tối cao (hay
Thẩm kế viện dưới thời Đế chế Đức). Ở Pháp, từ năm 1807, dưới thời
Hoàng đế Napoleon I, Toà Thẩm kế (Cour des comptes) đã được thành lập.
Hoàng Văn Tùng – Kiểm toán 49B

8
Đề án kiểm toán GVHD: TS.Phan Trung Kiên
Hoạt động kiểm toán xuất phát từ yêu cầu sử dụng hợp lệ và hợp lý
các nguồn tài chính của Nhà nước. Bởi vậy, mục tiêu cụ thể của công tác
này là sử dụng xác thực và có hiệu quả nguồn kinh phí công, phấn đấu đạt
được sự quản lý kinh tế chặt chẽ, tính hợp lệ của công tác quản lý hành
chính và việc thông tin cho các cơ quan nhà nước cũng như công luận thông
qua việc công bố các báo cáo khách quan về sự ổn định và phát triển của nền
tài chính quốc gia.
Kiểm toán hiện diện như một công cụ không thể thiếu được đối với
bất kỳ một mô hình kinh tế nào, một hình thái xã hội nào và không hề bị chi
phối bởi kiến trúc thượng tầng. Tuy nhiên, hoạt động kiểm toán chỉ thực sự
có ý nghĩa quan trọng đối với quá trình lành mạnh hoá nền tài chính quốc
gia kể từ sau các cuộc cách mạng về kinh tế và hiện đại hoá vào những năm
đầu của thế kỷ XX.
Cơ quan Kiểm toán nhà nước (KTNN) ở mỗi quốc gia có những tên
gọi khác nhau. Ví dụ: Toà Thẩm kế Cộng hoà Pháp, Cơ quan Tổng Kế toán
Hoa Kỳ, Cục Kiểm toán Liên bang Nga, Uỷ ban Kiểm toán và Thanh tra
Hàn Quốc, Uỷ ban Kiểm toán và Kiểm soát Ấn Độ; Uỷ ban Kiểm toán Nhật
Bản; v.v Phần lớn các khu vực trên thế giới đều thành lập Tổ chức các cơ
quan kiểm toán tối cao của khu vực. Đồng thời các quốc gia cũng gia nhập
Tổ chức Quốc tế các cơ quan kiểm toán tối cao (International Organization
of Supreme Audit Institutions-INTOSAI). Cơ quan này gồm có 178 thành
viên.
Hoàng Văn Tùng – Kiểm toán 49B
9
Đề án kiểm toán GVHD: TS.Phan Trung Kiên
II. Nghiên cứu mô hình tổ chức và cơ chế hoạt động của một số nước trên
thế giới – Bài học kinh nghiệm
1.Các mô hình

1.1. Mô hình trực thuộc Quốc hội (Liên bang Nga)
Vị trí: Kiểm toán nhà nước liên bang Nga (KTNNLB) là cơ quan cao
nhất hoạt động thường xuyên của hệ thống kiểm tra tài chính Nhà nước,
được lập ra bởi Hội nghị Liên bang và trực thuộc Hội nghị.
KTNNLB Nga trong hoạt động của mình tuân thủ theo Hiến pháp
Liên bang, Đạo luật KTNN và các Đạo luật khác của Liên bang Nga. Trong
khuôn khổ các nhiệm vụ do luật định, KTNNLB Nga độc lập về tổ chức và
chức năng.
KTNNLB Nga là một pháp nhân, có con dấu khắc hình Quốc huy
Liên bang.
Nhiệm vụ: Tổ chức và thực hiện kiểm tra việc hoàn thành đúng thời
hạn các khoản thu, khoản chi của Ngân sách Liên bang và ngân sách các quỹ
Liên bang nằm ngoài ngân sách Liên bang, cả về số lượng, cơ cấu và mục
tiêu.
Đánh giá cơ sở lý giải của các khoản thu, khoản chi trong các dự toán
ngân sách Liên bang và ngân sách các quỹ Liên bang nằm ngoài ngân sách
Liên bang.
Thẩm định về mặt tài chính các dự thảo Luật Liên bang, các văn bản
quy phạm pháp luật của các cơ quan quyền lực Nhà nước Liên bang khác có
dự kiến các khoản chi lấy từ ngân sách Liên bang hoặc ảnh hưởng đến việc
thành lập và sử dụng ngân sách Liên bang cũng như ngân sách của các quỹ
Liên bang nằm ngoài ngân sách Liên bang.
Hoàng Văn Tùng – Kiểm toán 49B
10
Đề án kiểm toán GVHD: TS.Phan Trung Kiên
Phân tích việc không thực hiện đúng các chỉ tiêu đã xác định của ngân
sách Liên bang và của ngân sách các quỹ Liên bang nằm ngoài ngân sách
Liên bang, cũng như chuẩn bị các kiến nghị nhằm khắc phục các sai sót đó
và hoàn thiện ngân sách Liên bang.
Kiểm tra tính hợp pháp và tính kịp thời của việc chuyển ngân sách

Liên bang và ngân sách các quỹ Liên bang nằm ngoài ngân sách Liên bang
trong Ngân hàng Trung ương Nga, trong các Ngân hàng được uỷ nhiệm và
các tổ chức tín dụng khác của Liên bang.
Đệ trình thường xuyên các thông tin về việc thực hiện ngân sách Liên
bang cũng như kết quả các hoạt động kiểm toán lên Hội đồng Liên bang và
Viện Duma quốc gia.
Tổ chức bộ máy: KTNNLB bao gồm Chủ tịch, Phó Chủ tịch, Kiểm
toán trưởng và bộ máy giúp việc của KTNNLB.
Chủ tịch KTNNLB do Viện Duma quốc gia bổ nhiệm theo nhiệm kỳ 6
năm. Nghị quyết về việc bổ nhiệm Chủ tịch KTNNLB được Viện Duma
quốc gia thông qua với đa số phiếu cuả tất cả đại biểu Viện Duma quốc gia.
Mọi công dân Liên bang Nga đã tốt nghiệp Đại học tổng hợp, có kinh
nghiệm trong lĩnh vực hành chính Nhà nước, kiểm tra Nhà nước, kinh tế và
tài chính đều có thể được bổ nhiệm làm Chủ tịch KTNNLB.
Chủ tịch KTNNLB không được có quan hệ họ hàng với Tổng thống
Liên bang Nga, Chủ tịch Hội đồng Liên bang, Chủ tịch Viện Duma quốc gia,
Chủ tịch Chính phủ Liên bang, Thủ trưởng Phủ Tổng thống Liên bang,
Chánh Toà án tối cao Liên bang và Chủ tịch Hội đồng trọng tài tối cao Liên
bang.
Hoàng Văn Tùng – Kiểm toán 49B
11
Đề án kiểm toán GVHD: TS.Phan Trung Kiên
Chủ tịch KTNNLB có quyền tham dự các phiên họp của Hội đồng
Liên bang, Viện Duma quốc gia, các Uỷ ban và tiểu ban của Nghị viện, các
phiên họp của Chính phủ Liên bang và của Đoàn Chủ tịch Chính phủ Liên
bang.
Chủ tịch KTNNLB không được phép là Đại biểu của Viện Duma
quốc gia, là thành viên của Chính phủ Liên bang, không được làm bất kỳ
công việc nào có tính chất sinh lợi, trừ công tác giảng dạy khoa học nghệ
thuật

Phó Chủ tịch KTNNLB do Hội đồng Liên bang bổ nhiệm theo nhiệm
kỳ 6 năm. Nghị quyết bổ nhiệm Phó Chủ tịch KTNNLB được thông qua bởi
đa số tất cả các đại biểu Hội đồng Liên bang.
Đánh giá kết quả kiểm toán: KTNNLB đánh giá một cách có hệ thống
các kết quả thu được từ các biện pháp kiểm tra, khái quát chúng và nghiên
cứu các nguyên nhân và hậu quả của các việc sai trái và vi phạm trong khi
tạo các nguồn thu và chi từ ngân sách Liên bang.
Trên cơ sở các dữ liệu có được, KTNNLB xây dựng các kiến nghị
nhằm hoàn thiện Luật Ngân sách và tiếp tục phát triển hệ thống tài chính và
ngân sách của Liên bang, trình lên Viện Duma quốc gia.
Các kiến nghị của KTNNLB: Dựa vào các kết quả do các biện pháp
kiểm tra đưa lại, KTNNLB kiến nghị với các cơ quan Nhà nước Liên bang,
Thủ trưởng các cơ quan, doanh nghiệp được kiểm toán về các biện pháp để
khắc phục các thiếu sót, truy cứu trách nhiệm của các quan chức đã vi phạm
các Đạo luật của Liên bang và gây ra bê bối.
Kiến nghị của KTNNLB phải được xem xét trong thời hạn được ấn
định, nếu không có thời hạn thì là 20 ngày kể từ ngày nhận được chúng. Các
Hoàng Văn Tùng – Kiểm toán 49B
12
Đề án kiểm toán GVHD: TS.Phan Trung Kiên
biện pháp được đưa ra để thực hiện kiến nghị phải được thông báo ngay cho
KTNNLB. Nếu trong khi tiến hành kiểm toán mà phát hiện việc biển thủ
phương tiện tài chính hoặc tài sản Nhà nước cũng như các vụ việc lạm dụng
chức vụ khác thì KTNNLB chuyển ngay lập tức các hồ sơ, tài liệu cho các
cơ quan bảo vệ pháp luật.
1.2. Mô hình độc lập với Quốc hội và Chính phủ (Liên bang Đức)
Vị trí: KTNN Liên bang là cơ quan tối cao của Liên bang, với tư cách
một cơ quan kiểm tra tài chính độc lập chỉ tuân thủ pháp luật. Trong khuôn
khổ những nhiệm vụ theo luật định, KTNN Liên bang hỗ trợ Quốc hội Liên
bang, Hội đồng Liên bang và Chính phủ Liên bang trong việc ra quyết định

của các cơ quan này.
Địa vị pháp lý của KTNN Liên bang và các thành viên cũng như
những nhiệm vụ cơ bản được đảm bảo bằng Hiến pháp. Những vấn đề cụ thể
được quy định trong các đạo luật riêng (Luật KTNN Liên bang, Luật Ngân
sách Liên bang).
Nhiệm vụ:
(1) Toàn bộ công tác quản lý ngân sách và kinh tế của Liên bang, kể
cả các tài sản đặc biệt và xí nghiệp của Liên bang đều được KTNN Liên
bang kiểm toán theo chuẩn mực.
(2) Trên cơ sở kinh nghiệm kiểm toán, KTNN Liên bang có thể tư vấn
cho Quốc hội Liên bang, Hội đồng Liên bang, Chính phủ Liên bang và cho
từng Bộ của Liên bang về những vấn đề có liên quan. Khi KTNN Liên bang
tư vấn cho Quốc hội hoặc Hội đồng Liên bang thì đồng thời cũng thông báo
cho Chính phủ Liên bang.
Hoàng Văn Tùng – Kiểm toán 49B
13
Đề án kiểm toán GVHD: TS.Phan Trung Kiên
(3) KTNN Liên bang tổng hợp những kết luận kiểm toán của mình
vào những Báo cáo kiểm toán gửi cho các đơn vị được kiểm toán, để đơn vị
này trình bày quan điểm.
(4) Hàng năm, KTNN Liên bang báo cáo những kết quả kiểm toán
quan trọng cho Quốc hội Liên bang, Hội đồng Liên bang và Chính phủ Liên
bang dưới hình thức những "Báo cáo tổng hợp" (Báo cáo năm). Nó là cơ sở
để Quốc hội Liên bang vãn hồi trách nhiệm cho Chính phủ Liên bang. Báo
cáo này cũng được giới thiệu trước công luận trong một cuộc họp báo Liên
bang.
(5) KTNN Liên bang có thể thông báo bất kể lúc nào về những vấn đề
có ý nghĩa quan trọng cho Quốc hội Liên bang, Hội đồng Liên bang và
Chính phủ Liên bang (Báo cáo đặc biệt).
(6) KTNN Liên bang chẳng những tư vấn cho các cơ quan hành pháp

và lập pháp thông qua những kiến nghị trong Báo cáo kiểm toán và Báo cáo
năm, mà trước hết thông qua các bài tham luận (bằng văn bản hoặc bằng
miệng) về những chủ đề thời sự (như những dự án mua sắm với lượng tài
chính lớn) hoặc trong khuôn khổ xây dựng dự toán ngân sách.
Phạm vi hoạt động: KTNN Liên bang kiểm tra:
- Các khoản thu, các khoản chi, các nghĩa vụ chi tài sản và các khoản
nợ.
- Các chương trình có ảnh hưởng tới tài chính.
- Các khoản lưu giữ và tạm ứng.
- Việc sử dụng các kinh phí được bổ sung nhằm tự tạo vốn.
Hoàng Văn Tùng – Kiểm toán 49B
14
Đề án kiểm toán GVHD: TS.Phan Trung Kiên
Theo Điều 88, Quy chế Ngân sách Liên bang ban hành ngày
19/8/1969, KTNN Liên bang có thể giới hạn phạm vi kiểm toán và cho phép
miễn kiểm tra các hoạt động kế toán.
Tổ chức bộ máy và cơ chế hoạt động:
- 9 Vụ kiểm toán, mỗi Vụ có 6 Phòng kiểm toán, bao gồm khoảng 600
kiểm toán viên.
- 9 KTNN Khu vực gồm 500 Kiểm toán viên.
- Khoảng 1.500 kiểm toán viên trong các cơ quan của Liên bang.
- Kế hoạch ngân sách KTNN Liên bang được 78 triệu DM.
- Kế hoạch ngân sách KTNN Khu vực được 92 triệu DM.
Những quyết định của KTNN Liên bang được biểu quyết tập thể.
Trong trường hợp bình thường thì 2 thành viên hữu trách ra quyết định (Vụ
trưởng và Trưởng Phòng kiểm toán). Trong một số trường hợp nhất định thì
Chủ tịch hoặc Phó Chủ tịch sẽ tham gia vào Hội đồng (Hội đồng 3 thành
viên). Những quyết định trong Hội đồng 2 hoặc 3 thành viên chỉ có thể
thông qua với sự nhất trí của tất cả các thành viên. Đại hội đồng của KTNN
Liên bang chỉ quyết nghị về những vấn đề vợt ra ngoài khuôn khổ 1 Vụ hoặc

đặc biệt quan trọng.
1.3. Mô hình trực thuộc Chính phủ (Trung Quốc)
Luật kiểm toán Cộng hoà nhân dân Trung Hoa ban hành ngày
31/8/1994 quy định cơ sở pháp lý của hoạt động kiểm toán nhà nước.
Mục đích của hoạt động kiểm toán: Nhằm tăng cường sự kiểm tra Nhà
nước về tài chính, bảo đảm trật tự Nhà nước về kinh tế và tài chính, khuyến
Hoàng Văn Tùng – Kiểm toán 49B
15
Đề án kiểm toán GVHD: TS.Phan Trung Kiên
khích xây dựng chính sách cởi mở và bảo đảm sự phát triển kinh tế quốc dân
lành mạnh.
Các lĩnh vực chịu kiểm toán:
- Việc thực hiện ngân sách thuộc các ngành của Quốc vụ viện và
chính quyền nhân dân địa phương các cấp.
- Các khoản thu, khoản chi của các cơ quan tài chính Nhà nước, các
doanh nghiệp và tổ chức.
Cơ quan kiểm toán hoạt động theo luật, nhằm kiểm tra tính đúng đắn,
tính hợp pháp và tính kinh tế của việc thực hiện ngân sách và các khoản thu,
khoản chi của các cơ quan nói trên.
Quốc vụ viện và chính quyền địa phương từ cấp huyện trở lên hàng
năm phải trình lên Uỷ ban thường vụ Đại hội nhân dân cấp mình báo cáo
hoạt động của Cơ quan Kiểm toán đối với việc thực hiện ngân sách và các
khoản thu, khoản chi khác.
- Các cơ quan Kiểm toán thực hiện sự kiểm toán theo pháp luật một
cách độc lập, không có sự can thiệp của cơ quan hành chính, tổ chức và cá
nhân khác.
- Quốc vụ viện lập ra KTNN để lãnh đạo hoạt động kiểm toán trong
toàn quốc dưới sự chỉ đạo của Thủ tướng Quốc vụ viện. Tổng Kiểm toán là
người lãnh đạo KTNN.
- Các Cơ quan kiểm toán địa phương chịu trách nhiệm và báo cáo với

chính quyền nhân dân cùng cấp và Cơ quan kiểm toán cấp trên. Về mặt
chuyên môn thì trước hết Cơ quan Kiểm toán cấp trên chịu trách nhiệm.
Hoàng Văn Tùng – Kiểm toán 49B
16
Đề án kiểm toán GVHD: TS.Phan Trung Kiên
- Các Cơ quan Kiểm toán kiểm tra việc thực hiện ngân sách và việc
quyết toán ngân sách cũng như việc quản lý và sử dụng các phương tiện nằm
ngoài ngân sách cùng cấp (kể cả các đơn vị cấp dưới trực thuộc trực tiếp) và
của cả chính quyền nhân dân cấp dưới.
KTNN kiểm toán và kiểm tra:
+ Các khoản thu và các khoản chi của Ngân hàng TW. Các Cơ quan
Kiểm toán kiểm toán và kiểm tra các tài sản, các khoản nợ, lợi nhuận và thua
lỗ của các tổ chức tài chính Nhà nước.
+ Các khoản thu và các khoản chi của các cơ quan Nhà nước được lập
ra theo Luật định.
+ Các tài sản, nợ, lợi nhuận và thua lỗ của các DNNN.
+ Việc thực hiện ngân sách và các khoản thu, khoản chi của các công
trình xây dựng Nhà nước.
+ Các khoản thu, khoản chi của các quỹ bảo hiểm xã hội, các khoản
tài chính được quyên góp trong xã hội và các quỹ có liên quan do các tổ
chức được cơ quan Nhà nước hoặc Chính phủ giao cho quản lý.
+ Các khoản thu, khoản chi, các khoản trợ giúp tài chính và khoản vay
của các tổ chức tài chính quốc tế và Chính phủ nước ngoài.
2. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
2.1. Tính độc lập của cơ quan KTNN
Các quy định về một cơ quan KTNN tại cả ba nước đều được đề cập
đến trong Hiến pháp và coi đó như là một cơ quan có thẩm quyền cao trong
kiểm tra tài chính nhà nước, tuy nhiên chỉ có Hiến pháp của Liên bang Đức
có những quy định đề cập rõ đến tính độc lập của cơ quan KTNN, trong
Hoàng Văn Tùng – Kiểm toán 49B

17
Đề án kiểm toán GVHD: TS.Phan Trung Kiên
Hiến pháp của Trung Quốc cũng có một điều nói đến tính độc lập này và tại
cả ba nước tính độc lập của cơ quan này đều được nói rõ hơn trong các đạo
luật về kiểm toán.
Sự độc lập về tài chính là tiền đề cơ bản cho những phương thức làm
việc mang tính tự chủ, do vậy trong khuyến cáo của tuyên bố Lima nói rất rõ
điều này. Trong ba nước được giới thiệu ở trên chỉ có Đức là sự độc lập về
tài chính được nói rõ trong các luật về kiểm toán; tại Nga, trong luật về cơ
bản kiểm toán chỉ dừng lại ở việc lưu ý rằng phải tôn trọng tối đa tính độc
lập của KTNN trong việc lập dự toán ngân sách, qua đó hạn chế sự tác động
của các cơ quan khác; tại Trung Quốc, trong luật về cơ quan KTNN chỉ quy
định rằng kinh phí để trang trải cho hoạt động của cơ quan này được cấp từ
ngân sách mà không quy định rõ là cơ quan nào phê duyệt kinh phí này và ai
là người xác định mức kinh phí đó. Qua đó ta có thể thấy rõ các quy định về
tính độc lập của cơ quan KTNN ở Đức rất chặt chẽ và rõ ràng hơn so với ở
Nga và Trung Quốc.
2.2. Mối quan hệ với Chính phủ và Quốc hội
Tại Đức như đã phân tích ở trên cho thấy cơ quan KTNN thực sự
được xây dựng như là những cơ quan nhà nước độc lập, bằng việc tách cơ
quan kiểm tra tài chính khỏi các cơ quan hành pháp hay lập pháp về mặt tổ
chức sẽ đảm bảo sự tách rời và không đồng nhất giữa ngừời kiểm tra với
người bị kiểm tra và giữ được một khoảng cách tối thiểu cần thiết - điều này
đảm bảo tính độc lập về mặt nghiệp vụ nhưng có sự phối hợp rất chặt chẽ
với nhau, ngoài ra KTNN liên bang còn thành lập một số kiểm toán khu vực
nhưng không trực thuộc về mặt hành chính với các bang, điều này cho thấy
tính độc lập cao của KTNN khu vực. Điều này tương đối giống với tại Nga
Hoàng Văn Tùng – Kiểm toán 49B
18
Đề án kiểm toán GVHD: TS.Phan Trung Kiên

khi mà KTNN Trung ương chỉ thành lập các KTNN khu vực để không bị các
địa phương chi phối.
Trái lại, ở Trung Quốc do việc thành lập các cơ quan kiểm toán cùng
cấp với các chính quyền từ cấp huyện trở lên và chịu sự chỉ đạo song trùng
từ 2 cơ quan là chính quyền cùng cấp và KTNN cấp trên do đó hạn chế
nhiều đến tính độc lập của cơ quan này.
Đương nhiên ở đây không thể đi tới chỗ hoàn toàn tách rời cơ quan
KTNN khỏi Quốc hội và Chính phủ được, bởi vì việc lập ra cơ quan này
cũng nhằm để báo cáo cho Quốc hội và Chính phủ biết rõ việc quản lý công
quỹ và tài sản quốc gia đã được thực hiện như thế nào; mặt khác có nhiều
lĩnh vực khi thực hiện nhiệm vụ kiểm toán rất cần sự hợp tác chặt chẽ từ
chính hai cơ quan này đặc biệt trong việc tư vấn các dự luật cho Quốc hội
hay kiến nghị Chính phủ phải sửa chữa và khắc phục các yếu kém trong
quản lý và điều hành ngân sách.
Một trong những quan hệ cần sự độc lập của cơ quan KTNN trước
Quốc hội và Chính phủ là việc cơ quan KTNN được quyền tự lựa chọn
chương trình và mục tiêu kiểm toán hàng năm, được độc lập thực hiện các
chương trình xây dựng mà không phụ thuộc vào sự ngăn trở hay giao nhiệm
vụ từ cơ quan lập pháp hay tư pháp. Điều này thực sự đã được các cơ quan
KTNN tại Đức và Nga tiến hành kể từ khi thành lập tới nay. Trái lại ở Trung
Quốc, Chính phủ (Quốc vụ viện) giao nhiệm vụ cho cơ quan KTNN thực
hiện hàng năm, đặc biệt đối với các DNNN giữ vai trò quan trọng trong nền
kinh tế, trên cơ sở đó KTNN mới tiến hành lập kế hoạch và chương trình
kiểm toán, lựa chọn các đơn vị được kiểm toán phù hợp với nhiệm vụ được
giao.
Hoàng Văn Tùng – Kiểm toán 49B
19
Đề án kiểm toán GVHD: TS.Phan Trung Kiên
2.3. Hình thức Tổ chức
Hình thức tổ chức của các nước được nghiên cứu ở trên cho thấy sự

khác nhau, mỗi nước một kiểu từ hình thức có nhiều cơ quan KTNN độc lập
nhau như ở Đức, đến hình thức có một cơ quan KTNN nhưng lại được tổ
chức theo mô hình tập trung thống nhất như kiểu Nga hay một cách thức là
các cơ quan KTNN trực thuộc cả vào chính quyền địa phương như tại Trung
Quốc. Tuy nhiên các mô hình này đều có sự thích ứng với hình thức tổ chức
NSNN và các quy định trong Hiến pháp và Luật về tổ chức bộ máy nhà
nước của từng nước. Việc bổ nhiệm và miễn nhiệm đối với người đứng đầu
các cơ quan KTNN thường được sự phê chuẩn của Quốc hội và người đề cử
thường dành quyền cho Chính phủ. Nhiệm kỳ công tác của người đứng đầu
và các uỷ viên của nó thường kéo dài hơn nhiệm kỳ của Chính phủ và Quốc
hội, họ chỉ bị miễn nhiệm khi không đủ sức khoẻ, về hưu hoặc vi phạm các
quy định nghề nghiệp.
2.4. Cơ chế hoạt động
Như đã phân tích ở trên, đứng đầu các cơ quan này ở các ba nước đều
có một chủ tịch Cơ quan KTNN, trong luật kiểm toán của Đức và Nga thể
hiện rõ một cơ cấu tổ chức mang tính đồng sự, tức là các vấn đề, kết luận
của cơ quan kiểm toán được quyết định bởi một hội đồng có nhiều thành
viên (còn gọi là các uỷ viên) và thông qua quyết định theo nguyên tắc đa số.
Các quyền quyết định được phân cấp xuống dưới theo từng lĩnh vực nhất
định. Riêng tại Đức còn có các hội đồng cấp vụ hay phòng để quyết định
những vấn đề riêng phụ thuộc trách nhiệm của Vụ hay phòng đó. Tuy nhiên
tại Trung Quốc không có quy định rõ về cơ cấu tổ chức nội bộ của cơ quan
KTNN, tại điều 39 của luật kiểm toán chỉ quy định rằng các nhóm, đoàn
kiểm toán phải báo cáo với KTNN và các báo cáo này sẽ được kiểm tra lại
Hoàng Văn Tùng – Kiểm toán 49B
20
Đề án kiểm toán GVHD: TS.Phan Trung Kiên
trước khi phát hành cho đơn vị được kiểm toán biết. Như vậy ở đây có thể
nhận thấy một số yếu tố của một cơ cấu đồng sự trong vấn đề quyết định.
Trong các luật kiểm toán đề nghiên cứu đều đòi hỏi năng lực, trình độ

của các uỷ viên cũng như nhân viên kiểm toán phải đáp ứng được yêu cầu
của những công việc phức tạp, kinh nghiệm và trình độ chuyên sâu trong
lĩnh vực kiểm tra tài chính. Trong luật và các quy định mang tính nội bộ đều
yêu cầu một chương trình bồi dưỡng, đào tạo nghiệp vụ và được sát hạch
qua các kỳ thi hàng năm để đảm bảo nhân viên của KTNN luôn được trang
bị những kiến thức, kỹ năng mới nhất đáp ứng yêu cầu của công việc ngày
càng khó khăn hơn. Đây là điều kiện tất yếu để có được các báo cáo kiểm
toán với chất lượng cao.
CHƯƠNG II: MÔ HÌNH KIỂM TOÁN NHÀ NƯỚC TẠI VIỆT NAM
I. Quá trình hình thành và phát triển của kiểm toán nhà nước tại Việt
Nam
Trên thế giới, tổ chức quốc tế các cơ quan KTNN (INTOSAI) được
thành lập từ năm 1953 với 34 thành viên, đến nay bao gồm 178 nước thành
viên; ở Châu á, tổ chức các cơ quan kiểm toán Châu á (ASOSAI) cũng đã
Hoàng Văn Tùng – Kiểm toán 49B
21
Đề án kiểm toán GVHD: TS.Phan Trung Kiên
được thành lập vào năm 1978 cho đến nay đã có gần 35 nước th_nh viên,
KTNN Việt Nam là thành viên chính thức của INTOSAI từ tháng 4/1996 và
là thành viên của ASOSAI từ tháng 1/1997. Hầu hết các cơ quan KTNN trên
thế giới đều là thành viên của INTOSAI, song mỗi cơ quan KTNN ở mỗi
nước lại ra đời trong những điều kiện kinh tế, chính trị và thời điểm lịch sử
khác nhau. KTNN tại một số nước ra đời từ rất sớm: KTNN Pháp ra đời năm
1807, KTNN tại Anh được thiết lập năm 1834, KTNN Thái Lan Năm 1875,
… Hoàn cảnh cụ thể ra đời mỗi cơ quan KTNN tại mỗi nước trên thế giới
không hoàn toàn giống nhau nhưng đều dựa trên những điều kiện phát triển
nhất định của Nhà nước, những điều kiện về kinh tế – chính trị chín muồi. Ở
nước ta, KTNN ra đời cũng dựa trên những điều kiện đó, cụ thể:
* Yêu cầu của quản lý tài chính nhà nước - điều kiện kinh tế
Bản thân hoạt động tài chính nhà nước luôn gắn với sự phát triển của

Nhà nước và của nền kinh tế. Nhà nước tập trung được những nguồn lực
khổng lồ trong xã hội và được sử dụng cho nhiều mục tiêu khác nhau với
các quan hệ tài chính tiền tệ rất phức tạp. Vai trò của tài chính nhà nước
được thể hiện rõ hơn trong việc đưa ra những chính sách mang tầm chiến
lược, những giải pháp động viên mọi nguồn lực của quốc gia, đảm nhận
chức năng quản lý ngân quỹ của Nhà nước, thu đúng, thu đủ theo đúng chính
sách của Nhà nước. Đồng thời tổ chức phân phối và đầu tư các nguồn lực đó
sao cho có hiệu quả; việc phân phối các nguồn lực này vừa đảm bảo cho an
ninh quốc gia vừa đảm bảo sự phát triển kinh tế và sự công bằng. Như vậy
đòi hỏi phải có sự kiểm tra việc quản lý và sử dụng NSNN, Quốc hội với tư
cách là cơ quan quyền lực cao nhất của Nhân dân – chủ thể sở hữu, phải
thực hiện quyền quyết định về tài chính nhà nước. Do vậy cần phải kiểm tra,
giám sát đối với các chủ thể được giao quản lý và sử dụng tài chính nhà
Hoàng Văn Tùng – Kiểm toán 49B
22
Đề án kiểm toán GVHD: TS.Phan Trung Kiên
nước, mặt khác Chính phủ với tư cách là chủ thể quản lý tài chính nhà nước
cũng cần phải kiểm tra việc sử dụng các khoản tài chính này. Xuất phát từ
nhu cầu đó đã hình thành nên một hệ thống các cơ quan kiểm tra, kiểm soát,
trong quá trình phát triển của hệ thống ấy tất yếu hình thành nên một tổ chức
độc lập từ bên ngoài và hoạt động mang tính chuyên môn cao nhằm kiểm
tra, đánh
giá mọi hoạt động quản lý và sử dụng tài chính nhà nước - đó chính là
cơ quan KTNN. Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường, chức năng quản
lý nhà nước về kinh tế hết sức quan trọng. Do vậy, việc đề ra những giải
pháp kinh tế, đầu tư hạ tầng kinh tế, đầu tư cho những tổ chức kinh tế của
Nhà nước, cho khoa học – giáo dục, công nghệ… ngày càng lớn. Mặt khác,
các biện pháp kinh tế của Nhà nước lại tác động lớn đến những cân đối của
nền kinh tế, sự ổn định và tăng trưởng kinh tế làm xuất hiện nhu cầu kiểm
tra tài chính nhà nước - đòi hỏi KTNN phải ra đời và hoạt động có hiệu quả

để đáp ứng yêu cầu đó.
* Đòi hỏi của Nhà nước pháp quyền - điều kiện chính trị
Đặc tính cơ bản của Nhà nuớc pháp quyền là pháp luật có vai trò
quyết định
Về tổ chức Nhà nước và mọi hoạt động quản lý xã hội của Nhà nước;
nó được hình thành dựa trên sự phát triển của nền dân chủ phát triển cao.
Chính đặc tính đó của Nhà nước đòi hỏi Nhà nứớc với tư cách là đại diện
cho nhân dân, tập trung quyền lực của nhân dân phải quản lý và sử dụng
đúng mục đích, đúng pháp luật, hiệu quả, tiết kiệm mọi nguồn lực kinh tế
của xã hội. Trong điều kiện đó, cần có KTNN với tư cách là một tổ chức
hoạt động độc lập để đánh giá quá trình quản lý và sử dụng các nguồn lực
Hoàng Văn Tùng – Kiểm toán 49B
23
Đề án kiểm toán GVHD: TS.Phan Trung Kiên
kinh tế của Nhà nước. Như vậy, chính Nhà nước pháp quyền là nhân tố môi
trường chính trị- pháp luật của sự ra đời KTNN.
Trong điều kiện kinh tế – chính trị của các nước trong hệ thống
CNXH trước đây không tồn tại một cơ quan KTNN bởi Nhà nước quản lý xã
hội mang tính “mệnh lệnh, hành chính, bao cấp”, chỉ đến khi nước ta thực
hiện đổi mới nền kinh tế theo hướng tôn trọng nền kinh tế thị trường với các
quan hệ kinh tế hàng hoá, bộ máy nhà nước được phân chia lại chức năng,
nhiệm vụ cụ thể theo hướng cải cách hành chính tạo nên Nhà nước pháp
quyền nhằm tập trung quyền lực về tay nhân dân thì KTNN mới được ra đời
để đáp ứng đòi hỏi của nền kinh tế.
Chính vì những yêu cầu trên, ngày 11/7/1994, Chính phủ đã ban hành
Nghị định số 70/CP về việc thành lập cơ quan KTNN và Quyết định số
61/TTg ngày 24/01/1995 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Điều lệ
Tổ chức và hoạt động của Kiểm toán nhà nước nhằm "giúp Thủ tướng Chính
phủ thực hiện chức năng kiểm tra, xác nhận tính đúng đắn, hợp pháp của các
tài liệu và số liệu kế toán, báo cáo quyết toán của cơ quan Nhà nước, các

đơn vị sự nghiệp, đơn vị kinh tế Nhà nước, các đoàn thể quần chúng, các tổ
chức xã hội có sử dụng kinh phí do ngân sách Nhà nước cấp" (Điều 1); đánh
giá sự tuân thủ pháp luật và hiệu quả hoạt động của các đơn vị được kiểm
toán.
Với tinh thần đó, hàng năm các số liệu, báo cáo quyết toán ngân sách
của các địa phương trước khi trình ra Hội đồng nhân dân; Tổng quyết toán
NSNN trước khi trình ra Quốc hội; báo cáo quyết toán của các cơ quan, đơn
vị thụ hưởng ngân sách, các chương trình, dự án, công trình đầu tư xây dựng
cơ bản của Nhà nước, các DNNN cần phải được KTNN tiến hành kiểm toán
và xác nhận.
Hoàng Văn Tùng – Kiểm toán 49B
24
Đề án kiểm toán GVHD: TS.Phan Trung Kiên
Cơ cấu tổ chức bộ máy giúp Tổng Kiểm toán Nhà nước thực hiện
nhiệm vụ được giao gồm: 4 tổ chức KTNN chuyên ngành (Kiểm toán Ngân
sách Nhà nước; Kiểm toán Đầu tư xây dựng cơ bản và các chương trình, dự
án, vay nợ, viện trợ Chính phủ; Kiểm toán Doanh nghiệp Nhà nước; Kiểm
toán Chương trình đặc biệt: an ninh, quốc phòng, dự trữ quốc gia) ; Văn
phòng Kiểm toán Nhà nước; Trung tâm Khoa học và bồi dưỡng cán bộ;
Phòng Thanh tra và kiểm tra nội bộ và 4 tổ chức KTNN khu vực (KTNN
khu vực phía Bắc, KTNN khu vực miền Trung, KTNN khu vực phía Nam và
KTNN khu vực miền Tây Nam Bộ).
Đứng đầu KTNN là Tổng Kiểm toán Nhà nước, giúp Tổng Kiểm toán
Nhà nước phụ trách từng lĩnh vực công tác của KTNN có các Phó Tổng
Kiểm toán Nhà nước. Tổng Kiểm toán Nhà nước và các Phó Tổng Kiểm
toán Nhà nước do Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm và miễn nhiệm. Đứng đầu
các Kiểm toán chuyên ngành và KTNN khu vực là Kiểm toán trưởng (Vụ
trưởng); giúp việc Kiểm toán trưởng có các Phó Kiểm toán trưởng. Kiểm
toán trưởng và Phó Kiểm toán trưởng do Tổng Kiểm toán Nhà nước bổ
nhiệm và miễn nhiệm.

Kinh phí hoạt động của hệ thống KTNN do NSNN cấp. Biên chế của
hệ thống KTNN thuộc biên chế quản lý Nhà nước. Tổng Kiểm toán Nhà
nước xây dựng và trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt biên chế và kinh phí
hoạt động của hệ thống kiểm toán.
Hiện nay, KTNN có 460 cán bộ, kiểm toán viên và nhân viên. Qua
hơn 10 năm hoạt động từ 1994 tới 2010, KTNN đã khẳng định được sự cần
thiết và vai trò quan trọng của mình; góp phần tăng cường quản lý làm lành
mạnh hoá nền tài chính quốc gia.
Hoàng Văn Tùng – Kiểm toán 49B
25

×