Tải bản đầy đủ (.doc) (6 trang)

NHÂN VẬT TỰ THÚ CỦA DOSTOIEVSKI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (153.58 KB, 6 trang )


Nhân vật tự thú trong "Bút kí dưới hầm" của F.M. Dostoievski
Nguyễn Thị Vượng
Theo đánh giá của L. Grôxman, Bút ký dưới hầm (1863) là “một trong những trang bộc
trực nhất của Dostoievski”
(1)
và theo sự xác định của chính Dostoievski, tác phẩm “là bước
tiến mới của tiểu thuyết tâm lý cá nhân ở châu Âu vào nửa sau thế kỷ XIX”
(2)
. Với tác phẩm
này Dostoievski là người đầu tiên trong lịch sử văn học Nga đưa ra một kiểu nhân vật mới -
Nhân vật tự thú - tiền thân của kiểu nhân vật tự ý thức trong năm tiểu thuyết lớn của ông sau
này: Tội ác và trừng phạt (1866),Chàng Ngốc (1868), Lũ người quỷ ám (1872), Gã thiếu
niên (1975), Anh em nhà Karamazov (1879-1880).
Không phải ngẫu nhiên, Dostoievski quan tâm tới kiểu nhân vật tự thú. Kiểu nhân vật
này đã manh nha trong Kẻ hai mặt(1845). Kẻ hai mặt được coi là một công trình nghiên
cứu tâm lý sâu sắc của Dostoievski về trạng thái phân lập nhân cách. Nhân vật Goliakin ám
ảnh nỗi đau cay đắng trong tâm hồn của loại người luôn khiếp hãi, nhu nhược trước sự thực
trần trụi, khắc nghiệt, thô bạo của cuộc đời. Đây là một chủ đề hoàn toàn mới, “một thế giới
hoàn toàn mới mẻ, mới được khám phá, và được xác lập lần đầu tiên” như Belinski nhận
xét. Dostoievski phát hiện ra nét tâm lý cơ bản khác biệt của loại người này, không trùng
khít với kiểu nhân vật bé nhỏ của Puskin và Gogol. Xamxon Vưrin (Người coi trạm -
1830) của Puskin, Akaki Basmachkin (Chiếc áo khoác - 1840) của Gogol là những công
chức nghèo hèn trong xã hội, khiếp nhược trước mọi sự tước đoạt và chấp nhận thân phận
như là một tiền định với những phản ứng yếu ớt, thụ động. Họ mang trong mình cái đẹp và
bị tước đoạt. Họ bị triệt tiêu dần khả năng làm người, và vì thế, họ là những con người bé
nhỏ. Goliakin của Dostoievski, trái lại, không thừa nhận cái nghèo hèn, trong khi cái nghèo
hèn cứ hiển hiện, không chỉ ở hình hài mà cả trong ý nghĩ. Theo L. Grôxman, sự ngộ nhận
đó khiến cho Goliakin điên dại, bởi những đòi hỏi chính đáng về địa vị không thể “thắng nổi
những dấu vết nghèo hèn trong con người anh ta”
(3)


và anh ta đã bị xã hội gạt bỏ thẳng thừng
và Dostoievski đã khám phá ra “tính cách của một tâm lý phi pháp về đạo đức, một uy tín
giả dối về tinh thần”
(4)
.

Như chính Dostoievki nói, Goliakin “là một điển hình vĩ đại nhất, xét
về tầm quan trọng xã hội của nó mà tôi là người đầu tiên phát hiện và tiên đoán ra nó”
(5)
. Bi
kịch của Goliakin sẽ được gia tăng, làm mới về chất ở sự tự thú của nhân vật không tên
trong Bút ký dưới hầm sau này.
Bút ký dưới hầm là câu chuyện của nhân vật không tên xuất hiện ở ngôi thứ
nhất. Tôi xem thường toàn bộ cuộc đời mình bằng những việc đồi phong bại tục trong xó
nhà, sống nghèo khổ thiếu thốn. Ở dưới căn nhà hầm, anh ta đã mất hết những thói quen của
một con người và trở nên độc ác một cách tinh tế. Anh ta là con người khép kín, cô độc, cay
độc, tự giam hãm mình dưới nhà hầm, đi tìm tự do trong việc xa lánh tất cả, cách ly xã hội,
với ý thức không can dự đầy thâm ý.
Nhân vật tôi sống, hoạt động trong bối cảnh tầng hầm. Tầng hầm được hiểu là một
kho chứa, ở dưới đất, dưới ngôi nhà, dùng để cất giấu tài sản, rượu, lúa, vật dụng của
người Nga. Đó là khoảng không gian tối, ẩm thấp. Trong tác phẩm, ngoài ý nghĩa thực là
nơi chứa đồ, tối tăm, chật chội, hầm còn có ý nghĩa biểu trưng: sự khép kín, tù hãm. Hầm
là môi trường sống, là nơi để nhân vật tôi tự do nhận thức chính mình, để từ đó nhìn ra cái
bí ẩn nhất, sâu thẳm nhất, thậm chí lạc điệu nhất, cơ bản nhất của thế giới nội tâm của
mình. Trong bối cảnh đó, nhân vật xuất hiện và thực hiện hoạt động tự thú. Đây là một
khám phá của Dostoievski. Nhân vật của ông không có một không gian rộng lớn, thoáng
đãng. Sống ở Peterbuarg - một thủ đô hoa lệ, nhưng những ồn ào, đông đúc phố phường,
những phòng khách tráng lệ không mảy may có trong cảm nhận của nhân vật. Nhân vật
sống ở dưới hầm, gọi chỗ ở của mình là “cái lỗ”, “cái xó”, “cái hầm”. Có tới 9 lần nhân
vật nói về “cái lỗ” đó của mình, và cất tiếng chửi “Tiên sư cha cái cuộc đời dưới hầm”.

Tuy nhiên, nhân vật không có ý định từ bỏ cuộc sống đó, bởi, đó là nơi, anh ta tự do nhất,
suồng sã nhất để hoặc “tấn phong”, hoặc “hạ bệ” (từ dùng của M. Bakhtin) chính mình.
Vấn đề đặt ra, cuộc sống dưới hầm đó, bối cảnh tầng hầm ấy có là một trong những biểu
hiện của xã hội hiện tại không? Không thể nói cuộc sống đô thị ồn ào, đông đúc thậm chí
náo loạn không tác động đến nhân vật, đến đời sống dưới hầm của anh ta. Có điều anh ta
cách ly nó, xa lánh nó, tự đặt mình ngoài nó để chiêm nghiệm. Sống, ăn, nghỉ trong xó
xỉnh tối tăm chật hẹp, đi lại trong không gian giới hạn ấy là thú vui, lẽ sống còn của nhân
vật. Có chăng là sự mở rộng không gian đến những đường phố ngóc ngách, cũng chật hẹp,
tối tăm, với những cuộc tiếp xúc thoáng qua, ngẫu nhiên. Những yếu tố này định tính sự
không cởi mở, thiếu nồng nhiệt, luôn cau có, cô độc, ích kỷ, độc ác của nhân vật.
Nhân vật tự do bộc lộ tất cả mọi bí ẩn trong tâm hồn mình, khi chính anh ta đã không
còn coi mình ra gì nữa. Với bối cảnh tầng hầm, nhà văn chọn cách giới thiệu nhân vật hết
sức mới lạ. Mở đầu tác phẩm, nhân vật xuất hiện, ngay lập tức, tung vào mặt độc giả một
loạt lời tự giới thiệu kì quái:
- “Tôi là một người bệnh hoạn… Tôi là một người độc ác. Tôi là một người tẻ nhạt.
Tôi chắc là tôi đau gan (…) và có khi tôi cũng chẳng biết sự thực tôi đau chỗ nào nữa”.
- (…) Năm nay tôi bốn mươi. Trước kia tôi là một công chức (…). Hồi đó tôi là một
công chức độc ác. Tôi rất lỗ mãng, và còn lấy làm sung sướng vì thế. Tôi không ăn hối lộ
của ai…”

.
- “Tôi đã nói dối (…) nói dối vì tôi tức”

.
- “Tôi là một tên thư ký hạng bét…”.
- “Tôi là một thằng lười - Đó là một tước vị, một chức phận, một sự nghiệp…”, v.v…
Hoàn toàn không có sự dẫn dắt của người kể chuyện dù ẩn mình hay hiện hữu, không có
sự sắp xếp, móc nối nhân vật này với nhân vật khác, không có sự giới thiệu lai lịch, tên tuổi, trang
phục, diện mạo như những tác phẩm tự sự truyền thống khác. Nhân vật không tên tự nó giới
thiệu nó, lật tẩy nó, bôi nhọ nó, xỉ vả nó, làm nhục nó. Những lời như thế xuất hiện hầu hết trên

các trang của tác phẩm cho thấy: nhân vật có quyền tối cao trong việc thể hiện mình. Cách tự
giới thiệu này, mặc dù có làm choáng váng, “tối mặt xẩm mày” (Nguyễn Tuân) người đọc,
nhưng lại tạo được hiệu quả tiếp nhận rất lớn.
Tại sao lại có sự tự bôi nhọ, tự phủ nhận bản thân ở nhân vật không tên? Có thể nói,
quá trình tự thú xuất hiện ngay từ đầu và xuyên suốt tác phẩm. Nhà nghiên cứu B.P.
Vicheslavtrev trong bài Đi tìm tính cách Nga, đã khẳng định Dostoievski là người tiếp tục
chủ đề sợ đau khổ của người Nga. Hơn ai hết, Dostoievski nắm bắt: “Đau khổ ở chính
trong con người, đây không phải là số phận bên ngoài, bị khuất phục bởi sự không hiểu biết,
vì lầm lạc. Đây là lý trí của chính bản thân, hay đúng hơn là tính nhu nhược của chính bản
thân”
(6)
. Nhân vật không tên của ông đau khổ sâu sắc, đau khổ triền miên. Tâm hồn anh ta
luôn phải dằn vặt khôn nguôi giữa thông minh - ngu độn, giữa tốt - xấu, giữa thiện - ác, giữa
sáng - tối… ngay trong bản thân. Sự tự thú của nhân vật ngày càng được đẩy đến tột cùng
khi trong anh ta xuất hiện sự tranh luận. Nhân vật không tranh luận với một đối tượng nào
cụ thể. Anh ta đặt vấn đề và tranh luận với đối tượng tưởng tượng, là những “quý vị” hoàn
toàn vắng bóng ở đời sống thực, nhưng lại sừng sững trong đầu anh ta. Những cụm
từ: “Thưa quý vị…”; “vừa nãy, tôi có nói…”; “Chắc quý vị đâu có thèm hiểu…”, “Hay quý
vị tưởng tôi đang ăn năn…”; “Tôi đánh cuộc…”; “Như tôi chẳng hạn…”; “Tôi ngờ rằng
quý vị…”… xuất hiện rất nhiều, liên tục trong dòng ý thức của nhân vật “tôi”, giúp người
đọc nhận biết trường liên tưởng sâu, rộng trong đối thoại của nhân vật, thông qua đó nhận rõ
tính chất tự thú, mục đích tự thú của nhân vật.
Việc tưởng tượng ra người khác tranh luận với mình, dự đoán cả tiếng nói của người
khác về mình, với mình, chính là một cách thức hướng tới sự không lối thoát của tranh luận.
Rõ ràng, trong cách tranh luận đó, người khác và tiếng nói của họ bủa vây tôi, không những
không cho tôi dừng sự tự thú lại, trái lại thúc đẩy sự tự thú. Thực chất, đây là cách để nhân
vật tự truy mình đến tận cùng, vì, không ai không cho tôi đối thoại và tranh luận
cả. Tôi muốn như vậy và tôi đã như vậy trong khi tự thú.
Sự tranh luận, cách thức tranh luận là điều kiện để nhân vật tự bộc lộ. Chỉ với hình thức
phân thân tranh luận, sự tự thú mới diễn ra một cách thoải mái nhất, đến cùng nhất. Nhờ đó,

hiệu quả của việc liên kết các tư tưởng, các ý nghĩ, các đối tượng tranh luận trong tác phẩm
tăng lên rất nhiều. Sự tự thú, cũng nhờ thế, tránh đi được rất nhiều những rườm rà, giới thiệu,
sắp đặt cần thiết khác. Thông qua đó, người đọc nhận diện được chân dung tinh thần
của tôi. Vậy, tôi là ai? Tôi là một người thông minh, có ý thức sâu sắc và sáng suốt về đạo
đức, nhân cách… nhưng anh ta lại không thể làm gì khác được. Vì thế, anh ta, rốt cuộc là kẻ
đớn hèn, triền miên trong cô đơn, sầu hận. Anh ta quanh quẩn giữa ý thức muốn thoát ra
khỏi sự ti tiện, thấp hèn và nỗi đau ngụp lặn trong đớn hèn, bất tài, bất lực. Lỗ hầm là nơi anh
ta chui rúc, ẩn mình để thấu triệt tâm can, không phải để cho tốt hơn, mà để cho tan biến
mình đi. Dòng ý thức của nhân vật tưởng như bất tận, thể hiện nỗi cố gắng đến tuyệt vọng,
nhằm bôi nhọ mình trong người khác, phá tan mình trong người khác. Theo dòng ý thức, nội
dung tranh luận tưởng như rất ngẫu nhiên nhưng lại rất phong phú, phù hợp với tâm trạng tự
thú dưới hầm. Chúng được liên kết với nhau bởi chính sự ức đoán tiếng nói người khác
của tôi, xoay quanh tôi, làm rõ tôi.
Lấy mục 1 - Phần 1 làm ví dụ: tôi giới thiệu mình là một người bệnh hoạn, mắc bệnh
đau gan, nhưng anh ta cũng không biết mình đau ở chỗ nào, và không đi khám bác sỹ vì tính
độc ác. Tính độc ác gợi cho tôi nhớ đến trước đây là “một tên công chức độc ác”.
Từ “công chức” liên quan đến “bàn giấy”. “Bàn giấy” làm tôi nhớ đến “niềm khoái lạc
vô tả khi hành hạ được ai đó. Mà hầu như không bao giờ tôi không thành công”, để rồi,
từ “không thành công” lại dẫn ý nghĩ của tôi đến một kết luận: “Cái làm tôi điên tiết nhất
chính là ở chỗ, ngay cả những lúc cáu giận nhất, tôi luôn cảm thấy xấu hổ nhận ra rằng tôi
chẳng những không phải là người độc ác, mà thậm chí còn không phải là người hay cáu
giận… ngay sau đó, tôi sẽ lại nghiến răng tự xỉ vả mình và bị mất ngủ cả mấy tháng trời vì
cảm giác đớn hèn”. Chạm đến “đớn hèn”, ngay lập tức tôi lại phủ nhận:“Vừa nãy tôi có nói
hồi trước tôi là một tên công chức độc ác là tôi đã nói dối. Nói dối vì tôi tức”.
Những liên kết kiểu này có thể gọi là sự khơi mào và tiếp nối tranh luận, tạo ra dòng
chảy liên tục trong ý thức nhân vật. Sự khơi mào tranh luận thường được đặt ở cuối một
mục, mở đầu cho mục sau. Nhân vật tự diễn giải, tự khẳng định, lại tự phủ nhận. Kết quả
của sự tấn phong, hạ bệ đến chóng mặt đó là sự tự xóa sổ mình của nhân vật:
“Tôi không những không thể trở thành độc ác, mà chẳng thể trở thành cái quái gì hết:
chẳng thể ác mà cũng chẳng thể hiền, chẳng thể đểu mà cũng chẳng thể lương thiện, chẳng

thể anh hùng mà cũng chẳng thể là một con bọ”. Đó chính là sự thực mà nhân vật đã thấu
triệt, để rồi “bất chấp mọi trò đánh tráo và những cái vô tri thức đó, ngươi vẫn đau khổ, và
càng không biết rõ bao nhiêu, ngươi lại càng đau khổ bấy nhiêu”. Càng đau khổ bao nhiêu,
sự đau khổ lại càng hiển hiện một cách thản nhiên bấy nhiêu, và nhân vật “đã mang tâm
trạng một kẻ sống dưới hầm”. Cách thức khơi mào, tiếp nối tranh luận này góp phần đắc lực
xác định tính chất tự thú của nhân vật. M. Bakhtin xác định: “Ngôn từ nhân vật đã đập vỡ
mặt bằng độc thoại của tiểu thuyết và buộc phải trực tiếp trả lời. Dường như nhân vật không
phải là khách thể của lời văn tác giả, mà là chủ nhân có toàn vẹn giá trị và toàn quyền về lời
nói của mình”
(7)
.
Quá trình tranh luận được gia tăng những yếu tố tham gia tranh luận. Nếu như ở Phần
1, nhân vật tranh luận với những đối tượng do anh ta tưởng tượng ra, với nội dung, lời nói
của họ do anh ta ức đoán ra, thì ở Phần 2, đối tượng tham gia tranh luận đã hiện hữu. Đó là
những nhân vật trong trường quan hệ lỏng lẻo, thoáng qua, ngẫu nhiên của tôi. Sự gia tăng
đối tượng tham gia tranh luận là minh chứng hùng hồn cho nội dung tranh luận của tôi ở
Phần 1, khi sự tự thú được huy động tới tột đỉnh về mặt lý thuyết.
Toàn bộ khung lý thuyết của sự tự thú (Phần 1) cho thấy nhân vật đã ba hoa hết cỡ,
tưởng như có thể lý giải được và vượt lên sau hàng loạt bao biện, xỉ vả, vạch trần ghê gớm
ấy. Cái đau đớn của sự đau khổ là ở chỗ: chính quá trình tự thú ấy đã đi liền với quá trình
đánh mất nhân cách, làm ra cội nguồn của đau khổ. Điều này được chứng thực ở Phần 2. Tất
cả những gì hay ho nhất hóa ra tan biến khi va chạm với cuộc sống thực. Sự xóa sổ của tôi ở
trên, tưởng đâu là phản vệ trước những đồi bại của cuộc đời, để giữ cho được cái gọi là
người, nhưng không phải. Tại Phần 2, nhân vật đã hiện nguyên hình là một tên nhu nhược,
hèn kém, nhẫn tâm, vô liêm sỉ. Y đấu tranh bảo vệ nhân cách, thực chất y đã xổ toẹt vào
nhân cách.
Với giọng điệu mỉa mai, giễu cợt, tôi đã hồi tưởng lại nỗi đau phải nếm trải từ thời
mới đôi mươi của mình. Hồi tưởng là hình thức nếm trải lại, nhận thức lại một cách sâu
sắc sự hèn kém, nhu nhược, ti tiện thuở ấy và bây giờ của tôi. Cuộc hồi tưởng vì thế
(mục 1, Phần 2) không có giá trị thanh lọc, trái lại, gia tăng chất “hung chiến”, tiếp tục

bóc mẽ sự đạo đức giả, vô liêm sỉ của nhân vật. (Mục 4,6,7,8,9 - Phần 2).
“(…) Tôi cảm thấy muôn vàn day dứt, muôn vàn tủi nhục, và lòng đầy uất ức (…).
Như một loài côn trùng, tôi len lách qua những đám đông một cách khả ố nhất (…). Quả là
một chua xót, một tủi nhục không bờ bến khi ý thức được rõ mình chỉ là một con ruồi giữa
cái thế giới thanh lịch ấy, một con ruồi bẩn thỉu, có hại, cố nhiên có thông minh và cao
thượng hơn tất cả bọn họ…”.
Trong quan hệ với bạn cũ Simonôv, với cô gái điếm Lida, tôi bộc lộ rõ bản
thân. Tôi mong “xuất hiện trong ánh hào quang”, với “vòng nguyệt quế trên đầu”, trong
khi thực tại, “tôi rất yên ổn bằng lòng với vai trò thấp kém nhất”. Thực chất, tôi là
ai? Tôi là kẻ “khi ngụp lặn trong bùn, tôi tự an ủi rằng những lúc khác tôi đã là kẻ anh hùng,
và cái cốt cách anh hùng đó sẽ che đậy đống bùn nhơ (…). Bởi vậy tôi vẫn có thể đắm mình
trong bùn nhơ như thường”.
Cái hay là ở chỗ, tất cả những gì tôi làm với lũ Simonôv (cảnh cố tình nện gót trước sự
thờ ơ của bọn Simonôv), với Lida (cảnh “thức tỉnh” Lida), với Apollon (việc trả tiền
lương), v.v… không phải tôi không biết, mà tôi hoàn toàn ý thức được, làm chủ được. Tức
là tôi biết tôi làm gì. Khi không chịu nổi sự khinh miệt, tôi cần phải lấy lại sự nhu nhược
mà tôi đã bộc lộ, tôicần phải trả thù cho sự nhục nhã của mình. Ở góc độ đó tôi là người có
nhân cách. Nhưng tôi lại không vượt qua được chính mình, và khi đó, tôi sẵn sàng làm, kể
cả những cái hèn nhất, khốn nạn nhất, vô liêm sỉ nhất. Hãy xem tôi gặm nhấm nỗi đau của
kẻ khác:
“Tại sao cô lại đến? Cô hãy trả lời đi! Trả lời ngay - Tôi la lớn, không còn tự kìm chế
được nữa - À, tôi xin trả lời thay cô nhé! Cô đến bởi vì hôm đó tôi đã nói cho cô nghe những
lời cảm động. Cô mủi lòng và cô muốn được nghe thêm. Nhưng cô nên biết rằng, hôm đó,
tôi chẳng coi cô ra cái đếch gì hết. Hôm nay tôi cũng chẳng coi cô ra cái đếch gì nốt (…).
Người ta đối xử với tôi như miếng giẻ rách thì tôi cũng muốn tỏ ra cái uy quyền của tôi…
Còn cô, cô cứ tưởng tôi đến để thực tình cứu vớt cô, có phải không? Có đúng như vậy
không? Cô đã tưởng thế chứ gì?”.
Nhờ vào quá trình tự truy bức mình đến tận cùng ấy, tôi đã kết luận được về tôi: “Tôi
thì tôi biết chắc tôi là đứa vô liêm sỉ, một thằng khốn nạn, một tên lười biếng, một quân đại
ích kỷ (…). Tôi rất xấu hổ vì tôi nghèo. Tôi xấu hổ và sợ nó hơn hết thẩy mọi thứ trên đời,

còn sợ hơn là ăn cắp, bởi vì tôi hợm mình, tôi tự cao tự đại…”.
Và, tôi tuyên bố: “Tôi có thể bán hết cái vũ trụ này đi lấy một copêc, miễn là người ta
để cho tôi yên. Phải chọn hoặc là thế giới tiêu diệt, hoặc là tôi không được ngồi yên, uống
trà, thì tôi nói cho mà biết đây này: Thế giới cứ việc tiêu diệt hết mẹ nó đi, miễn là tôi vẫn
được ngồi yên uống trà”.
Có thể nói, trong suốt 40 năm trời sống trong nhà hầm, nhìn ra ngoài từ khe vách
nhỏ tôi đã lắng nghe, đã đấu tranh, vật lộn với những tiếng nói trong tâm trí mình. Đó là
tiếng nói của một kẻ thông minh, có khát vọng sống, bảo vệ nhân cách, nhưng bất lực, trở
nên hằn học với người đời, với chính mình. Đó cũng là tiếng nói ngạo ngược với mình, với
đời, với xã hội. Đúng như Stefan Zweig nhận định: “Những nhân vật của Dostoievski
không tìm và không tìm thấy thái độ của mình trước cuộc sống thực tại. Họ tuyệt đối không
muốn thâm nhập vào hiện thực, ngay khi mới đến gần, họ đã muốn vượt qua, vượt lên cái vô
tận”
(8)
.
Nỗi đau khổ triền miên của nhân vật không tên trong Bút ký dưới hầm đã mở đầu cho
kiểu nhân vật tự ý thức sau này. Hằn vết trong nhân vật tự ý thức Raxconicov (Tội ác và
trừng phạt) là rãnh sâu hèn mọn từ nhân vật không tên: “Anh giết không phải anh cần tiền,
Xonya ạ… anh cần biết… xem anh có phải là một con rận như mọi người khác, hay là một
con người? Anh có thể vượt qua trở lực hay không? Anh có dám cúi mình xuống nắm lấy
quyền lực hay không? Anh là con sâu bọ run rảy, hay là kẻ có quyền?”
(9)
.
Dostoievski đã sáng tạo ra kiểu nhân vật tự thú từ Bút ký dưới hầm. Cùng với thời đại,
ông lên tiếng vì con người và khám phá những bí ẩn trong con người. Bằng hình thức tự thú,
tác giả đã đẩy nhân vật đến tột cùng của xấu xa, ích kỷ. Có chút tốt đẹp nào muốn ẩn náu
cũng không còn chỗ mà ẩn náu nữa. Nó bị lôi ra, bị phanh phui, bị bóp chết bởi chính
cái “đại ích kỷ” của nhân vật, bởi ý muốn tuyệt đối hóa tự do cá nhân, thích làm gì thì làm,
tự cho phép mình có quyền tất cả của nhân vật. Mặc dù có quyền như thế, nhưng, nhân vật
của ông là kẻ đáng thương và bất hạnh trong xó hầm tối tăm, tù hãm. Với ý nghĩa đó, theo L.

Grôxman, Dostoievski là người đầu tiên đưa ra “tính bi kịch của tầng hầm, tính bi kịch tạo
nên trong nỗi đau khổ trong sự tự sát, trong sự nhận thức về cái tốt đẹp, trong sự nhận thức là
không thể nào đạt được cái tốt đẹp đó…”
(10)

________________
(1) L. Groxman: Dostoievski - Cuộc đời và sự nghiệp. Nxb. Văn hóa, H. 1998, tr.399.
(2) F. Dostoievski: Bút ký dưới hầm. Văn học nước ngoài, số 1-1998, tr.6.
(3), (4), (5) L. Groxman: Dostoievski - Cuộc đời và sự nghiệp, Sđd, tr.94.
(6) B.P. Vicheslavtrev: Đi tìm tính cách Nga. Văn học nước ngoài, số 5-2002, tr.187.
(7) M. Bakhtin: Những vấn đề thi pháp Doxtoiepxki. Nxb. Giáo dục, H, 1993, tr.17, 18.
(8) Stefan Zweig: Ba bậc thầy. Nxb. Giáo dục, H, 1996, tr.47.
(9) F. Dostoievski: Tội ác và trừng phạt (Hai tập). Nxb. Văn học, H, 2000, tr.216.
(10) L. Groxman: Dostoievski - Cuộc đời và sự nghiệp. Sđd, tr.403.
Tạp chí Nghiên cứu văn học số 3.2008
Ý kiến của bạn về bài viết
Tên người gửi:
Email:
Địa chỉ:
Nội dung :

×