Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (139.96 KB, 4 trang )
U HẠT VÀNG TUỔI TRẺ
(Juvenile Xanthogranuloma)
U hạt vàng tuổi trẻ là bệnh chủ yếu xuất hiện ở trẻ nhũ nhi và trẻ em,
thường không triệu chứng cơ năng, tự lành, lành tính, đặc trưng bởi những sẩn và
nốt vị trí ở da, mắt, nội tạng màu đỏ đến vàng gồm các mô bào (histiocytic). Bệnh
là dạng thường gặp nhất của non–Langerhans cell histiocytosis.
Adamson mô tả lần đầu tiên u hạt vàng tuổi trẻ trong y văn tiếng Anh vào
năm 1905. Đó là một trẻ có nhiều sẩn màu vàng trắng trong 2 tuần đầu tiên của
cuộc đời. Ông đặt tên là u vàng bẩm sinh.
Năm 1912, McDonagh đã xem xét lại ca bệnh đầu tiên và đặt tên lại là
nevoxanthoendothelioma. Năm 1954, Helwig và Hackney đặt tên là u hạt vàng
tuổi trẻ (juvenile xanthogranuloma). Laurb và Lain lần đầu tiên ghi nhận u hạt
vàng tuổi trẻ với tổn thương nội tạng vào năm 1937. Blank và cộng sự lần đầu tiên
mô tả tổn thương mắt vào năm 1949.
Dịch tễ học
Chủng tộc: bệnh xuất hiện ở người da trắng nhiều hơn gấp 10 lần ở người
Mỹ gốc Phi.
Giới: ở trẻ em, u hạt vàng tuổi trẻ gặp nhiều hơn ở nam (tỷ lệ 1,4/1). Ở
người lớn, tỷ lệ này ngang nhau. Thể tổn thương da nhiều gặp chủ yếu ở nam (tỷ
lệ 12/1).
Tuổi: khoảng 35% trường hợp u hạt vàng tuổi trẻ xuất hiện lúc sinh,
khoảng 71% xuất hiện trong năm đầu tiên. Tuổi khởi phát trung bình là 22 tháng.
Khoảng 10% trường họp biểu hiện ở người lớn.
Nguyên nhân:
Lâm sàng
Vị trí tổn thương ở da: ở bất kỳ vị trí nào; thường gặp ở đầu, cổ, sau đó là
thân người, tay, chân. Hiếm khi tổn thương xuất hiện ở niêm mạc, bàn tay, bàn
chân.
Tổn thương da có hai dạng: sẩn và nốt. Dạng sẩn gồm nhiều sẩn chắc, mịn,
kích thước 2-5mm, màu đỏ đến nâu, sau đó nhanh chóng chuyển thành màu vàng.
Dạng nốt ít gặp hơn, gồm những nốt đàn hồi, trong mờ, kích thước 0,5-2cm, màu